HỒ NƯỚC ĐẸP TƯƠI
Will tưởng mình sẽ là người duy nhất trong nhà dậy vào lúc năm giờ, nhưng dì Jen đã dậy trước cả cậu. Dì rót cho cậu một tách trà, với một miếng bánh mì nhà làm to tướng có phết bơ.
“Buổi sớm ở ngoài lạnh lắm đấy,” dì nói. “Nếu cháu có gì bỏ bụng thì sẽ tốt hơn.”
“Bánh mì phết bơ ở đây ngon gấp năm lần ở những chỗ khác đấy ạ,” Will nói. Cậu vừa nhai bánh vừa ngước lên nhìn dì, và thấy dì đang ngắm mình với một nụ cười tủm tỉm kỳ lạ, thoáng chút giễu cợt.
“Trông cháu khỏe lắm rồi,” dì nói. “Giống hệt anh Stephen của cháu, hồi bằng tuổi cháu ấy. Sẽ chẳng ai đoán được mới cách đây ít lâu cháu đã ốm nặng đến thế nào. Nhưng trời đất ơi, ở đây cháu chẳng được nghỉ ngơi gì cả. Nào là đám cháy, rồi lại còn chuyện cừu bị cắn chết nữa...”
“Cháu thấy ly kỳ lắm ạ,” Will nhồm nhoàm đáp lại, mồm vẫn còn đầy bánh.
“Ừ, thì đúng thế,” dì Jen nói. “Đúng là ly kỳ thật, ở một nơi mà chẳng có chuyện gì phi thường xảy ra, từ năm này qua năm khác. Nhưng dì nghĩ nhộn nhạo như thế với dì là đủ lắm rồi.”
Will nói, cố tình làm ra vẻ hờ hững, “Cháu đoán chuyện nhộn nhạo gần đây nhất là khi mẹ của Bran đến đây.”
“À,” dì của cậu thốt lên. Không thể biết được biểu hiện trên gương mặt đôn hậu, dễ thương của dì có nghĩa thế nào. “Cháu đã nghe nói về chuyện ấy rồi à? Dì đoán là ông John Rowlands kể cho cháu nghe. Ông ấy là một người rất tốt, Shoni mawr ), chắc hẳn ông ấy phải có lý do gì thì mới kể cho cháu. Này Will, cho dì biết, có phải cháu với Bran đã cãi vã gì không?”
(*) (Tiếng Wales: mawr có nghĩa là lớn, rộng
Will thầm nhủ: thì ra là dì muốn mượn cái cớ uống trà, để hỏi cháu điều này, vì dì cũng là người tốt, và dì có thể cảm thấy được nỗi buồn của Bran... Và cháu ước là cháu có thể nói thật hết mọi chuyện với dì.
“Không ạ” cậu đáp. “Nhưng chuyện bị mất Cafall đối với nó là quá khủng khiếp, nên cháu nghĩ nó muốn ở một mình. Trong một thời gian thôi ạ.”
“Tội nghiệp thằng bé.” Dì lắc lắc đầu. “Cháu phải kiên nhẫn với nó. Nó rất cô đơn, và cuộc sống của nó có nhiều phần lạ lùng lắm. Có cháu ở đây làm bạn với nó thật là tốt, cho đến khi chuyện này xảy ra, làm hỏng hết cả.”
Một cơn đau bất thần nhói lên trên cánh tay Will; cậu bóp chặt cánh tay, và nhận ra rằng cơn đau đang phát ra từ cái sẹo của Ánh Sáng, vết bỏng đã được đóng lên da cậu như một dấu ấn.
Cậu bỗng lên tiếng hỏi, “Cô ấy không bao giờ quay trở lại nữa sao, dì Jen? Mẹ của Bran ấy ạ? Làm sao cô ấy có thể bỏ đi, để mặc con mình lại như thế được?”
“Dì không biết,” dì của cậu đáp. “Nhưng không, chẳng bao giờ còn thấy tung tích của cô ấy nữa.”
“Chỉ một thoáng, thế là đã vĩnh viễn ra đi... Cháu nghĩ chuyện đó làm Bran rất buồn.”
