← Quay lại trang sách

PHẦN HAI NHỮNG NGƯỜI SAY NGỦ CÔ GÁI ĐẾN TỪ RẶNG NÚI

Will hỏi, “Cháu xin lỗi, chú Davies, Bran đã đi học về chưa ạ?”

Ông Owen Davies giật mình đứng dậy. Ông đang cúi người bên động cơ của chiếc máy kéo trong một gian nhà phụ của trang trại; mái tóc thưa rối bù và mặt ông dính đầy dầu mỡ.

“Cháu xin lỗi,” Will vội nói. “Cháu đã làm chú giật mình.”

“Không, không đâu cháu ạ, không sao đâu. Có lẽ chỉ vì chú đang mải nghĩ đến những chuyện khác ngoài cái đầu máy này thôi...” Ông nhăn mặt một cái vẻ xin lỗi, đó dường như là vẻ mặt gần với nụ cười nhất mà ông có được. Mọi đường nét trên gương mặt xương xương của ông đều như chẳng biểu hiện gì hết, Will thầm nghĩ: luôn luôn vô cảm, lúc nào cũng vậy. “Ờ, Bran đi học về rồi. Chú nghĩ nó đang ở trong nhà ấy. Hoặc là ở trên chỗ...” Giọng nói khẽ khàng, lo lắng của ông nhỏ dần rồi ngưng bặt lại.

Will nhẹ nhàng đỡ lời, “Ở chỗ Cafall ạ.” Họ đã chôn chú chó tối hôm trước, trên sườn núi thấp, với một tảng đá nặng đặt lên nấm mộ để ngăn thú dữ đến cào bới.

“Ừ, chú đoán thế. Ở trên ấy,” ông Owen Davies đáp.

Đột nhiên Will muốn nói gì đó, nhưng chỉ thốt ra được mấy lời lúng túng. “Chú Davies, cháu xin lỗi. Xin lỗi về tất cả mọi chuyện. Những gì đã xảy ra hôm qua ấy ạ. Thật là kinh khủng.”

“Ừ, đúng thế, cảm ơn cháu.” Owen Davies có vẻ ngượng ngùng, ngần ngại trước sự tiếp xúc tình cảm. Ông cúi xuống nhìn cái đầu máy kéo và nói “Chẳng biết làm sao được. Ta không thể biết khi nào thì một con chó lại tấn công cừu. Đó là chuyện hy hữu, một triệu trường hợp thì chỉ có một, nhưng nó có thể xảy ra được. Ngay cả với con chó ngoan ngoãn nhất trên đời...”

Ông đột ngột ngẩng đầu lên, và lần đầu tiên ông nhìn thẳng vào mắt Will, mặc dù dường như ông không nhìn hẳn vào cậu, mà đang nhìn về một tương lai hay quá khứ xa xôi nào đó. Giọng ông trở nên quả quyết hơn, như giọng một người trẻ tuổi.

“Nhưng xin nói thật với cháu, chú nghĩ là Caradog Prichard thực sự muốn bắn con chó lắm rồi. Đấy là một việc làm hết sức cực đoan, thường thường người ta không đối xử với vật nuôi của người khác như thế, ít nhất là không phải trước mặt người đó. Tất cả chúng ta đều đứng đấy, nếu muốn bắt Cafall lại thì cũng rất dễ. Và đôi khi một con chó hay cắn cừu cũng có thể được đem đến một ngôi nhà khác, cách xa bầy cừu, chứ không cần phải giết chết nó... Nhưng chú không thể nói với Bran như vậy, và cháu cũng không được nói. Nói thế với thằng bé thì chẳng ích gì.”

Mắt ông lại nhìn đi nơi khác, và Will ngắm ông, vừa tò mò vừa sợ hãi khi thấy nét linh hoạt vừa vọng về từ một thuở xa xưa lại rơi tuột đi như một chiếc áo khoác, để lại ông Owen Davies tẻ nhạt quen thuộc, lúc nào cũng có vẻ hơi tội lỗi, không thoáng một chút vui tươi.

