← Quay lại trang sách

VUA XÁM

Will chậm rãi đi ngang qua sườn núi đến chỗ Bran. Bầu trời giờ tối hẳn lại; mưa đã rơi suốt đêm, và sẽ còn rơi thêm nữa trong ngày hôm nay. Những đám mây sà xuống thấp đầy hăm dọa, và tất cả các rặng núi đều chìm trong những cụm mây mù tơi tả. Will thầm nghĩ: hơi thở của Brenin Llwyd...

Cậu thấy Bran đã bắt đầu trèo lên trên núi theo một góc chéo, rõ ràng là muốn tránh mặt cậu. Will dừng lại, rồi quyết định thôi không đi theo nó nữa. Cái trò trốn tìm kỳ cục giữa các rặng núi này sẽ chẳng đem lại lợi ích cho ai hết. Hơn nữa, cậu còn phải đem cây đàn hạc đến một nơi an toàn.

Cậu lên đường, xuyên qua những bụi dương xỉ diều hâu ướt đẫm trên lối mòn dài lầy lội ở phía bên kia trang trại của Caradog Prichard. Hai ống quần của cậu sũng nước, mặc dù cậu đã mượn đôi ủng cao su của dì Jen. Đi được nửa đường, cậu vượt qua khoảng đất đã bị lửa liếm qua, và một lớp bùn than nhão nhoét bám vào ủng của cậu.

Will cứ buồn bã bước đi. Thỉnh thoảng cậu lại liếc nhìn quanh, đề phòng Caradog Prichard đang ở đâu đó gần đây, nhưng các cánh đồng đều không có một bóng người, im phăng phắc đến lạ lùng. Hôm nay không một con chim nào cất tiếng hót; thậm chí cả đàn cừu cũng có vẻ im hơi lặng tiếng, và hầu như không nghe thấy tiếng xe cộ gì vẳng lên từ con đường xuyên qua thung lũng cả. Tựa hồ vùng thung lũng xám xịt này đang chờ đợi một điều gì đó. Will cố cảm nhận bầu không khí xung quanh một cách rõ ràng hơn, nhưng sự thù địch của Vua Xám đang dần dần tràn ngập đầu óc cậu, lớn dần lên, lớn lên mãi, như một tiếng thì thầm lớn lên thành một tiếng hét, và chẳng mấy chốc đã biến thành một tiếng gầm dữ dội. Thật khó mà chú ý tới cái gì khác được nữa.

Cậu đã đến được căn nhà chái lợp đá phiến nơi cậu giấu cây đàn hạc hôm trước, giữa những kiện cỏ khô chất đống. Sức mạnh từ lời thần chú của chính cậu khiến cậu phải đứng sững lại khi còn cách đó hơn ba mét, như thể vừa đụng phải một bức tường bằng kính vậy.

Will mỉm cười. Để phá bỏ bùa phép đó, đúng như đã định trước, cậu bắt đầu khe khẽ cất tiếng hát. Đó là một bài ca thần chú bằng Cổ Ngữ, lời ca nghe không giống tiếng nói của con người, khó xác định hơn, âm vực của những lời ấy có sắc thái khác hẳn. Cậu là một ca sĩ giỏi, được học tập bài bản, và những nốt nhạc cao vút rõ ràng êm ái vang lên giữa bầu không khí u ám như những tia sáng. Will cảm thấy sức mạnh của bùa phép kháng cự đang yếu dần đi. Cậu hát đến đoạn cuối của bài ca.

Giọng nói lạnh lùng của Caradog Prichard bỗng vang lên bên cạnh cậu, “Chú mày đúng là sơn ca chính cống đấy nhỉ?”

Will sững người. Cậu chậm rãi quay lại và đứng im lặng, ngắm bộ mặt tai tái, phì nộn của Prichard, với cái mũi vẹo vọ và cặp mắt sáng quắc như hai quả phúc bồn tử đen.

“Thế nào?” lão Prichard sốt ruột hỏi. “Mày định làm cái trò gì mà lại đứng ngây ra giữa cánh đồng của ta, hát cho một cái hàng rào nghe? Mày điên rồi chắc?”

