CẶP MẮT NHÌN THẤY ĐƯỢC PHONG BA
Họ đứng lặng thinh trong cảnh tranh tối tranh sáng. Đâu đó bên ngoài tảng đá, sấm sét vẫn đang gầm vang. Những ngọn đuốc bập bùng cháy và tỏa khói trên tường.
Bran cất giọng khàn khàn hỏi: “Người đó có phải là... là...”
“Không” ông Merriman đáp. “Hắn không phải là Vua Xám. Nhưng hắn là một kẻ thuộc hạ rất thân tín của Vua Xám, bây giờ thì hắn đã quay về với chủ nhân mình. Và cơn thịnh nộ của chúng sẽ càng lớn thêm lên, bởi vì nó đã được nỗi khiếp sợ mài sắc, khiếp sợ những gì mà Ánh Sáng có khả năng thực hiện, nhờ vào Linh Vật Quyền Lực mới có được này.” Ông quay sang nhìn Will, khuôn mặt xương xương đầy căng thẳng vì lo lắng. “Đoạn khởi đầu đầy gian nan của cuộc hành trình này đã được hoàn thành, Cổ Nhân ạ, nhưng sẽ còn những mối hiểm nguy khác lớn hơn sắp đến.”
“Những Người Say Ngủ phải được đánh thức” Will nói.
“Đúng vậy. Và mặc dù chúng ta chưa biết họ đang nằm ngủ ở đâu, và sẽ không biết chừng nào cậu chưa tìm được họ, có một điều chắc chắn là họ đang ở rất gần Vua Xám, gần vô cùng, gần một cách đáng sợ. Từ lâu chúng ta đã biết phải có lý do gì thì bàn tay lạnh giá của hắn mới siết chặt vùng đất này như vậy, tuy nhiên chúng ta không hiểu được cụ thể tại sao. Nơi này đã luôn là một thung lũng yên bình tươi đẹp; thế nhưng hắn lại đặt vương quốc của mình ở đây, chứ không phải là một nơi u ám xa xăm nào đó, giống như phần lớn những kẻ đồng đảng của hắn vẫn chọn. Giờ thì rõ ràng là chỉ có một lý do duy nhất giải thích được điều này: hắn muốn ở gần nơi những Người Say Ngủ đang ngủ, giữ cho nơi an nghỉ của họ nằm trong quyền kiểm soát của hắn. Cũng như mỏm đá vĩ đại Craig yr Aderyn này vẫn đang nằm trong quyền kiểm soát của hắn vậy…”
Will lên tiếng, gương mặt tròn trịa của cậu đầy nghiêm nghị, “Lời thần chú bảo vệ giúp chúng cháu đến được đây an toàn giờ đã tan biến rồi. Và nó chỉ có thể được thực hiện một lần mà thôi.” Cậu rầu rĩ nhìn Bran “Bọn mình mà đặt chân ra ngoài kia là sẽ nhận được một cuộc chào đón hay ho lắm cho mà xem.”
“Đừng lo, Cổ Nhân. Cậu sẽ có được sự hộ vệ mới”
Những lời nói nhẹ nhàng trầm trầm ấy vừa vang lên từ đầu gian sảnh. Khi quay lại, Will trông thấy vị chúa tể có bộ râu bạc, trong chiếc áo choàng xanh biếc như nước biển mùa hạ, đã ngồi lại trên ngai, chìm vào bóng tối. Khi người cất tiếng, gian phòng dường như sáng dần lên; lửa trên những bó đuốc bốc cao hơn, và giờ Will đã thấy được những thanh gươm dài treo trên mặt tường đá, tỏa sáng lấp lánh giữa các ngọn đuốc.