“Vâng” Will đáp. “Cháu nghĩ là chú nói đúng, nhưng cháu sẽ không nhắc lại với Bran đâu ạ. Giờ cháu đi tìm bạn ấy đây.”

“Ừ,” ông Owen Davies sốt sắng đáp, gương mặt lo lắng đầy bất lực của ông quay về phía rặng núi. “Ừ, chú nghĩ là cháu có thể giúp được nó đấy.”

Nhưng trong khi cậu khó khăn lê bước trên con đường đầy bùn, Will biết rằng cậu, hay bất kỳ người nào của phe Ánh Sáng đi chăng nữa, cũng chẳng thể an ủi nổi Bran.

Khi lên đến vách thung lũng, nơi mặt đất bắt đầu lên dốc, cậu nhìn thấy xa tít bên trên kia, ở lưng chừng núi, là hình dáng của John Rowlands, bé xíu, nom như một con búp bê. Hai con chó của ông chỉ còn là hai vệt màu đen trắng, đang chạy đi chạy lại. Will do dự nhìn xuôi xuống thung lũng nơi Bran đã đến: nơi nó đang ngồi một mình với nỗi đau trong lòng. Rồi, theo một ý nghĩ bản năng, cậu liền trèo thẳng lên trên, qua đám dương xỉ diều hâu và kim tước. Nói chuyện với John Rowlands trước tiên thì sẽ tốt hơn. Thế nhưng người đầu tiên cậu nhìn thấy lại là Bran.

Cậu đột ngột nhìn thấy nó, một cách hết sức bất ngờ. Cậu đang leo lên nửa chừng con dốc, vẫn còn phải thở hổn hển khó khăn vì chưa khỏe hẳn; đến khi dừng lại lấy hơi, cậu ngẩng đầu lên thì nhìn thấy trước mặt mình là một dáng người quen thuộc đang ngồi trên tảng đá: mặc chiếc quần bò và áo len sẫm màu, mái tóc trắng nổi bật như một ngọn đèn hiệu, cặp kính râm che kín đôi mắt bềnh bệch. Nhưng bây giờ thì Will không nhìn thấy cả cặp kính lẫn đôi mắt, vì Bran đang gục đầu xuống, ngồi không nhúc nhích, mặc dù cậu biết chắc chắn nó đã nghe thấy tiếng cậu thở phì phì, trong khi cậu tiến lại.

Cậu nói, “Chào cậu, Bran.”

Bran chầm chậm ngẩng đầu lên, nhưng không nói gì. Will nói tiếp, “Trên đời này không có con chó nào sánh được với nó, không ở đâu có cả.”

“Đúng thế,” Bran đáp. Giọng nó nhỏ bặt và khàn đục; trông nó có vẻ vô cùng mệt mỏi.

Will moi óc cố tìm ra một câu gì đó để an ủi, nhưng đầu óc cậu không thể không nghĩ tới những tri thức của Cổ Nhân, mà đó lại không phải là cách để nói chuyện được với Bran. Cậu nói, “Một con người đã giết chết nó, Bran ạ, nhưng đó là cái giá chúng ta phải trả để con người có được tự do trên thế giới này. Con người có quyền làm điều xấu cũng như điều tốt. Trên đời này có bóng tối, nhưng cũng có cả ánh sáng. Như cậu đã nói với tớ ấy, Cafall không phải là một con chó bình thường. Nó là một phần của một tổng thể lớn hơn, cũng như các vì sao và biển cả vậy. Và không ai trên đời này có thể hoàn thành sứ mệnh của mình tốt hơn nó.”

Cả thung lũng nằm im lìm dưới bầu trời xám xịt u ám; Will chỉ nghe thấy tiếng hót líu lo của một con chim hét trên cái cây nào đó, tiếng cừu be be xao xác trên những sườn đồi; và tiếng động cơ nổ rền của một chiếc ô tô vừa đi qua trên con đường đâu đó ở đằng xa.