Will há hốc mồm, kín đáo chuyển nét mặt mình sang một vẻ ngây thộn vô cùng. “Là tại bài hát ấy đấy ạ. Cháu mới nghĩ ra nó, nên cháu muốn hát thử xem nghe thế nào. Người ta bảo bác là thi sĩ, thì bác phải hiểu chứ.” Cậu hạ giọng thì thào vẻ bí mật. “Bác biết không, thỉnh thoảng cháu có sáng tác mấy bài hát. Nhưng xin bác đừng cho ai biết. Mọi người sẽ cười cháu mất. Mọi người nghĩ đấy là chuyện vớ vẩn”

Prichard hỏi, “Dượng của chú mày ấy à?”

“Tất cả mọi người ở nhà cháu ạ.”

Prichard nheo mắt nhìn cậu vẻ hồ nghi. Cái từ “thi sĩ” rất kêu đã có tác dụng, nhưng lão không phải là loại người dễ mất cảnh giác, hay có thể quên đi sự cảnh giác của mình trong một lúc lâu. Lão khinh khỉnh nói, “Ối, cái bọn người Anh - chúng thì có hiểu gì về âm nhạc, ta chẳng ngạc nhiên đâu. Toàn một lũ cục mịch. So với người Anh thì chú mày có giọng hát khá đấy.” Rồi lão đột ngột giật giọng hỏi, “Nhưng mày không hát bằng tiếng Anh, phải không?”

“Không ạ.”

“Thế thì là tiếng gì?”

Will tự tin mỉm cười tươi tắn với lão. “Chẳng là tiếng gì cả ạ. Chỉ là những âm vô nghĩa phù hợp với đoạn nhạc thôi ạ. Bác cũng biết đấy.”

Nhưng cá không cắn câu. Prichard nheo mắt lại. Lão lo sợ nhìn nhanh lên rặng núi bên trên thung lũng một cái, rồi quay lại nhìn Will. Lão nói độp một cái, “Ta không thích mày, thằng nhóc người Anh kia. Mày có vẻ gì đấy kỳ dị lắm. Những chuyện hát hò này vẫn không giải thích được tại sao mày lại đang đứng trên đất của ta.”

“Cháu chỉ đi tắt thôi mà,” Will đáp. “Cháu không làm hại cái gì đâu, thật đấy ạ.”

“Đi tắt ấy à? Từ đâu đến đâu? Đất của dượng mày thì ở phía kia, nơi mày vừa đi đến, và ở bên kia đất của ta thì chẳng có gì ngoài đồng hoang và núi đồi. Chẳng có gì cho mày hết. Quay về Clwyd đi, thằng sơn ca kia, quay về với thằng bạn ẽo ợt hay rên rỉ của mày, thằng bé có con chó bị chết ấy. Cút. Xéo ra khỏi đây ngay!” Đột nhiên lão quát tướng lên, bộ mặt béo phị đỏ phừng phừng. “Cút đi! Cút đi!”

Will thở dài. Cậu chỉ có thể làm một điều duy nhất mà thôi. Cậu không muốn liều lĩnh khiến cho Vua Xám chú ý tới mình hơn nữa, nhưng không thể để lộ cây đàn hạc ra với Caradog Prichard được. Lão ta đang trừng mắt nhìn cậu, hai tay siết chặt thành nắm đấm trong một cơn thịnh nộ đầy hằn học không sao hiểu nổi mà trước kia Will đã từng thấy ở lão. “Cút đi, tao bảo mày cút đi cơ mà!”

Vậy là, ở giữa cánh đồng mênh mông dưới bầu trời xám xịt tĩnh lặng ấy, Will vươn tay ra, năm ngón tay chỉ thẳng về phía trước, và khẽ thốt ra một từ. Lập tức Caradog Prichard bị phù phép ra khỏi thời gian, đứng bất động, bộ mặt như đông cứng lại với những nét méo mó xấu xí vì giận dữ, giống hệt như khi lão bắn chết Cafall. Thật là đáng tiếc vì cậu không thể để mặc lão trong tình trạng ấy vĩnh viễn, Will cay đắng tự nhủ.