“Tiếng nhạc của cây đàn hạc,” vị chúa tể mặc áo màu nước biển nói, “có một quyền lực mà cả Bóng Tối lẫn Ánh Sáng đều không thể phá hủy nổi. Nó chứa đựng trong mình Pháp Thuật Tối Cao, và trong khi cây đàn đang được chơi thì những người được nó bảo hộ sẽ không thể bị ai hãm hại, không bị lời nguyền nào đụng tới. Hãy chơi cây đàn hạc vàng, Cổ Nhân. Tiếng nhạc của nó sẽ bao bọc các vị bằng sự an toàn chắc chắn.”
Will chậm rãi nói, “Tôi có thể chơi nó bằng phép thuật, nhưng tôi nghĩ nó nên được chơi bằng những ngón tay khéo léo và tài giỏi thì hơn. Tôi không biết chơi đàn hạc, thưa ngài.” Cậu ngừng lại. “Nhưng Bran thì biết.”
Bran cúi xuống nhìn cây đàn khi Will chìa món nhạc cụ ấy ra trước mặt nó.
“Nhưng mà tớ chưa bao giờ chơi một cây đàn hạc như thế này cả,” nó nói.
Nó đón lấy cây đàn từ tay Will. Khung đàn mảnh dẻ nhưng được trang trí rất tinh xảo, với một sợi dây leo bằng vàng có những chiếc lá và hoa cũng bằng vàng quấn quanh, đan cài giữa các dây đàn. Ngay cả các dây đàn nom cũng như được làm bằng vàng.
“Hãy chơi đi, Bran,” vị chúa tể có râu khẽ nói.
Bran ôm thử cây đàn vào chỗ khoeo tay trái và nhẹ nhàng đưa ngón tay lướt qua các sợi dây đàn. Âm thanh vang lên từ những sợi dây đàn ấy ngọt ngào đến nỗi Will đang đứng cạnh phải nghẹt thở vì kinh ngạc; cậu chưa bao giờ nghe được những nốt nhạc vừa êm ái lại vừa vang vọng như thế, tiếng nhạc tràn ngập khắp căn phòng như bài ca du dương của những con chim mùa hè. Một cách chăm chú, say mê, Bran bắt đầu gảy những nốt nhạc ai oán của một bài hát ru cổ xứ Wales, rồi từ từ trau chuốt hơn, đệm thêm vào cho bản nhạc, trong khi những ngón tay lướt trên dây đàn của nó đã trở nên tự tin. Will ngắm cái vẻ tận tụy miệt mài của một nhạc công trên mặt nó. Khi đưa mắt liếc nhìn vị chúa tể ngồi trên ngai và ông Merriman, cậu biết họ cũng đang say sưa lắng nghe, được đưa ra khỏi cõi thế bởi một tiếng nhạc siêu phàm đang vang lên như một bài ca thần kỳ của Pháp Thuật Tối Cao.
Cafall không kêu một tiếng nào, chỉ tựa mình vào đầu gối Bran. Merriman cất tiếng nói, chất giọng trầm của ông nhẹ nhàng vang lên bên trên tiếng nhạc, “Hãy lên đường đi, Cổ Nhân.” Cặp mắt sâu, thâm quầng của ông thoáng nhìn thẳng vào mắt Will, truyền cho cậu niềm tin và hy vọng mãnh liệt. Will nhìn quanh mình trong một khoảnh khắc cuối cùng, ngắm gian sảnh cao thắp sáng bằng đuốc, với dáng người trong chiếc áo choàng màu sẫm đứng vươn thẳng như một thân cây, và vị chúa tể vô danh có chòm râu, đang ngồi bất động trên ngai. Rồi cậu quay đi và đưa Bran, tay vẫn đang nhẹ nhàng gẩy một khúc nhạc trên cây đàn, về phía cái cầu thang hẹp bằng đá dẫn lên căn buồng nơi chúng đã đến. Khi đã đẩy Bran trèo lên trước rồi, cậu liền quay lại, giơ một tay lên chào, rồi đi theo Bran.