Bran ngẩng đầu lên và tháo cặp kính râm ra; đôi mắt màu vàng hung của nó sưng mọng, đỏ ngầu trên khuôn mặt tái nhợt. Nó khom vai ngồi đó, chân co lại, hai cánh tay buông thõng trên đầu gối.

“Cút đi,” nó nói. “Cút đi. Tao ước là mày chưa bao giờ đến đây. Tao ước là tao chưa bao giờ nghe nói đến Ánh Sáng và Bóng Tối, hay lão già Merriman chết tiệt của mày cùng những vần thơ của lão. Nếu bây giờ tao có cây đàn hạc vàng của mày trong tay thì tao sẽ ném nó xuống biển. Tao không tham gia vào cái sứ mệnh ngu ngốc của mày nữa đâu, tao cóc cần biết chuyện gì sẽ xảy ra. Và Cafall cũng chưa bao giờ là một phần trong sứ mệnh ấy, hay là một phần trong cái tổng thể hay hớm của mày. Nó là chó của tao, tao yêu quý nó hơn bất kỳ cái gì trên đời này, thế mà bây giờ nó đã chết. Cút đi.”

Cặp mắt đỏ ngầu lạnh lùng đăm đăm nhìn thẳng vào Will trong chốc lát, rồi Bran lại đeo kính lên và quay đầu đi để nhìn sang phía bên kia thung lũng. Rõ ràng là nó muốn đuổi cậu đi. Không nói thêm một lời, Will đứng thẳng lên và khó nhọc bước tiếp lên đồi.

Hình như cậu phải đi rất lâu mới đến được chỗ ông John Rowlands. Người chăn cừu cao gầy, dẻo dai đang nửa quỳ nửa ngồi bên một khoảng hàng rào bị hỏng để sửa lại bằng một cuộn dây thép gai lởm chởm. Ông ngồi xuống trên hai gót chân khi thấy Will hổn hển bước tới, nheo mắt nhìn cậu, gương mặt nâu sạm đầy nếp nhăn cau lại dưới ánh sáng của bầu trời. Không chào hỏi gì, ông nói, “Đây là khoảng đồng cỏ trên cùng của trại Clwyd. Đồng cỏ của các trang trại trên đồi thì nằm ở phía sau kia - cái hàng rào này là để cho cừu của trại chúng ta không đi lên đó. Nhưng chúng nó ranh ma lắm, cứ xô đổ hàng rào luôn ấy, nhất là bây giờ bọn cừu đực đã được thả ra rồi nữa.”

Will rầu rĩ gật đầu.

John Rowlands ngắm cậu một lát, rồi đứng lên và vẫy cậu đến một khối đá cao nhô lên phía trên sườn núi một chút. Hai bác cháu ngồi xuống ở bên kín gió; nhưng ngay cả ở đấy, nơi này vẫn giống như một trạm quan sát, trông coi toàn thể thung lũng. Will liếc nhìn xung quanh một cái thật nhanh, mọi giác quan căng ra cảnh giác, nhưng Vua Xám vẫn đang ẩn tích; thung lũng vẫn yên bình như lúc Cafall bị giết vậy.

John Rowlands nói, “Bác vẫn còn phải kiểm tra nốt chỗ rào còn lại, nhưng bác muốn nghỉ rồi. Bác có đem theo một phích nước đây. Cháu muốn uống một ngụm trà không, Will?”

Ông đưa cho cậu cái nắp phích rót đầy thứ trà nâu đặc chát. Ông ngạc nhiên khi thấy Will ừng ực uống cạn. Khi cậu đã uống xong, John Rowlands khẽ hỏi, “Cháu có biết là cháu đang ngồi gần Đường Cadfan không?”