Nhưng không phép thần nào có thể kéo dài mãi mãi, và phần lớn bùa chú chỉ giữ vững được trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Will nhanh chóng chạy vào căn chái bằng đá, thò tay vào giữa những kiện cỏ, lôi cây đàn hạc nhỏ vàng rực lấp lánh ra. Một góc khung đàn bị mắc vào một cái bao bì cũ rách rưới nằm giữa đống cỏ, cậu sốt ruột kéo cả đàn lẫn bao ra, quấn chúng lại kẹp dưới cánh tay. Rồi cậu chuyển ra đứng sau Caradog Prichard. Cậu lại chỉ tay vào lão, và nói một lời nữa. Thế là Caradog Prichard đi thẳng qua cánh đồng để về nhà mình, không hề ngoảnh đầu lại, tựa như lão chưa bao giờ định làm cái gì khác vậy. Will biết rằng khi về đến nhà, lão sẽ tin rằng mình đã đi thẳng từ ruộng về, và trong trí nhớ của lão sẽ không còn chút ký ức nào về Will Stanton đứng trên cánh đồng và cất tiếng hát với bầu trời.

Dáng người béo phệ đang nặng nề bước đi của lão biến mất sau cái bậc trèo ra khỏi cánh đồng. Will gỡ chiếc bao cũ ra khỏi khung đàn bằng vàng tinh xảo, và cậu đang định ném nó đi thì bỗng nhận ra rằng dùng nó để bọc lấy cây đàn thì sẽ tiện lợi biết bao; nếu cậu có gặp ai đó thì một cái gói không có đề chữ gì kẹp dưới cánh tay sẽ dễ giải thích hơn nhiều so với một cây đàn hạc vàng chói lọi, rõ ràng là vô giá. Trong khi cậu đang cẩn thận cho cây đàn vào cái bao, mũi nhăn lại vì bụi cỏ bốc lên, thì một chuyển động ở phía bên kia cánh đồng bỗng làm cậu chú ý. Cậu ngước nhìn lên, và trong chốc lát, thậm chí cả ý nghĩ về cây đàn hạc cũng không còn trong đầu cậu nữa.

Đó là con cáo xám lớn, đầu đàn của bầy milgwn, thuộc hạ của Brenin Llwyd, đang chạy vùn vụt dọc hàng rào. Trong nỗi căm giận dữ dội bất thần trào lên, Will đưa tay ra chỉ về phía nó, hét lên một tiếng để cản đường nó, thế là con cáo khổng lồ màu xám, vì không còn ở trên lãnh địa của chủ nhân mình và do vậy không được bảo vệ, liền bị xô ngược về phía sau, như thể nó vừa bị một luồng gió cực mạnh thổi bật lên khỏi mặt đất vậy. Nó bò dậy và đứng nhìn Will chằm chằm, cái lưỡi đỏ lòm thè ra. Rồi nó nhấc cái mõm dài và hú lên một tiếng dài trầm trầm, như một con chó lúc gặp nguy hiểm.

“Có gọi thì cũng chẳng ích gì đâu,” Will khẽ nói. “Mi chỉ có thể đứng đấy, cho đến khi ta nghĩ ra được xem nên làm gì với mi.”

Nhưng rồi cậu đột nhiên rùng mình. Không khí dường như trở nên lạnh hơn, và trên các cánh đồng xung quanh, cậu thấy một màn sương thấp sát đất đang lan tới, mà trước đó cậu không nhận thấy. Màn sương chậm rãi kéo qua các hàng rào một cách không khoan nhượng, như một con quái thú khổng lồ đang bò đến. Nó đến từ mọi hướng, từ trên núi, từ trong thung lũng, từ các sườn đồi thấp, và khi Will quay lại nhìn con cáo xám đang đứng cứng đờ trên cánh đồng, cậu nhìn thấy một điều khác khiến cho màn sương càng trở nên đáng sợ đến lạnh người.

Con cáo đang đổi màu. Trong lúc cậu ngắm nhìn, thân mình mượt mà và cái đuôi xù của nó mỗi lúc một sẫm màu hơn, cho đến khi nó gần như biến thành màu đen. Will nhíu mày nhìn nó. Cậu tự nhủ, một cách ngẫu nhiên, “ Trông nó giống hệt con Pen.” Và ngay lập tức hơi thở của cậu nghẹn lại trong họng, vì cậu chợt hiểu ra một điều chẳng ngẫu nhiên chút nào - rằng, chính chú chó Pen của John Rowlands, cùng với Cafall, đã bị Caradog Prichard vu cho tội tấn công lũ cừu của lão, trong khi thực sự thì những cuộc tấn công ấy đều do bầy cáo của Vua Xám gây ra.