Bran đứng trong căn buồng bằng đá ở trên, vẫn tiếp tục chơi đàn, trong khi Cafall và Will đi lên bên cạnh nó. Và cùng với tiếng nhạc của nó, trên bức tường trống ở cuối phòng, bên dưới tấm khiên vàng, bỗng hiện ra hai cánh cửa lớn mà qua đó chúng đã bước vào trong lòng Mỏm đá Tổ chim.
Tiếng nhạc của cây đàn nhịp nhàng luyến láy chuyển sang âm vực cao hơn, và hai cánh của chậm rãi mở vào phía trong. Bên ngoài, chúng nhìn thấy bầu trời đầy mây xám xịt giữa hai vách đá dốc đứng của khe hở giữa mỏm núi. Mặc dù trên núi không còn lửa cháy nữa, trong không khí vẫn nồng nặc một mùi tro tàn khét lẹt. Khi hai đứa bước ra ngoài, Cafall liền vượt lên trước, lao qua kẽ nứt, rồi biến mất. Sợ lại bị lạc mất chú chó lần nữa, Bran vội ngừng chơi. “Cafall! Cafall!” nó gọi.
“Nhìn kìa!” Will khẽ bảo.
Cậu đang quay nửa người để nhìn lại phía sau. Đằng sau chúng, hai phiến đá cao lặng lẽ khép lại với nhau, nom như đang tan biến đi, chỉ để lại một mặt đá dầu mưa dãi nắng, vẫn y nguyên như vậy từ hàng ngàn năm nay. Và trong không gian lại văng vẳng một đoạn nhạc êm ái đang dần biến mất. Nhưng Bran thì chỉ nghĩ đến Cafall mà thôi. Sau khi liếc nhìn phiến đá một cái, nó kẹp cây đàn hạc vào dưới cánh tay rồi lao xuống khoảng trống nơi chú chó vừa chạy mất.
Nhưng nó chưa chạy đến nơi thì một mảng trắng đã điên cuồng lao vào chúng giữa một đám tro bụi bốc lên dày đặc như mây, vừa đá vừa đẩy Bran sang một bên, mạnh đến nỗi suýt nữa nó đánh rơi cây đàn. Đó là Cafall; nhưng là một Cafall dữ tợn hung hãn, đã thay đổi hẳn, nó gầm gừ với chúng, mắt long lên sòng sọc, đẩy chúng vào sâu hơn bên trong khe hở, như thể chúng là kẻ thù của nó vậy. Chỉ một thoáng sau, nó đã dồn được hai thằng bé đang còn choáng váng vào sát vách đá, và khom mình trước mặt chúng, hai chiếc nanh dài nhe ra đầy đe dọa một cách lạnh lùng.
“Cái gì thế?” Bran ngây người hỏi ngay khi nó có đủ hơi sức để thốt lên thành lời. “Cafall? Cái quái gì...”
Và ngay lập tức chúng biết - hoặc là sẽ biết, nếu như chúng vẫn còn có đủ thời gian để suy nghĩ. Bởi vì bất thình lình cả thế gian xung quanh chúng bỗng biến thành một trận bão đầy những âm thanh gầm rú và sự tàn phá. Những cành cây gãy bị cháy thành than lao xuống qua đỉnh khe núi; sỏi đá không hiểu từ đâu bỗng lở ra, lăn lông lốc, khiến chúng phải chúi xuống theo bản năng, tay đưa lên che đầu. Chúng ngã sấp xuống đất, người ép vào góc chéo giữa mặt đất và vách đá, với Cafall nằm sát bên cạnh. Xung quanh chúng, gió gào thét đập vào đá, tạo thành một âm thanh nghe như tiếng rú của một kẻ điên, được phóng to lên đến mức không sao tưởng tượng nổi. Dường như toàn thể không khí trên xứ Wales đều bị dồn vào một cơn lốc có sức hủy diệt khủng khiếp, và giờ đây cơn lốc ấy đang đập vào khe hở hẹp, chỗ trú ẩn của chúng, với một cơn thịnh nộ bất lực, cuồng dại.