Will quay phắt sang nhìn ông, đó không phải là cái nhìn của một chú bé mười một tuổi, và cậu cũng không buồn che giấu sự thật đó. “Có ạ” cậu đáp. “Tất nhiên là cháu biết. Và bác biết là cháu biết, thế nên bác mới nói vậy.”

John Rowlands thở dài, rồi tự rót cho mình một ít trà. Ông nói với giọng ghen tị lạ lùng, “Bác dám chắc là giờ có bị bịt mắt thì cháu vẫn có thể đi thẳng trên Đường Cadfan từ Tywyn Machynlleth qua rặng đồi, mặc dù từ trước đến nay cháu chưa bao giờ đặt chân đến xứ này.”

Will gạt mớ tóc nâu thẳng, ướt đẫm mồ hôi vì trèo dốc, ra khỏi trán. “Các Con Đường Cổ nằm trên khắp nước Anh,” cậu nói, “và chúng cháu có thể đi theo con đường ấy đến bất kỳ đâu cũng được, một khi đã tìm thấy nó. Đúng vậy.” Cậu đưa mắt nhìn qua thung lũng. “Chính hôm đầu tiên con chó của Bran đã giúp cháu tìm thấy con đường này ở đây” cậu buồn rầu nói thêm.

John Rowlands đẩy chiếc mũ vải về phía sau, gãi gãi đầu, rồi lại kéo mũ xuống. “Bác đã nghe nói về những người như cháu,” ông nói. “Cả đời bác, lúc nào cũng có chuyện kể về họ, tuy ngày nay không còn nhiều lắm nữa. Hồi bé bác được nghe nhiều hơn. Thậm chí bác đã nghĩ rằng hồi còn bé tí, bác đã được gặp một người như thế, nhưng bác đoán đó chỉ là một giấc mơ thôi... Và giờ thì bác cứ nghĩ mãi về cái chết của con chó, và bác cũng đã nói chuyện đôi chút với thằng Bran.”

Ông ngưng lại, và Will lo lắng nhìn sang xem ông sẽ nói gì tiếp theo, nhưng quyết định sẽ không dùng phép thuật của mình để đọc ý nghĩ của ông.

“Và bác nghĩ thế này, Will Stanton ạ,” người chăn cừu nói, “bác nghĩ rằng bác nên giúp cháu với bất kỳ điều gì cháu cần. Nhưng bác không muốn biết cháu đang định làm gì, bác không muốn cháu giải thích gì cho bác hết.”

Will cảm thấy như mặt trời vừa ló rạng sau màn mây u tối. “Cảm ơn bác ạ,” cậu nói. Con chó nhỏ hơn của ông John Rowlands, con Tip, lặng lẽ chạy đến ngồi xuống bên chân cậu, và cậu vuốt ve đôi tai mượt của nó.

John Rowlands nhìn xuống sườn núi phủ đầy một màu nâu của dương xỉ diều hâu; Will cũng đưa mắt nhìn theo. Ngay bên trên khoảng đất đen sì nơi đám cháy lan tới, họ có thể nhìn thấy dáng người nhỏ xíu của Bran, ngồi so vai, lưng quay về phía họ, mái tóc trắng dựa vào đầu gối.

“Đây là một khoảng thời gian rất khó khăn đối với Bran Davies,” người chăn cừu lên tiếng.

“Cháu mừng là nó đã nói chuyện với bác,” Will rầu rầu nói. “Nó không chịu nói chuyện với cháu. Cháu cũng chẳng trách nó đâu. Không có Cafall hẳn nó sẽ cô đơn lắm. Ý cháu là, chú Davies rất tốt, nhưng cũng không hẳn là... hơn nữa nó lại không có mẹ, như thế mọi chuyện lại càng thêm tồi tệ.”

“Bran chưa bao giờ biết mặt mẹ,” John Rowlands nói. “Hồi ấy nó còn bé tí.”

Will tò mò hỏi, “Cô ấy như thế nào ạ?”