Dì nghiêm nghị nhìn cậu. “Nó có nói gì với cháu về chuyện ấy không đấy?”
“Ồ, không đâu ạ, tất nhiên là không rồi. Chúng cháu không bao giờ nói về chuyện ấy cả. Cháu chỉ cảm thấy - cháu dám chắc là chuyện ấy khiến trong thâm tâm nó thấy rất buồn.”
“Cháu cũng kỳ lạ thật,” dì của cậu nói vẻ tò mò. “Thỉnh thoảng cháu nói nghe như ông cụ non ấy. Chắc là tại vì có nhiều anh chị lớn quá mà... Có lẽ cháu hiểu được Bran hơn khối đứa cùng tuổi khác đấy.”
Dì ngần ngừ một thoáng, rồi kéo cái ghế lại gần hơn. “Dì sẽ cho cháu biết điều này,” dì nói, “có khi lại giúp được Bran cũng nên. Dì biết cháu có đủ khôn ngoan để không nói gì với nó. Dì nghĩ là Gwen, mẹ thằng bé, trong quá khứ đã từng gặp phải điều phiền muộn gì rất lớn mà không thể thay đổi được, và chính vì thế cô ấy mới muốn Bran có một cuộc sống không dính dáng gì đến quá khứ đau thương nữa. Cô ấy biết Owen Davies là người tốt và anh ta sẽ chăm sóc thằng bé, và cũng biết là tình yêu của mình dành cho Owen không được sâu nặng bằng tình yêu của anh ta dành cho cô ấy, không đủ để lấy anh ta làm chồng. Khi cơ sự đã như vậy thì người phụ nữ chẳng còn làm gì khác được. Chỉ có cách bỏ đi là tốt hơn cả thôi.” Dì ngừng lại. “Nhưng cháu sẽ bảo là bỏ đi thì không tốt với Bran chút nào.”
“Cháu đang định nói y như thế đấy ạ” Will trả lời.
“Ờ,” dì của cậu nói. “Trong mấy ngày ít ỏi cô ấy ở đây, Gwen đã nói với dì một điều, khi chỉ có hai người với nhau. Dì chưa bao giờ kể cho ai, nhưng dì không bao giờ quên được. Cô ấy bảo: Nếu chị đã từng phản bội lại một lòng tin vô bờ thì chị sẽ không dám để người khác tin tưởng vào mình nữa, bởi vì lần phản bội thứ hai sẽ chẳng khác nào tận thế. Dì không biết cháu có hiểu được điều đó không.”
“Cô ấy định nói là cô ấy sợ không biết mình sẽ gây ra chuyện gì nữa, phải không ạ?”
“Và còn khiếp sợ hơn nữa vì chuyện cô ấy đã gây ra trước kia. Cho dù đó là chuyện gì đi chăng nữa.”
“Thế là cô ấy bỏ đi. Tội nghiệp Bran,” Will nói.
“Tội nghiệp Owen Davies,” dì của cậu cũng phụ họa theo.
Có một tiếng gõ khe khẽ lên cánh cửa, và John Rowlands thò đầu vào. “Bore da ông nói. “Sẵn sàng chưa, Will?”
(*) (Chào buổi sáng),”
“ Bore da, ông John” dì Jen mỉm cười đáp lại. Will mặc áo khoác vào, rồi đột nhiên quay lại vụng về ôm lấy dì. “Cháu cảm ơn dì, dì Jen.”
Nụ cười của dì càng tươi hơn vì ngạc nhiên và vui sướng. “Gặp lại cháu sau nhé” dì nói.
John Rowlands nhận xét, khi ông nổ máy chiếc ô tô bên ngoài cổng trang trại, “Dì của cháu quý cháu thật đấy.”
Will giữ cửa xe mở cho Pen trèo lên; chú chó nhảy qua ghế trước vào phía sau xe và ngoan ngoãn nằm xuống sàn.
“Cháu cũng quý dì lắm. Cả mẹ cháu cũng thế.”