Will bò dậy, chống bằng tay và đầu gối. Một tay cậu đưa ra mò mẫm cho đến khi túm được cánh tay của Bran. “Cây đàn!” cậu gắng gượng kêu lên. “Chơi đàn đi!”
Bran trố mắt nhìn cậu, choáng váng vì tiếng ầm ĩ trên đầu, nhưng rồi nó cũng hiểu ra. Nó cố chống lại cơn lốc đáng sợ đang xuyên qua hai vách đá, ngồi dậy, rồi áp cây đàn hạc vào bên mình và run rẩy đưa bàn tay phải lướt qua các dây đàn.
Ngay lập tức những tiếng ồn nhỏ hẳn lại. Bran bắt đầu chơi, và khi những nốt nhạc du dương vang lên như tiếng hót của con chim chiền chiện, thì trận cuồng phong yếu dần rồi tắt hẳn. Bên ngoài chỉ còn nghe thấy những viên sỏi lăn lạch cạch xuống vách đá. Trong thoáng chốc, một tia nắng đơn độc chiếu xiên xuống, sáng lung linh trên khung đàn vàng rực. Rồi tia nắng cũng biến mất, bầu trời trở nên u ám hơn, thế gian trở nên ảm đạm hơn. Cafall lồm cồm bò dậy, liếm tay Bran, rồi ngoan ngoãn dẫn hai đứa xuống con dốc nằm ngoài khe đá hẹp đã che chắn cho chúng khỏi trận phong ba khủng khiếp kia. Một trận mưa đã bắt đầu nhẹ nhàng đổ xuống trên đầu chúng. Những ngón tay của Bran lướt đi một cách lơ đãng trên dây đàn, nhưng không hề ngừng lại. Nó không bao giờ còn có ý định ngừng chơi nữa. Nó đưa mắt nhìn Will, rồi lặng lẽ lắc đầu với một vẻ pha trộn giữa ngạc nhiên, hối hận và dò hỏi.
Will ngồi xổm xuống đưa hai tay ôm lấy mõm Cafall. Cậu khẽ lắc lắc đầu con chó. “Cafall, Cafall” cậu thốt lên, đầy băn khoăn kinh ngạc. Cậu ngoái lại qua vai và nói với Bran, “Gwynt Traed y Meirw, có phải nói thế không nhỉ? Vua Xám đã phái cơn gió bấc của hắn ào đến chỗ bọn mình với tất cả sức mạnh cổ xưa của nó, cơn gió thổi quanh chân người chết, và chắc hẳn bọn mình đã bị thổi bật đến chỗ người chết rồi, nếu không có Cafall - bọn mình sẽ bị đẩy vào một khoảng thời gian nơi không ai tìm tới được. Bọn mình chưa kịp nhìn thấy một cái cây cúi rạp xuống thì cơn lốc ấy đã kéo đến đây, bởi vì nó bắt nguồn từ một nơi rất cao, không cặp mắt người trần nào nhìn thấy được. Nhưng con chó của cậu là con chó có cặp mắt bạc, con chó có thể nhìn thấy trận phong ba... Vậy là nó đã nhìn thấy cơn gió, biết cơn gió sẽ làm gì, và đẩy bọn mình về nơi an toàn.”
Bran nói vẻ biết lỗi, “Nếu tớ không ngừng chơi thì có lẽ Brenin Llwyd đã không cử cơn gió ấy đến. Phép thuật của cây đàn hạc sẽ ngăn được hắn.”
“Có lẽ vậy,” Will đáp. “Nhưng cũng có lẽ là không phải.” Cậu vuốt ve đầu Cafall một cái nữa rồi đứng dậy. Chú chó chăn cừu màu trắng ngước lên nhìn Bran, lưỡi thè lè ra như đang mỉm cười, và Bran ấu yếm bảo nó,“Rwyt tin gi da (), Giỏi lắm.” Nhưng những ngón tay của thằng bé vẫn không ngừng gảy những sợi dây đàn.