Ông Rowlands uống cạn tách trà, vẩy cái tách cho ráo nước rồi vặn nó lại vào nắp chiếc phích. “Tên cô ấy là Gwen,” ông nói. Ông lơ đãng cầm cái phích trong tay, nhìn qua nó để hồi tưởng lại. “Cô gái xinh đẹp nhất ta từng được thấy. Người nhỏ nhắn, da trắng mịn, tóc đen, cặp mắt thì xanh biếc như hoa thủy cự, và trên mặt luôn có một nụ cười tươi tắn sáng bừng như tiếng nhạc. Nhưng cô ấy cũng kỳ lạ, hoang dại lắm. Cô ấy từ trên rặng núi xuống, và không bao giờ chịu nói cho ai biết cô ấy đến từ đâu, hay làm sao lại đến được đây...

Ông đột ngột quay sang nhìn Will chăm chú bằng cặp mắt sẫm màu dường như luôn phải nheo lại vì thời tiết khắc nghiệt. Ông nói với vẻ dữ dằn bất ngờ, “Bác tưởng là người như cháu thì phải biết tất cả về Bran chứ.”

Will khẽ đáp lại, “Cháu chẳng biết gì về Bran, ngoại trừ những điều nó đã cho cháu biết. Những người chúng cháu không khác lắm so với người bình thường như bác đâu, bác Rowlands ạ, phần lớn là vậy. Chỉ có chủ nhân của chúng cháu thì mới khác thôi. Đúng là chúng cháu biết rất nhiều điều, nhưng không phải là những điều liên quan đến đời tư của người khác. Về điểm đó thì chúng cháu cũng chẳng khác gì người thường cả - chúng cháu chỉ biết những gì mình đã trải qua, hoặc những gì được nghe người khác kể”

John Rowlands gật đầu, nét mặt dịu lại. Ông mở miệng ra định nói gì đó, rồi lại thôi, và lấy chiếc tẩu từ trong túi áo ra, đưa một ngón tay lên chọc chọc tàn thuốc. “Ờ,” ông chậm rãi nói, “có lẽ bác nên cho cháu biết toàn bộ câu chuyện từ đầu chí cuối. Nó sẽ giúp cháu hiểu được Bran. Nó cũng biết rõ một phần sự tình - thực ra nó nghĩ rất nhiều về chuyện ấy, khi nó chỉ có một mình, nghĩ nhiều đến nỗi bác mong là nó chưa bao giờ được nghe kể gì cả.”

Will không nói gì. Cậu ngồi sát hơn vào Tip, và vòng tay ôm lấy cổ nó.

John Rowlands bật diêm lên châm tẩu thuốc. Ông phà ra một hơi khói và kể, “Khi đó Owen Davies còn trẻ và làm việc ở Trang Trại Prichard. Hồi ấy cụ Prichard còn sống. Caradog cũng làm việc cho bố, đợi đến ngày được thừa kế và cai quản trang trại, nhưng về tháo vát thì hắn chẳng thấm gì so với Owen... Owen là người chăn cừu cho cụ Prichard. Ngay từ hồi ấy cậu ta đã thích ở một mình. Cậu ta sống một mình trong căn nhà nhỏ. Căn nhà ấy ở ngoài đồng hoang, gần với đàn cừu hơn là gần trang trại.” Ông phà thêm khói ra, và liếc nhìn Will. “Cháu đã đến căn nhà ấy rồi đấy. Bây giờ nó bị bỏ hoang rồi. Từ bao nhiêu năm nay không còn ai sống ở đó nữa.”

“Chính là chỗ đó ạ? Chỗ bác để con cừu lại, sau khi...” Will giật mình, thấy lại trong trí óc mình hình ảnh ông John Rowlands loạng choạng đi vào trong căn nhà nhỏ trống trơn bằng đá, với con cừu bị thương vắt trên vai, máu từ bộ lông của nó rớt xuống cổ ông. Căn nhà nhỏ mà nửa giờ sau, khi hai bác cháu quay lại, thì con cừu đã biến mất không còn chút dấu vết.