Một sức mạnh dữ dội vô cùng đang dồn đẩy cậu, phá vỡ cả bùa phép của cậu. Will đang đứng đó, bối rối và bất lực, thì con cáo lớn, giờ đã đen như than, lại nhảy bật lên không trung một cách đắc thắng, nhe răng như cười giễu cậu, rồi lao đi, nhanh nhẹn phóng qua cánh đồng. Nó chui qua hàng rào ở phía bên kia và biến mất, theo hướng mà Caradog Prichard vừa đi, về phía trang trại của lão. Will biết rõ chuyện gì sẽ có thể xảy ra khi con vật đến đó, nhưng cậu không thể làm gì được. Cậu đã bị quyền năng của Vua Xám ngăn lại, và giờ cậu phải miễn cưỡng đối mặt với một ý nghĩ mà từ trước đến giờ chưa bao giờ xuất hiện trong tâm trí cậu: đó là thứ quyền năng này, mạnh hơn quyền năng của bản thân cậu rất nhiều, có thể mạnh đến nỗi nó sẽ khiến cậu không bao giờ hoàn thành nổi sứ mệnh được giao.

Cậu nghiến răng, nắm chặt cây đàn hạc nằm trong bọc và lao qua cánh đồng về phía Trang Trại Clwyd. Cậu thận trọng chui qua bên dưới cái hàng rào thép gai bao quanh cánh đồng, đi qua góc cánh đồng tiếp theo, rồi trèo lên cái bục dẫn về lối đi. Nhưng bước chân cậu mỗi lúc một chậm hơn, hơi thở của cậu trở nên khó khăn hơn. Không hiểu vì sao, dưới cánh tay cậu, cây đàn hạc cũng nặng dần lên, cho đến khi cậu gần như không bước nổi vì sức nặng của nó. Cậu biết chuyện này không phải là vì cậu còn yếu sức. Bất chấp sự kháng cự của cậu, bùa phép hùng mạnh nào đó đang đặt lên Linh Vật Quyền Lực quý giá trong tay cậu một sức nặng không người thường nào có thể đỡ nổi. Tay túm chặt lấy cây đàn, cậu hổn hển đau đớn vì sức nặng phi lý của nó, và sụp xuống đất cùng với nó.

Khi phủ phục trên mặt đất, cậu ngẩng đầu lên và thấy màn sương đang cuộn xoáy khắp bốn bề xung quanh cậu; cả thế giới chỉ còn là một mảng màu trắng xám không có hình thù gì. Cậu nhìn chằm chằm vào màn sương. Rồi dần dần, màn sương bắt đầu gom lại thành hình.

Hình thù ấy lớn đến nỗi mới đầu cậu không nhận ra là nó đang hiện lên. Nó vươn ra rộng hơn cả cánh đồng, và vươn cao chạm tới trời. Nó có hình dạng, nhưng không phải là một hình dạng tự nhiên có thể nhận biết được; Will chỉ thoáng trông thấy các đường nét phía ngoài của nó, nhưng khi cậu nhìn thẳng vào bất kỳ phần nào của hình thù ấy thì cũng chẳng thấy gì hết. Mặc dù vậy, hình thù ấy vẫn vươn lên khổng lồ trước mặt cậu, to lớn, đáng sợ, và cậu hiểu rằng đây là một sinh vật có quyền năng mạnh hơn bất kỳ quyền năng nào cậu đã gặp trong đời.

Trong số tất cả các Đại Chúa Tể của Bóng Tối, không kẻ nào lại hùng mạnh và nguy hiểm bằng Vua Xám. Nhưng bởi vì tự thuở ban đầu, hắn đã luôn ở lại trong thành trì của mình giữa các đỉnh núi của rặng Cader Idris, không bao giờ đặt chân xuống thung lũng hay các sườn đồi thấp, nên chưa có Cổ Nhân nào đối mặt với hắn, để biết được hắn có quyền điều khiển những sức mạnh khủng khiếp ngần nào. Vậy mà giờ đây, Will, đơn thương độc mã, Cổ Nhân cuối cùng, trẻ nhất và yếu nhất, lại phải đối mặt với hắn mà không có cách tự vệ nào khác ngoài phép thuật bẩm sinh của phe Ánh Sáng và trí khôn của bản thân cậu.