(*) Tiếng Wales. Chó ngoan lắm
Chúng chậm chạp lần tìm đường xuống vách đá. Mặc dù bây giờ đã là giữa buổi sáng, bầu trời không quang quẻ hơn chút nào, vẫn xám xịt, nặng trĩu mây đen; mưa mới chỉ lắc rắc, nhưng rõ ràng là sẽ trở nên nặng hạt hơn và kéo dài suốt cả ngày, nhu vậy có nghĩa là thung lũng không còn bị đám cháy nào đe doạ dọa nữa. Tất cả các sườn núi gần đó cũng như Mỏm đá Tổ chim và phía bên thung lũng đều cháy xém, đen nhẻm, đây đó vài cuộn khói vẫn còn bốc lên. Nhưng mọi tàn lửa đã bị dập tắt, tro than đã ướt sũng, nguội lạnh, và từ giờ cho đến hết năm vùng nông thôn xanh tươi này sẽ không bao giờ còn khô đến mức bị cháy được nữa.
Bran hỏi, “Có phải cây đàn hạc đã đem mưa đến không?”
“Tớ đoán là vậy,” Will đáp. “Tớ chỉ mong là nó sẽ không đem thêm cái gì đến nữa thôi. Pháp Thuật Tối Cao rắc rối như thế đấy, giống như nói bằng Cổ Ngữ vậy - nó là sự bảo hộ, nhưng nó cũng đánh dấu ta, làm cho ta dễ bị phát hiện hơn.”
“Bọn mình sắp xuống đến thung lũng rồi.” Nhưng Bran vừa dứt lời thì bị trượt chân trên một mặt đá ướt, nó loạng choạng sang một bên, phải bám vào một bụi cây cho khỏi ngã - và đánh rơi chiếc đàn. Đúng lúc tiếng nhạc ngưng bặt thì Cafall ngẩng phắt đầu lên, nó bắt đầu sủa dữ dội, nửa tức giận, nửa như thách thức ai. Nó nhảy lên một mỏm đá nhô ra và đứng đó thủ thế, mắt nhìn xung quanh. Rồi đột nhiên tiếng sủa của nó chuyển thành một tiếng hú trầm trầm đáng sợ, như tiếng hú của một con chó săn, và nó nhảy phóc đi.
Con cáo xám lớn, đầu đàn của bầy milgwn, xoay ngoắt lại giữa không trung và rú lên như một con chồn cái. Nó đã lao xuống đầu chúng từ bên trên Mỏm đá Tổ chim, nhằm thẳng vào đầu và cổ Bran. Nhưng cú nhảy dữ dằn của Cafall đã làm nó bất ngờ, rồi bị mất thăng bằng vừa đủ để khiến nó xoay tít sang một bên và lăn lông lốc xuống nền đá. Nó lại rú lên, một âm thanh quái dị khiến hai thằng bé kinh hoàng lùi lại, nhưng con vật không quay về phía chúng nữa, mà cuống cuồng phóng xuống núi. Ngay lập tức Cafall đắc thắng sủa lên một tiếng sung sướng và đuổi theo nó.
Will, đang đứng trên phiến đá trống trải dưới màn mưa bụi xám, bỗng linh cảm thấy rằng sắp có tai họa xảy ra, một linh cảm vô cùng mạnh mẽ đến nỗi không kịp suy nghĩ gì, cậu đưa tay ra chộp lấy cây đàn hạc vàng, và hét bảo Bran, “Gọi Cafall lại đi! Gọi nó lại ngay! Gọi nó lại ngay!”