“Chính căn nhà ấy đấy. Chính nó. Một đêm mùa đông bão bùng, mưa và gió bấc ào ạt, có tiếng gõ cửa nhà Owen. Đó là một cô gái, không biết từ đâu đến, gần chết cóng vì đi trong cơn bão. Và đã kiệt sức vì phải bế đứa con.”

“Con của cô ấy ạ?”

John Rowlands nhìn xuống núi, nơi Bran vẫn đang ngồi một mình trên tảng đá. “Đó là một thằng bé khỏe khoắn, mới có vài tháng tuổi. Nó nằm trong một cái địu trên lưng cô ấy. Owen thấy rằng thằng bé chỉ có một vẻ lạ, đó là nó chẳng có màu sắc gì. Da trắng bệch, tóc trắng, lông mày trắng, và đôi mắt vàng hung kỳ lạ như mắt cú...”

Will chậm rãi nói, “Cháu hiểu rồi.”

“Owen cho cô gái vào trú nhờ,” John Rowlands kể tiếp. “Cậu ta chăm sóc cho cô ấy khỏe lại, hết sức tận tâm, suốt đêm đó và ngày hôm sau - cả đứa bé nữa, mặc dù trẻ sơ sinh thường rất dẻo dai và thằng bé cũng không yếu ớt gì. Và chưa đầy hai mươi tư giờ qua thì Owen Davies đã yêu cô gái kỳ lạ xinh đẹp ấy, yêu hơn bất kỳ người đàn ông nào có thể yêu một người phụ nữ mà bác đã từng thấy. Từ trước đến giờ cậu ta chưa bao giờ yêu ai cả. Anh chàng nhút nhát lắm, Owen ấy mà. Giống như một con đập nguy hiểm - tràn bờ... Với một người như vậy là rất nguy hiểm - khi cuối cùng anh ta cũng phải lòng ai, thì anh ta sẽ trao hết trái tim mình mà không bận tâm hay suy nghĩ gì, và trái tim có lẽ sẽ không bao giờ quay lại với anh ta nữa.”

Ông ngừng lại giây lát, vẻ thương cảm làm khuôn mặt dầu mưa dãi nắng của ông dịu đi, và ông cứ ngồi im lặng như thế. Rồi ông tiếp tục, “Ờ. Thế là hai người ở đó. Ngày hôm sau, Owen đi thăm đàn cừu, để cô gái nghỉ trong nhà. Trên đường về cậu ta có ghé vào nhà bác ở trại Clwyd, để xin ít sữa cho đứa bé. Bọn bác đã là bạn kể từ khi cậu ta còn là một chú nhóc, mặc dù bác lớn tuổi hơn. Bác không có nhà, nhưng bà nhà bác thì có, và cậu ta đã kể cho bà ấy nghe về Gwen cùng đứa bé. Bà Blodwen nhà bác có một tấm lòng đôn hậu và đôi tai biết lắng nghe. Bà ấy bảo cậu ta như đang bốc cháy, mặt ngời ngời, cậu ta phải chia sẻ với ai thì mới chịu được...”

Xa tít bên dưới sườn núi thấp, Bran đứng dậy khỏi hòn đá và bắt đầu đi lang thang vơ vẩn quanh đám dương xỉ, nhìn quanh quất như đang tìm kiếm cái gì.

“Khi Owen quay lại nhà mình,” John Rowlands kể, “cậu ta nghe có tiếng hét. Cậu ta chưa bao giờ nghe tiếng phụ nữ hét cả. Ngoài cửa có một con chó lạ. Đó là chó của Caradog Prichard. Owen lồng lộn lao vào nhà như một sợi dây căng quá bị đứt, và cậu ta thấy cô gái đang vật lộn với Caradog. Thì ra Caradog đến để xem tại sao hôm qua Owen không đi làm, và khi thấy Gwen ở đó, đầu óc bẩn thỉu của hắn đã cho rằng đó là một cô ả lẳng lơ, hắn có thể dễ dàng chiếm đoạt nếu muốn...” John Rowlands thong thả nghiêng người sang bên và nhổ vào đám cỏ. “Bác xin lỗi, Will,” ông nói, “nhưng cứ khi nào mồm bác phải nói về Caradog Prichard thì bác lại cảm thấy như thế đấy.”