Một tiếng nói vang ra từ hình thù mờ sương kia, vừa ngọt ngào vừa ghê gớm. Nó vang khắp không gian chẳng khác gì màn sương, và Will không biết nó nói thứ tiếng gì, cũng không biết tai người có thể nghe được tiếng nói ấy không; cậu chỉ biết là những điều nó thốt ra lập tức xuất hiện trong đầu cậu.

“Ngươi không được đánh thức những Người Say Ngủ, hỡi Cổ Nhân,” giọng nói đó ra lệnh. “Ta sẽ chặn bước ngươi. Đây là lãnh địa của ta, và chúng phải vĩnh viễn ngủ lại ở nơi đây, cũng như chúng đã ngủ suốt bao nhiêu thế kỷ nay. Cây đàn hạc của ngươi sẽ không được dùng để đánh thức chúng dậy. Ta sẽ ngăn cản ngươi.”

Will ngồi co rúm người, vòng tay ôm lấy cây đàn hạc mà cậu không thể vác nổi nữa. “Đó là sứ mệnh của ta,” cậu đáp. “Ngươi biết là ta phải hoàn thành nó.”

“Hãy quay về đi,” giọng nói đáp lại, xuyên thấu qua óc cậu như một cơn gió buốt giá. “Quay về đi. Hãy đem cây đàn hạc theo, đem Linh Vật Quyền Lực ấy về cho Ánh Sáng và các chủ nhân của ngươi. Ta sẽ để ngươi đi, nếu ngươi chịu quay về và rời bỏ lãnh địa của ta. Dù sao ngươi cũng đã đoạt được vật đó.” Giọng nói trở nên gay gắt, lạnh lẽo hơn cả màn sương. “Nhưng nếu ngươi đi tìm những Người Say Ngủ, thì ta sẽ tiêu diệt ngươi cùng với cây đàn hạc vàng.”

“Không” Will nói. “Ta là người của Ánh Sáng. Nhà ngươi không thể tiêu diệt ta.”

“Điều ta có thể làm cũng chẳng khác mấy so với sự tiêu diệt,” giọng nói trả lời. “Thôi nào. Người biết điều đó mà, Cổ Nhân.” Giọng nói dịu đi với một âm thanh êm ái rợn người, như thể đang vuốt ve một ý nghĩ tàn bạo nào đó; Will đột nhiên nhớ tới vị chúa tể trong chiếc áo màu xanh da trời nhạt.

“Các quyền năng của Bóng Tối và Ánh Sáng đều ngang bằng nhau, nhưng cách…đối xử... của chúng ta với những kẻ chúng ta muốn quy phục thì có khác biệt đôi chút.” Giọng nói trườn khắp người Will như một con sên. “Hãy quay về đi, Cổ Nhân. Ta sẽ không cảnh báo phe Ánh Sáng nữa đâu.”

Thu hết can đảm, Will đứng dậy, để cây đàn hạc dưới đất, cạnh chân mình. Một cách đầy nhạo báng, cậu khẽ cúi đầu chào cái hình thù mờ ảo màu xám mà giờ thì cậu đã biết là cậu không được nhìn thẳng vào. “Ngài đã đưa ra lời cảnh báo, thưa Bệ hạ,” cậu nói, “và ta đã nghe rõ. Nhưng nó sẽ không thay đổi được điều gì. Bóng Tối không bao giờ có thể thay đổi được ý chí của Ánh Sáng. Nó cũng không thể ngăn Ánh Sáng giành được Linh Vật, một khi Linh Vật đó đã thuộc về Ánh Sáng một cách chính đáng. Hãy bỏ lời nguyền của ngươi ám lên cây đàn hạc vàng đi. Ngươi không được phép dùng phép thuật đụng tới nó.”

Màn sương xoáy tròn, tối sẫm lại; giọng nói vang lên lạnh lùng hơn, xa xăm hơn. “Cây đàn hạc không hề bị phù phép, Cổ Nhân. Hãy lấy nó ra khỏi cái bọc.”