“Thế thì cháu phải cẩn thận đấy,” Rowlands nói. Khuôn mặt nâu sạm đầy nếp nhăn của ông hoàn toàn bình thản, nhưng những từ ông thốt ra thì đầy sức mạnh. Will nhìn ông một cách lạnh lùng.
“Bác nói thế nghĩa là thế nào?”
“Là thế này,” ông Rowlands quay chiếc Land-Rover đi vào con đường và thận trọng đáp lại. “Bác không biết chắc chuyện gì đang xảy ra quanh chúng ta, Will bach ạ, hay là những chuyện ấy sẽ dẫn đến đâu. Nhưng những người có biết chút ít về phe Ánh Sáng đều biết rằng quyền năng của nó cũng hết sức dữ dằn, giống như một thanh gươm công lý tuốt trần, hay là tia nắng nóng bỏng của mặt trời vậy.”
Đột nhiên tiếng nói của ông trở nên mạnh mẽ hẳn lên, nghe đặc giọng Wales. “Ít nhất đó cũng là bản chất của nó. Có những điều khác, như nhân tính, lòng khoan dung, sự từ thiện, những điều mà phần lớn người tốt đều coi là quý giá hơn cả, thì đối với Ánh Sáng lại không phải là điều quan trọng hàng đầu. Ờ, thỉnh thoảng thì họ cũng coi như vậy; khá thường xuyên là đằng khác. Nhưng về lâu dài thì phe của cháu chỉ quan tâm đến cái thiện tuyệt đối, chiến thắng tất thảy. Giống như là những kẻ cuồng tín. Hay ít ra thì các chủ nhân của cháu là như thế. Giống như những người lính trong cuộc Thập Tự Chinh ngày trước ấy - giống như những nhóm người với lòng tin vào một điều nhất định nào đó, tuy đây không phải là vấn đề tôn giáo. Ở trung tâm của phe Ánh Sáng là một ngọn lửa trắng sáng rực nhưng lạnh buốt, cũng như ở trung tâm phe Bóng Tối là cái vực thẳm đen ngòm không đáy của Vũ Trụ vậy.”
Giọng nói ấm áp, trầm trầm của ông bỗng ngưng bặt, và chỉ còn vang lên tiếng động cơ xe nổ ầm ầm. Will nhìn ra những cánh đồng phủ đầy sương xám, lặng thinh.
“Bác đã làm một bài diễn văn dài gớm nhỉ,” John Rowlands ngượng ngùng nói. “Nhưng bác chỉ muốn nói là, cháu hãy cẩn thận, đừng quên rằng trong thung lũng này vẫn còn những người có thể bị làm hại, cho dù là vì những mục đích tốt đẹp đi chăng nữa.”
Will lại nghe thấy trong đầu mình tiếng thét đau đớn của Bran khi chú chó Cafall bị bắn chết, nghe thấy lời nói lạnh lùng của nó xua đuổi cậu: cút đi, cút đi... Và rồi, trong giây lát, một hình ảnh khác từ quá khứ cũng hiện lên trong đầu cậu: gương mặt cương nghị, xương xương của Merriman, người thầy của cậu, Cổ Nhân đầu tiên, đang lạnh lùng phán xét một con người từng được ông vô cùng yêu thương nhưng vì sự yếu đuối tầm thường của người trần, nên đã phản bội lại chính nghĩa của Ánh Sáng.
Cậu thở dài. “Cháu hiểu bác định nói gì” cậu buồn rầu trả lời. “Nhưng bác đã hiểu lầm phe Ánh Sáng, vì bác cũng chỉ là người bình thường. Với chúng cháu, chỉ có một số phận duy nhất. Giống như một công việc phải được hoàn thành vậy. Chúng cháu có mặt trên đời này chỉ để cứu thế giới thoát khỏi Bóng Tối. Đừng nhầm lẫn, bác John ạ, vì Bóng Tối thực sự đang trỗi dậy, và chẳng mấy chốc sẽ xâm chiếm thế giới nếu như không gì dám đứng lên ngăn cản chúng. Và nếu điều đó xảy ra thì sẽ chẳng còn lòng khoan dung nhân từ ấm áp hay cái thiện tuyệt đối lạnh lùng với bất kỳ ai nữa, bởi vì trên đời này, trong trái tim con người, sẽ không còn gì tồn tại nổi ngoài cái vực thẳm đen ngòm không đáy kia. Lòng từ thiện, khoan dung và nhân đạo là dành cho con người, chỉ nhờ có những điều đó thì con người mới có thể chung sống trong hòa bình. Nhưng trong thực tại khắc nghiệt của những người thuộc phe Ánh Sáng như cháu, thì những điều đó không có ích gì với chúng cháu cả. Chúng cháu đang chiến đấu cho sự sống hay cái chết - không phải vì sự sống của chúng cháu, bác hãy nhớ, vì chúng cháu không thể chết. Mà là vì sự sống của con người đấy.”