Bran hoảng hốt nhìn cậu. Rồi nó xông theo Cafall, vừa chạy vừa vấp, tuyệt vọng cất tiếng gọi chú chó quay về. Với cây đàn hạc kẹp dưới cánh tay, chân loạng choạng chạy xuống sườn núi đá, Will thấy mái tóc trắng của thằng bé lao qua cánh đồng ngay cạnh đó, và ở đằng xa là một vệt mờ đang vùn vụt phóng đi, cậu biết đó là Cafall đang đuổi theo con cáo xám. Vì vẫn còn đang ở trên sườn núi cao nên cậu có thể thấy được quá mái nhà ở trang trại của Caradog Prichard một khoảng cách bằng hai cánh đồng, ở gần đó là một bầy cừu màu trắng xám và lố nhố mấy bóng người. Rồi cậu bất thần đứng phắt lại. Cây đàn hạc! Lỡ có ai nhìn thấy cây đàn thì biết giải thích thế nào đây? Chỉ một lát nữa thôi là cậu sẽ chạy xuống chỗ những người kia. Cậu phải giấu cây đàn hạc vào đâu đó. Nhưng ở đâu mới được chứ?
Cậu lo lắng nhìn khắp xung quanh. Lửa đã không chạm tới được thửa ruộng này. Ở đầu bên kia cánh đồng, cậu nhìn thấy một căn chái nhỏ, chỉ có ba bức tường đá và một cái mái bằng đá phiến, dùng làm chỗ trú cho cừu tránh rét, hoặc là chỗ chứa thức ăn dự trữ cho mùa đông. Trong đó đã chất đầy những kiện cỏ khô mới được xếp vào. Will chạy tới đó và nhét cây đàn hạc nhỏ lấp lánh vào giữa hai kiện cỏ, để từ ngoài nhìn vào không ai có thể thấy được. Rồi cậu lùi lại, chìa tay ra và dùng Cổ Ngữ để đặt câu chú Caer Caradawg lên cây đàn, với bùa chú đó chỉ giọng hát của một Cổ Nhân mới có thể lấy cây đàn ra khỏi nơi ấy, hoặc thậm chí là khiến nó hiện hình.
Rồi cậu băng qua thửa ruộng về phía Trang Trại Prichard, nơi những tiếng hò hét vang lên chứng tỏ cuộc săn đuổi đã kết thúc. Cậu có thể trông thấy trên đồng cỏ đằng sau các căn nhà trại, con cáo xám đang chạy vòng vèo, nhảy vọt lên hòng thoát được khỏi Cafall đang bám sát phía sau, còn Cafall thì vẫn gan lì đuổi theo. Con cáo như đã hóa dại, miệng nó sùi bọt trắng. Will hổn hển chạy vào sân trang trại thì thấy Bran đang cố thoát ra khỏi một đám người lẫn với cừu đứng ở cổng. Trong số đó có John Rowlands, và Owen Davies, cả dượng của cậu nữa; quần áo cùng với gương mặt mệt mỏi của họ vẫn còn đen nhẻm tro than sau cuộc dập lửa, còn Caradog Prichard thì đang đứng cau có với khẩu súng đã lên cò, kẹp dưới cánh tay.
“Con chó chết tiệt ấy hóa dại rồi!” lão ta gầm lên.
“Cafall! Cafall!” Bran cứ thế xông thẳng vào cánh đồng, chẳng để ý đến ai hết, làm bầy cừu chạy tán loạn. Lão Prichard gầm gè với nó, còn ông Owen Davies thì giật giọng, “Bran! Con vừa ở đâu về? Con định làm gì thế?”
Con cáo xám nhảy vọt lên trong không trung, như nó đã nhảy lúc trước trên Mỏm đá Tổ chim. Cafall nhảy theo, miệng táp táp về phía nó.
“Con chó điên thật rồi,” ông David Evans rầu rĩ nói. “Nó sẽ lao vào đám cừu mất...”