“Sau đó thì sao ạ? Chú ấy đã làm gì?” Will chỉ còn quan tâm đến câu chuyện lãng mạn bí ẩn xoay quanh ông Owen Davies tầm thường, tẻ nhạt.

“Owen ấy à? Cậu ta phát điên lên. Cậu ta chưa bao giờ là người giỏi đánh nhau, nhưng cậu ta đã ném Caradog ra khỏi cửa, và chạy theo hắn, rồi đấm vỡ mũi hắn và đập gãy hai cái răng của hắn. Rồi bác chạy đến, cũng may là bác đến kịp thời, không thì cậu ta đã giết chết hắn rồi. Blodwen đã bảo bác đem mấy thứ đến cho đứa bé. Bác đưa Caradog về nhà. Hắn không chịu gọi bác sĩ đến. Sợ bị tai tiếng mà. Bác chẳng thương xót gì cho hắn. Từ bấy đến nay mũi hắn không còn hình thù như bình thường nữa.”

Ông lại đưa mắt nhìn xuống sườn núi. Mái đầu trắng của Bran vẫn đang cúi xuống đất, trong khi nó chậm chạp đi đi lại lại một cách vô định.

“Bran sẽ sớm thấy mừng vì có cháu làm bạn đấy, Will ạ. Mà cũng chẳng còn gì mấy để kể nữa. Cô gái tên Gwen ấy ở với Owen trong căn nhà nhỏ thêm một ngày một đêm nữa, và cậu ta đã hỏi cô ấy làm vợ. Cậu ta mới hạnh phúc làm sao, như có ánh sáng chiếu ra từ trong mình. Ngày hôm ấy bọn bác có nhìn thấy họ, trông cô ấy cũng hạnh phúc không kém. Nhưng rồi, đến khoảng rạng sáng ngày hôm sau, Owen bị tiếng khóc của thằng bé đánh thức, và Gwen không còn đó nữa. Cô ấy đã biến mất. Không ai biết cô ấy đi đâu. Và cô ấy không bao giờ quay trở lại nữa.”

Will nói, “Bran bảo cháu cô ấy đã chết.”

“Bran biết cô ấy biến mất,” John Rowlands nói. “Nhưng có lẽ tin rằng mẹ mình đã chết thì sẽ dễ chịu hơn so với cái ý nghĩ rằng mẹ mình đã bỏ đi và để mình lại mà không thèm bận tâm chút nào.”

“Cô ấy đã làm vậy ạ? Tự nhiên bỏ đi và để con mình lại sao?”

John Rowlands gật đầu. “Cùng với một mẩu giấy nữa. Trên giấy viết: Tên thằng bé là Bran. Xin cảm ơn anh, Owen Davies. Tất cả chỉ có thế. Cho dù cô ấy đã đi đâu thì cũng không ai nhìn thấy cô ấy hay nghe tin về cô ấy nữa, và chắc là chẳng bao giờ có chuyện ấy. Sáng hôm đó Owen bế thằng bé đến chỗ hai bác. Cậu ta như mất trí, phát điên lên vì đã mất Gwen. Cậu ta đi lên núi, và những ba ngày sau mới quay lại. Đi tìm cô ấy. Người ta nghe thấy cậu ta gọi, Gwennie, Gwennie...Blodwen và bà Evans, dì của cháu, cùng nhau chăm sóc đứa bé. Nó là một đứa bé rất ngoan...Tất nhiên là cụ Prichard đuổi thẳng cổ Owen. Cũng lúc đó dượng David của cháu lại vừa mất một người làm công, nên ông ấy đã nhận Owen vào làm, vậy là Owen chuyển đến căn nhà ở trại Clwyd, nơi hiện giờ cậu ta vẫn ở.”