Cậu đưa tay về phía sau, với qua lưng ghế, và Pen the cái lưỡi mềm ươn ướt ra liếm tay cậu. “Thỉnh thoảng,” Will chậm rãi nói tiếp, “trong những cuộc chiến như thế này, ta không thể dừng lại, để dọn đường cho một con người duy nhất, bởi vì thậm chí cả một điều nhỏ nhặt như thế cũng có thể khiến cho cả thế giới của những người còn lại sụp đổ.”
Một màn mưa bụi bắt đầu phủ mờ kính chắn gió. John Rowlands bật cần gạt nước lên, vừa lái xe vừa dõi mắt nhìn vào không gian xám xịt bên ngoài. Ông nói, “Cháu đang sống trong một thế giới lạnh lẽo vô cùng, bachgen ạ. Bác không nghĩ xa đến thế đâu. Nếu là bác thì bác sẽ luôn chọn con người duy nhất ấy thay vì cả nhân loại.”
Ở phía sau, Pen bất thần đứng phắt dậy, sủa vang. Will bật lên như một con rắn bị giật mình; John Rowlands đạp phanh đánh két, quay nửa người lại, khẽ nói một lời bằng tiếng Wales với con chó. Nhưng Pen vẫn đứng ở phía sau chiếc Land-Rover, cứng đờ như một con chó nhồi bông, cất tiếng sủa dữ dội, và ngay sau đó, Will cũng cảm thấy một sức mạnh khiến cậu giật bắn người rồi ngồi im sững như thể chính cậu đang quan sát một vật gì đó ở bên ngoài vậy. Móng tay cậu cắm vào lòng bàn tay siết chặt.
John Rowlands không dừng xe lại, nhưng ông cho xe đi chậm như bò trên đường. Ông đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ xe, ngắm vùng đồng hoang nằm dưới màn sương, rồi lại tăng tốc. Một thoáng sau Will cảm thấy tay chân mình không còn căng ra như trước nữa, cậu ngồi ngả vào ghế, thở hổn hển. Con chó cũng ngừng sủa, và trong sự yên lặng bất ngờ bao trùm lên tất cả, nó lại ngoan ngoãn nằm xuống trên sàn, như thể nó chưa bao giờ nhúc nhích vậy.
Ông Rowlands lên tiếng, giọng nói trầm trầm của ông có một thoáng căng thẳng, “Bác cháu mình vừa đi qua căn nhà hoang. Căn nhà trống nơi con cừu đã biến mất ấy.”
Will không nói gì. Hơi thở của cậu vẫn còn rất gấp và nông, giống như cậu vừa qua lúc ốm nguy kịch nhất, và cậu phải so vai lại, gục đầu xuống dưới quyền năng mạnh mẽ của Vua Xám.
John Rowlands lái xe nhanh hơn, đưa chiếc xe con bền bỉ đi qua những khúc ngõ cụt bị chắn bởi bức tường đá phiến. Con đường vòng qua thung lũng; những con dốc mới cao vút, đầy đá răm nguy hiểm, vươn lên ở phía Đông, gần như chạm đến bầu trời xám xịt trống trải. Chỗ nào cũng thấy chúng vươn cao bên trên những cánh đồng xanh tươi thanh bình, vẻ đầy đe dọa. Thế rồi, cuối cùng thì những con đường phụ cũng hiện ra, cùng với mấy căn nhà mái lợp đá xám nằm rải rác, và trước mặt họ, khi ông Rowlands cho xe đi chậm tiến lại gần một ngã tư, Will trông thấy hồ Tal y Llyn.