“Nó chỉ muốn đuổi con cáo ấy cho bằng được thôi mà!” Giọng Bran lạc đi vì đau khổ. “Cafall! Tyrd yma! Đừng đuổi nữa!”
Dượng của Will nhìn Bran như thể ông không tin nổi vào tai mình. Rồi ông cúi xuống nhìn Will. Ông bối rối hỏi, “Con cáo nào cơ?”
Nỗi khiếp đảm nổ tung trong đầu Will, đội nhiên cậu bỗng hiểu ra, và cậu thét lên. Nhưng đã quá muộn. Con cáo xám trên đồng quay ngoắt lại và lao thẳng về phía họ, với Cafall bám sát phía sau Vào đúng lúc cuối thì con cáo lại vòng sang bên và nhảy xổ đến chỗ một con cừu đang hoảng hốt chạy quanh cổng, hàm răng sắc của nó cắm ngập vào cái họng đầy lông mịn của con cừu. Con cừu rống lên.
Cafall lao vào con cáo. Cách đó hai mươi bước Caradog Prichard thét lên một tiếng giận dữ, nâng khẩu súng lên và bắn thẳng vào ngực Cafall.
“Cafall!” Tiếng kêu đầy yêu thương và kinh hoàng của Bran đập vào tai Will, khiến cậu phải nhắm mắt lại trong giây lát vì thương xót; cậu biết nỗi đau đớn trong tiếng kêu ấy sẽ còn lại mãi mãi trong tâm trí cậu.
Con cáo xám đứng đợi Will nhìn về phía nó, răng nhe ra, cái lưỡi đỏ thè lè bên ngoài cái miệng còn đỏ hơn nữa vì máu đang nhỏ xuống tong tỏng. Nó nhìn thẳng vào cậu với cái gầm gừ đầy nhạo báng không thể nhầm lẫn được. Rồi nó lao qua cánh đồng, mình thẳng băng như một mũi tên, và biến mất đằng sau hàng rào ở đầu bên kia. Bran đang sụp xuống bên chú chó, khóc nức nở, ôm cái đầu trắng muốt của nó trong lòng mình. Nó tuyệt vọng cất tiếng gọi Cafall, vuốt ve đôi tai, áp má mình vào cái cổ phủ lông mượt, những mong có thể cứu sống chú chó. Nhưng chẳng còn làm gì được nữa rồi. Ngực chú chó đã bị bắn nát. Cặp mắt bạc mở trừng trừng, mờ đục. Cafall đã chết.
“Con chó rồ dại khát máu khốn nạn!” Prichard vẫn còn đang điên tiết đến mức nói lảm nhảm, với một vẻ thỏa mãn man rợ. “Giờ thì nó không còn cắn chết cừu của ta được nữa! Thế là rảnh nợ!”
“Nó chỉ đuổi theo con cáo thôi mà. Nó đang cố cứu mấy con cừu già của ông đấy chứ!” Bran nghẹn lời, nước mắt lại trào ra.
“Mày nói cái gì thế? Cáo ấy à? Chết tiệt, thằng nhóc kia, mày cũng điên như con chó của mày rồi.” Prichard gỡ vỏ đạn ra khỏi khẩu súng, bộ mặt phì phị của lão đầy vẻ khinh bỉ.
Owen Davies quỳ xuống bên cạnh Bran. “Thôi nào, bachgen,” ông dịu dàng nói. “Có con cáo nào đâu. Cafall đang tấn công lũ cừu, không còn nghi ngờ gì nữa. Tất cả chúng ta đều nhìn thấy. Nó là một con chó rất ngoan, rất đẹp” - giọng ông hơi run run, và ông khẽ đằng hắng - “nhưng chắc là nó đã bị dại. Nếu bố ở vào địa vị ông Caradog thì bố không thể nói là bố sẽ không bắn nó được. Đó là điều đúng đắn. Một khi con chó đã hóa dại, thì đó là điều duy nhất chúng ta có thể làm.”