Will cúi xuống. Cậu cố gắng một lần nữa để nhấc chiếc đàn bọc trong cái bao lên, nhưng nó không hề nhúc nhích; chẳng khác nào một tảng đá nằm sâu trong lòng đất. Rồi cậu kéo cái bao sang bên để lộ cây đàn ra, nhấc nó lên, và tay cậu lại nâng cây đàn vàng rực dễ dàng như trước.

Cậu cúi xuống nhìn cái bao. “Trong này còn có cái gì đó khác.”

“Tất nhiên rồi,” Vua Xám nói.

Will xé toạc cái bao mục nát cho nó mở toang ra; bên trong dường như trống trơn, đúng như lúc cậu mới nhìn thấy nó. Rồi cậu nhận thấy ở trong một nếp gấp có một hòn đá nhỏ màu trắng, nhẵn bóng, không lớn hơn một viên sỏi. Cậu cúi xuống định nhặt hòn đá lên. Nó không hề nhúc nhích.

Cậu chậm rãi nói, “Đây là một hòn đá thần.”

“Phải,” giọng nói đáp.

“Hòn đá thần của ngươi. Kẻ dẫn đường cho Bóng Tối. Khi nó được đặt ở đâu thì ngươi sẽ biết hết những điều đang xảy ra ở đó, và ngươi có thể dùng quyền năng của mình khiến cho những điều khác xảy ra. Nó đã được giấu trong chiếc bao cũ ấy ngay từ đầu.” Một điều chợt hiện ra trong trí nhớ của cậu. “Thảo nào mà ta không phù phép được con cáo đầu đàn của bầy milgwn”

Một tiếng cười vẳng tới từ trong màn sương. Đó là một âm thanh ghê rợn, giống như tiếng rầm rầm mở đầu một trận tuyết lở. Rồi sau đó, còn đáng sợ hơn, là một tiếng thì thào. “Một hòn đá thần của Bóng Tối thì chẳng có ích gì cho Ánh Sáng hết. Trả nó cho ta.”

“Ngươi đã đặt nó lên trang trại của Caradog Prichard,” Will nói. “Tại sao? Dù sao thì lão cũng là thuộc hạ của ngươi rồi, ngươi đâu cần phải dùng đá thần để quan sát lão.”

“Lão già ngu ngốc ấy không phải là người của ta,” Vua Xám khinh bỉ thốt lên. “Nếu Bóng Tối mà hiện hình trước mặt lão thì lão sẽ chảy nhũn ra vì sợ, chẳng khác nào bơ tan chảy dưới ánh mặt trời. Không, lão không phải là thuộc hạ của Bóng Tối. Nhưng lão rất có ích. Một con người chỉ biết đến những ý nghĩ xấu xa của mình như thế thật là một món quà trần thế dâng lên Bóng Tối. Thật dễ dàng để trao cho lão một vài ý tưởng đúng lúc đúng chỗ. Quả là rất có ích.”

Will khẽ nói, “Còn có những người khác thuộc loại trái ngược hẳn, họ cũng có thể trợ giúp cho Ánh Sáng mà không biết.”

“À,” giọng nói lên tiếng vẻ quỷ quyệt, “nhưng loại ấy không có nhiều, Cổ Nhân à. Ta nghĩ là không nhiều lắm đâu.” Rồi giọng nói đanh lại, và màn sương bốc lên lạnh buốt hơn. “Trả lại hòn đá thần cho ta. Nó không chống lại ngươi, nhưng nó cũng sẽ không phục vụ ngươi đâu. Bất kỳ kẻ nào thuộc Ánh Sáng đụng vào nó cũng sẽ khiến nó bám chặt lấy mặt đất - một hòn đá thần của ngươi, nếu có, cũng sẽ như vậy, nếu bị ta chạm vào.”

“Ta không cần đá thần” Will nói. “Và chắc chắn là không cần đá thần của ngươi. Đây, lấy lại nó đi."