Dì của cậu đã gọi nó là cái hồ đẹp nhất xứ Wales, nhưng nằm dưới bầu trời âm u buổi sáng, với làn nước tăm tối, trông nó đáng sợ hơn là đẹp. Mặt hồ đen sì phẳng lặng, không hề có một chút gợn sóng nào. Bên trên nó vươn lên những sườn núi dốc ngược của Cader Idris, ngọn núi của Vua Xám, và phía sau đó, ở đầu bên kia thung lũng, là một con đèo dẫn qua dãy đồi - Will cảm thấy như con đường đèo ấy dẫn tới nơi tận cùng thế giới. Giờ cậu đã tự chủ trở lại, nhưng cậu vẫn có thể cảm thấy nỗi căng thẳng run rẩy trong tâm trí. Vua Xám cảm thấy cậu đang đến, và sự thù địch điên giận của hắn hiện diện rõ ràng như thể nó đang được gào lên vậy. Will biết rằng chẳng mấy chốc nữa, một tên do thám mang hình thù con chim cắt đang chao liệng bên trên sườn núi sẽ nhìn thấy cậu rõ mồn một. Cậu không biết khi ấy điều gì sẽ xảy ra.
John Rowlands rẽ chiếc Land-Rover xuống một con đường gập ghềnh, rời xa khỏi bờ hồ, và chẳng mấy chốc họ đã đến được một trang trại nhỏ nằm giữa hai sườn núi thấp của ngọn Cader Idris. Will nhảy ra ngoài để mở và đóng cổng, và khi bước vào sân trại, cậu trông thấy một người đàn ông nhỏ thó, đầu đội mũ lưỡi trai phẳng đang từ trong nhà đi ra đón họ. Mấy con chó sủa ầm ĩ. Cậu có thể nhìn thấy một con trong số đó đang đứng đợi cách đấy một quãng, nơi người nông dân đã bảo nó đứng lại: một con chó chăn cừu nhỏ hơn Pen một chút, nhưng cũng có bộ lông đen óng như vậy, và một vệt trắng dưới cằm.
Ông Rowlands ngừng cuộc trò chuyện sôi nổi bằng tiếng Wales giữa hai người khi thấy Will lại gần. “Idris, đây là chú phụ việc mới của tôi - cháu của David Evans, tên là Will, từ Anh đến.”
“Chào bác, bác Jones,” Will nói.
Idris Jones Ty-Bont nhìn cậu với cặp mắt long lanh và bắt tay cậu; ông có cặp mắt to, sẫm màu và hơi lồi, làm cho ông trông giống một con vượn đuôi dài một cách kỳ cục. “Chào cháu, Will. Bác nghe nói cháu đã có chuyện với ông bạn Caradog Prichard phải không?”
“Tất cả chúng tôi đều có chuyện với lão,” John Rowlands lầm bầm nói. Ông ngoái lại huýt sáo một tiếng, và Pen nhảy ra khỏi xe, ngước lên nhìn ông như muốn xem có được phép chạy đi không, rồi lao đến chào con chó đen kia. Hai con thân thiện chạy vòng quanh nhau, nhưng không sủa.