“Và chú ấy đã nuôi nấng Bran như con đẻ của mình,” Will nói.

“Đúng thế. Với sự giúp đỡ của tất cả mọi người. Có mấy chuyện giấy tờ phải lo, nhưng cuối cùng thì cậu ta cũng được phép nhận thằng bé làm con nuôi. Phần lớn mọi người đều nghĩ Bran chính là con đẻ của Owen. Và có một điều Bran chưa bao giờ được cho biết, đó là nó chỉ là con nuôi - nó tin rằng Owen chính là bố mình, và cháu phải cẩn thận đừng để lộ cho nó biết chút gì.”

“Không đâu ạ,” Will trả lời.

“Ừ. Về cháu thì bác không lo... Đôi khi bác nghĩ chính Owen cũng tin Bran là con đẻ của mình. Cháu thấy đấy, cậu ta là người rất sùng đạo, và sau chuyện ấy lại càng sùng đạo hơn nữa. Có thể cháu không hiểu hết được điều này, Will bach ạ, nhưng bởi vì Owen biết rằng theo lề luật tôn giáo của mình thì việc cậu ta ở dưới cùng một mái nhà với Gwen trong mấy ngày ấy là sai trái, thế nên cậu ta cảm thấy rằng cũng sẽ là sai trái không kém nếu cậu ta và Gwen, không kết hôn với nhau, mà lại có con. Như thể đúng là họ đã sinh ra Bran thật vậy. Vì thế nên cậu ta luôn nghĩ về Bran chủ yếu là với tình yêu thương, nhưng cũng với một chút tội lỗi nữa - cho đến tận ngày nay vậy. Nhưng chẳng vì lý do gì cả, chỉ vì lương tâm của bản thân cậu ta thôi. Owen quá nặng lương tâm. Mọi người thì chẳng ai để ý, ngay cả những người ở cùng giáo hội với cậu ta - họ tưởng Bran là con đẻ của cậu ấy, và đã từ lâu chẳng còn ai xét nét gì nữa rồi. Họ có đủ trí khôn để đánh giá con người bằng những điều người ấy đã tự chứng tỏ được, chứ không phải vì một lỗi lầm mà người đó có thể đã gây ra hoặc không gây ra tự thuở nào.”

John Rowlands thở dài, vươn vai, gõ gõ tẩu cho sạch và giẫm tàn thuốc xuống đất. Ông đứng lên; con chó cũng bật dậy chạy đến bên cạnh ông. Ông cúi xuống nhìn Will.

“Tất cả những chuyện này đều là nguyên nhân sâu xa tại sao Caradog Prichard lại bắn con chó của Bran Davies."

Will bứt một bông hoa trên bụi kim tước bên cạnh họ; nó vàng rực trên bàn tay lấm bẩn của cậu. “Con người thật là rắc rối,” cậu buồn rầu nói.

“Đúng vậy,” John Rowlands đáp. Giọng ông trở nên trầm hơn, vang lên sang sảng và rõ ràng hơn ban nãy. “Nhưng khi cuộc chiến giữa phe của cháu và phe địch đã kết thúc, Will Stanton ạ, thì vận mệnh của thế giới rốt cuộc đều phụ thuộc cả vào những người ấy, phụ thuộc vào việc bao nhiêu người trong số họ tốt hay xấu, ngu ngốc hay khôn ngoan. Và đúng là chuyện ấy rắc rối đến nỗi bác không dám nói trước họ sẽ làm gì với thế giới của họ. Thế giới của chúng ta.” Ông khẽ huýt sáo. “Tyrd yma, Pen, Tip."

Ông cẩn thận nhặt cuộn dây thép gai lên, và với hai con chó theo sau, ông bước dọc theo hàng rào, đi dần lên đồi.