“Tránh ra. Ta sẽ lấy lại nó và rời đi. Và nếu một ngày một đêm nữa mà người vẫn chưa đi khỏi đây, đi khỏi lãnh địa của ta, thì ngươi sẽ không còn tồn tại nữa, theo tiêu chuẩn của người trần, Cổ Nhân ạ. Các ngươi không thể cản bước chúng ta được đâu, cả với sáu Dấu Hiệu cũng như chiếc đàn hạc vàng của các ngươi.” Giọng nói đột ngột gầm lên như một cơn lốc xoáy. “Bởi vì thời điểm của chúng ta sắp đến rồi, bất kể những cố gắng của các ngươi, và Bóng Tối đang trỗi dậy, Bóng Tối đang trỗi dậy!”

Những lời ấy gào thét xuyên qua đầu óc Will trong khi màn sương tối tăm buốt giá cuộn xoáy quanh mặt cậu, che mờ hết thảy, kể cả mặt đất dưới chân cậu. Cậu không nhìn thấy cây đàn hạc đâu nữa, chỉ cảm thấy hai cánh tay mình đang ôm chặt lấy nó. Cậu choáng váng lảo đảo, và một hơi lạnh khủng khiếp thấm vào từng thớ thịt trên người cậu.

Rồi tất cả biến mất. Cậu lại đang đứng trên lối mòn giữa hai hàng rào, với cây đàn hạc áp chặt vào ngực, và thung lũng xung quanh cậu vẫn quang quẻ dưới bầu trời đầy mây xám, còn dưới chân cậu là

một mảnh bao bố cũ.

Will run rẩy cúi xuống nhặt cái bao lên bọc lại cây đàn, và quay về Trang Trại Clwyd.

* * *

Cậu vừa chạy lên tầng hai để giấu cây đàn hạc vào phòng mình vừa chào dì Jen. Dì chào đáp nhưng không quay lại vì còn đang bận khuấy một cái nồi trên bếp. Nhưng khi Will xuống lại nhà dưới thì căn bếp lớn đã đầy người. Dượng của cậu và anh Rhys đang bồn chồn đi đi lại lại, mặt căng thẳng vì lo lắng. Còn John Rowlands thì vừa từ ngoài cửa bước vào.

“Bác có gặp lão ta không?” anh Rhys sợ hãi hỏi ông Rowlands ngay tức thì.

Khuôn mặt nâu sạm nắng gió của John Rowlands lại có thêm mấy nếp nhăn nữa khi ông nhướn mày lên. “Bác phải gặp ai cơ?”

Ông David Evans kéo một cái ghế ra và mệt mỏi ngồi phịch xuống. Ông thở dài. “Caradog Prichard vừa mới ở ngoài kia. Những chuyện điên rồ này hình như không bao giờ kết thúc hay sao ấy. Lão ta bảo rằng chiều nay đàn cừu của lão lại vừa bị một con chó tấn công - lần này thì nó đã cắn chết cừu. Lão bảo chuyện lại xảy ra ngay trong sân trại, lão và bà vợ đã trông thấy hết. Và lão thề sống thề chết con chó ấy chính là Pen.”

“Lão cứ huơ loạn khẩu súng lên như phát rồ ấy,” anh Rhys tức tối nói. “Nếu lúc ấy bác và Pen có ở đó thì chắc lão đã bắn chết nó rồi. Tạ ơn Chúa lúc ấy bác chưa về.”

John Rowlands bình thản nói, “Bác lấy làm ngạc nhiên là lão không mai phục sẵn ở cổng đấy.”

“Tôi bảo lão là ông về muộn vì phải đi lên núi tìm mấy con cừu lạc,” dượng của Will nói, mái đầu gọn gàng của ông gục xuống đầy chán chường. “Chắc hẳn lão điên ấy đang lên núi tìm ông rồi.”

“Lão có bắn chết cừu thì tôi cũng chẳng ngạc nhiên đâu,” John Rowlands nói. “Đấy là nếu lão tìm được một con cừu màu đen.”

Nhưng ông David Evans đang quá lo lắng, không thể mỉm cười nổi. “Lão mà làm thế thì tôi sẽ tống lão vào đồn cảnh sát ở Tywyn ngay, cho dù lão có làm gì mấy con chó không. Tôi không thích chuyện này tí nào, ông John Rowlands ạ. Lão ta cư xử như thể... Tôi không biết nữa, tôi nghĩ là lão đã mất trí rồi. Lão lảm nhảm như người điên. Có trời biết, chó cắn chết cừu thì đúng là chuyện không hay, nhưng lão ta cứ lồng lộn lên như thể con lão bị giết vậy. Nếu lão có con. Tôi nghĩ cũng may mà lão không có.”