“Con Lala là em nó đấy, cháu có tin được không” Idris Jones bảo Will. “Hai con cùng một lứa, đúng thế, ở chỗ Dinas ấy. Đã lâu rồi, ông John nhỉ? Hai bác cháu vào nhà đi, bà Megan nhà tôi vừa mới pha trà xong”
Trong căn bếp ấm cúng, với bà Jones mập mạp, luôn mỉm cười, người to gần gấp đôi ông chồng bé nhỏ gọn gàng của mình, mùi thịt lợn muối xông khói rán thơm lừng lại làm Will thấy đói ngấu. Cậu sung sướng ăn ngấu nghiến hai quả trứng rán, mấy lát thịt lợn dày do nhà tự xông khói lấy, cùng với những chiếc bánh tráng xứ Wales nóng hổi, giống như bánh kếp, nhưng nhỏ hơn, có rắc quả lý chua. Bà Jones ngay lập tức bắt chuyện với John Rowlands bằng một tràng tiếng Wales vui vẻ, chỉ thỉnh thoảng ngừng lại để lấy hơi hoặc để nghe một hai lời thốt lên bằng giọng nói nhẹ nhàng của ông chồng hoặc chất giọng trầm trầm của ông Rowlands. Rõ ràng là bà đang rất thích thú khi được kể lại những chuyện tán gẫu trong vùng, hoặc nghe những chuyện mới ở trại Clwyd. Will, bụng no căng thịt lợn rán, cảm thấy hết sức thoải mái, đã gần như không chú ý gì nữa, nhưng rồi cậu thấy ông John Rowlands đang lắng nghe bỗng giật mình ngồi thẳng lên và lấy chiếc tẩu ra khỏi miệng.
Ông Rowlands hỏi, bằng tiếng Anh, “Idris, anh nói là ở trên hồ ấy à?”
“Đúng thế,” ông chủ trại Jones đáp, mỉm cười với Will một cái và cũng vui lòng chuyển sang tiếng Anh. “Ở trên một cái gờ đá. Tôi không lại sát gần được, vì đang mải đuổi theo đàn cừu của mình, nhưng tôi dám chắc đó là một con cừu cái của trại Pentref. Tôi nghĩ là nó chết chưa lâu lắm, lũ chim chưa rỉa nó mấy - chắc mới chết khoảng một, hai ngày gì đó. Nhưng tôi chú ý nhất là chỗ máu trên cổ nó. Máu đã khô cứng cả lại, rất sẫm màu, chắc hẳn đã dính trên lông nó từ lâu trước khi nó chết. Và nếu con cừu đã bị thương rồi, thì sao lại trèo lên cái sườn núi đó làm gì, thật là kỳ cục. Lát nữa tôi sẽ chỉ cho ông thấy.”
Will và John Rowlands liếc nhìn nhau.
“Bác nghĩ chính là con cừu đó ạ?” Will hỏi. “Con cừu đã biến mất ấy?”
“Bác nghĩ có thể là nó,” John Rowlands đáp. Nhưng sau đó, khi Idris Jones dẫn họ đến xem xác con cừu, thì ông lại không cho Will tới gần.
“Đó không phải là một cảnh tượng hay ho đâu, bachgen ạ,” ông nói, nghi ngại nhìn Will và sửa lại chiếc mũ trên đầu. “Một con cừu đã bị lũ qua rỉa mấy ngày nay rồi thì trông gớm lắm, nếu cháu không quen thì cháu đợi ở đây một lát, hai bác sẽ quay lại ngay.”
“Được ạ” Will đành nhượng bộ đáp. Nhưng khi hai người lớn trèo lên sườn núi dốc đứng, trơn tuột, cậu phải ngồi phịch xuống vì đột nhiên cảm thấy choáng váng, và cậu hiểu rằng nếu cậu đi xa thêm nữa thì sẽ không tốt chút nào. Họ đang ở trên một sườn núi vươn lên phía trên bờ hồ, một con dốc thoai thoải không có gì che chắn, đầy đá vụn và những túm cỏ xơ xác xen lẫn với những gờ đá và tảng granit đâm lên đây đó. Xa hơn bên dưới thung lũng, các sườn núi được bao bọc bởi rừng cây vân sam màu xanh sẫm, nhưng ở đây chỉ có mặt đất trần trụi, không gì mọc nổi. Con cừu bị chết nằm trên một gờ đá mà Will thấy dường như không thể leo tới nổi; nó nhô ra trên sườn núi cao tít bên trên đầu cậu, và từ chỗ cậu ngồi thì không thể nhìn thấy được cái đống màu trắng thảm hại nằm trên đó. Cậu cũng không trông thấy John Rowlands hay Idris Jones đang trèo lên cao hơn cùng với hai con chó đen.