Ông vòng tay ôm chặt lấy vai Bran. Bran ngước lên nhìn tất cả bọn họ, mò mẫm kéo cặp kính xuống và đưa tay lên dụi mắt. Nó hỏi, giọng cao hẳn lên, một cách kinh ngạc, “Chẳng ai trong số các người trông thấy con cáo ư? Con cáo xám to đùng đúng lúc nó xông đến chỗ bầy cừu thì Cafall đã nhảy vào ấy”
John Rowlands lắc đầu, giọng ông trầm xuống, đầy thương cảm, “Không, Bran ạ.”
“Không có con cáo nào hết, Bran à,” David Evans nói. “Bác rất tiếc, bach ạ. Thôi đi nào. Đi với bố cháu về Clwyd đi. Các bác sẽ đưa Cafall về sau”
“À,” Prichard khịt mũi nói. “Bọn mày có thể đem cái xác thối ấy ra khỏi sân của ta sớm chừng nào hay chừng ấy, phải. Và trả hóa đơn của bác sĩ thú y khi ta đem con cừu đi chữa vết thương nữa.”
"Cae dy geg Caradog Prichard," duợng của Will quát. “Rồi chúng ta sẽ bàn đến chuyện cừu bị tấn công sau. Ông cũng phải có chút thông cảm với thằng bé chứ.”
(*) (Câm mồm đi),
Caradog Prichard nhìn ông, cặp mắt ti hí sáng quắc nhưng vô cảm. Lão ra hiệu cho một người làm công của mình đem con cừu đi. Rồi lão dửng dưng nhổ toẹt một cái lên sân, trước khi đi vào nhà. Một người phụ nữ đang đứng trên ngưỡng cửa. Từ lúc tất cả những việc này xảy ra, bà vẫn chưa hề nhúc nhích. Bố của Bran đỡ nó dậy rồi dẫn nó đi. Bran có vẻ vẫn còn bị sốc. Nó đờ đẫn nhìn Will, như thể cậu không có mặt ở đó vậy.
Ông David Evans buồn bã nói, “Đợi một lát. Trong xe có mấy chiếc bao tải. Tôi sẽ đi lấy.”
John Rowlands đứng bên cạnh Will dưới màn mưa bụi, miệng bập bập một chiếc tẩu không, trầm ngâm nhìn xuống tấm thân trắng bất động với vết thương đỏ lòm, há hoác trên ngực. Ông hỏi, “Thế cháu có nhìn thấy con cáo ấy không, Will Stanton?”
“Có ạ” Will nói. “Tất nhiên là có. Nó chạy trước chúng cháu, rõ ràng như bác đang đứng trước mặt cháu bây giờ ấy. Nó đã định tấn công bọn cháu trên Mỏm đá Tổ chim, và Cafall đuổi nó xuống đây. Nhưng không ai trong số các bác lại nhìn thấy nó. Vậy là sẽ không ai tin bọn cháu, phải không ạ?”
John Rowlands lặng thinh trong giây lát, khuôn mặt nhăn nheo của ông không sao dò thấu nổi. Rồi ông nói, “Đôi khi ở vùng núi này có những điều rất khó tin, ngay cả khi ta đã tận mắt nhìn thấy. Ví dụ, Cafall kia, chính mắt chúng ta đã nhìn thấy chỉ có một mình nó lao vào bầy cừu. Và đúng là có con vật gì đó đã cắn cổ con cừu, và hẳn là khi làm vậy miệng nó cũng phải đẩy máu, bởi vì khắp bộ lông con cừu đều đầy máu, may mà nó vẫn còn sống sót. Thế nhưng đó thật là một điều kỳ lạ, mà bác không sao dứt ra khỏi đầu được - đó là mặc dù Cafall tội nghiệp đang nằm kia trong vũng máu từ vết thương trên bộ ức bị bắn nát, miệng nó lại không có một chút máu nào.”