“Cả ngày hôm nay Pen ở cùng với tôi, không rời ra một phút nào,” John Rowlands nói, chất giọng trầm trầm của ông vẫn hết sức bình tĩnh.

“Tất nhiên là thế rồi,” anh Rhys bảo. “Nhưng Caradog Prichard sẽ không tin như thế đâu, ngay cả nếu lão đã tận mắt theo dõi bác cả ngày hôm nay. Lão tồi tệ đến mức ấy đấy. Rồi ngày mai lão sẽ quay lại thôi, không nghi ngờ gì nữa.”

“Có lẽ Betty Prichard sẽ khiến cho lão thấy được lẽ phải trước khi lão ta quay lại,” dì Jen chêm vào. “Nhưng có trời biết, từ trước đến giờ chị ấy đã bao giờ làm được thế đâu. Có một ông chồng như thế thật là khổ.”

John Rowlands nhìn dượng của Will. “Chúng ta nên làm gì bây giờ?”

“Tôi chẳng biết nữa,” ông David Evans rầu rĩ lắc đầu đáp. “Ông nghĩ thế nào?”

“Ờ,” John Rowlands nói, “tôi nghĩ là nếu mai anh không cần dùng đến chiếc Land-Rover thì sáng sớm tôi sẽ đi lên núi và để Pen ở lại với Idris Jones Ty-Bont vài ngày.”

Dượng của Will ngẩng đầu lên, lần đầu tiên nét mặt ông mới trở nên tươi tỉnh hơn. “Tốt. Tốt lắm.”

“Jones Ty-Bont còn nợ anh vì mượn chiếc máy kéo hồi mùa hè. Hơn nữa anh ta cũng là người tốt. Và một con chó của anh ta lại cùng lứa với Pen.”

“Ý ấy rất hay,” anh Rhys nói gọn. “Và nhà mình lại hết phích cắm cho cái cưa xích rồi. Trên đường về bác có thể ghé qua Abergynolwyn mua mấy cái.”

Ông Rowlands cười. “Thế là xong rồi nhé.”

“Bác Rowlands ơi” Will hỏi. “Cho cháu đi cùng được không ạ?”

Cả nhà đã không nhận ra là cậu đang đứng đó; mấy cái đầu ngạc nhiên quay lại nhìn cậu trên cầu thang.

“Cháu cứ tự nhiên,” John Rowlands đáp.

“Thế cũng hay đấy,” dì Jen nói. “Vừa mới hôm qua dì chợt nhớ ra là chưa đưa cháu đến Tal y Llyn chơi. Đấy là cái hồ ở trên núi. Trang trại của Idris Jones nằm ngay cạnh đó.”

“Caradog Prichard sẽ không nghĩ đến chuyện con chó đang ở đó đâu,” ông David Evans nói. “Như thế lão sẽ có thời gian để bình tĩnh lại.”

“Và nếu cừu vẫn bị cắn chết thì...” anh Rhys nói. Anh cố tình bỏ lửng giữa câu.

“Đúng thế đấy,” dì của Will lên tiếng. “Chúng ta phải làm sao cho lão Caradog tưởng là Pen vẫn đang ở đây. Rồi nếu ngày mai lão lại tận mắt thấy Pen tấn công cừu của lão, thì ta sẽ nói ngay cho lão biết.”

“Tốt rồi,” John Rowlands nói. “Pen đang được cho ăn ở nhà, tôi nghĩ tôi cũng nên về với nó thôi. Sáng mai năm giờ rưỡi bác cháu mình lên đường nhé, Will. Caradog Prichard không phải là người dậy sớm nhất trên đời đâu.”

“Có lẽ Bran sẽ muốn đi cùng với cháu đấy, mai là thứ bảy mà,” ông David Evans nói, bây giờ ông đã thoải mái hẳn, và ngả lưng dựa vào ghế.

“Cháu không nghĩ thế đâu ạ,” Will trả lời.