Hồ nước nằm phía dưới, cách đó chừng bảy mươi mét, bề mặt phẳng lặng của nó chỉ bị phá vỡ bởi một chiếc xuồng con đang biếng nhác lướt ra từ cái khách sạn nhỏ dành cho người câu cá nằm nép mình bên dưới chân núi ở phía bên kia bờ hồ. Will không thấy có dấu hiệu nào khác của sự sống trên phần còn lại của hồ, hay ở cả hai bên thung lũng. Vùng đất giờ nom có vẻ thanh bình hơn, những màu sắc nhạt hiện lên khắp nơi, vì mặt trời đã lộ ra và chập chờn tỏa sáng giữa những đám mây đang bay rải rác.
Rồi phía trên đầu cậu vang lên tiếng chân bước loạng choạng, sột soạt, và John Rowlands đi xuống con dốc thẳng đứng, gót chân bám chặt vào lớp đá phiến sét nằm giữa những bụi cỏ lưa thưa. Idris Jones cùng hai con chó đi theo sau. Khuôn mặt đầy nếp nhăn của ông Rowlands hết sức lo ngại.
Ông nói, “Đó đúng là con cừu ấy, Will ạ. Nhưng làm sao nó có thể ra khỏi căn nhà ấy và trèo lên đây thì bác không thể hiểu nổi. Thật chẳng có nghĩa lý gì hết.” Ông ngoái qua vai nhìn lên Idris Jones, ông này đang lắc lắc cái đầu nhỏ như đầu chim của mình vẻ rầu rĩ. “Cả Idris cũng không hiểu. Bác đã kể cho ông ấy nghe mọi chuyện.”
“Ồ,” Will buồn bã nói, chẳng buồn giấu giếm gì nữa, “Thực ra chẳng có gì là rắc rối đâu ạ. Chính là bọn milgwn đã tha nó lên đây.”
Cậu thoáng nhìn thấy Idris Jones Ty-Bont đột nhiên đứng sững như trời trồng trên dốc núi, mắt nhìn cậu chằm chằm. Cậu tránh ánh mắt của người nông dân và ngồi đó, ghì hai đầu gối vào ngực, lần đầu tiên ngước lên nhìn John Rowlands một cách không che đậy, bằng đôi mắt không phải là của một cậu bé mà là của một Cổ Nhân. Thời gian thì đang thu ngắn dần, và cậu đã quá mệt mỏi vì cứ phải giả vờ.
“Chính là con đầu đàn của bọn milgwn” cậu nói. “Thủ lĩnh bầy cáo của Brenin Llwyd. Nó là con cáo lớn nhất trong đàn, là con mạnh nhất, và chủ nhân của nó đã cho nó quyền lực để làm rất nhiều điều. Nó vẫn chỉ là một con thú, không hơn không kém, nhưng nó không hoàn toàn... bình thường. Ví dụ, lúc này đây nó đang có màu lông giống hệt con Pen, như vậy bất kỳ người thường nào nếu tận mắt nhìn thấy nó tấn công cừu thì chắc chắn cũng sẽ nghĩ đó chính là con Pen đang cắn lũ cừu.”
John Rowlands nhìn cậu không chớp, cặp mắt sẫm màu của ông sáng quắc như hai viên sỏi mài nhẵn. Ông chậm rãi nói, “Và có lẽ trước đó nó đã có màu giống hệt như Cafall, khiến cho bất kỳ người nào khác cũng có thể nghĩ là...”
“Đúng thế,” Will nói. “Họ có thể nghĩ như vậy.”
Rowlands đột ngột lắc đầu như muốn ném đi một sức nặng nào đó. “Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta phải xuống núi thôi, anh Idris ạ,” ông quả quyết nói và kéo Will đứng dậy.
“Vâng” Idris Jones đáp ngay. “Vâng, vâng.” Ông đi theo họ, vẻ hết sức bối rối, như thể ông đã trông thấy một con cừu sủa như chó và đang tìm cách để tin vào điều mình vừa nghe được ấy.
Hai con chó chạy trước họ, thỉnh thoảng lại quay lại vẻ che chở, để biết chắc là họ vẫn đang đi theo. Chẳng mấy chốc John Rowlands đã để cho Will đi một mình, vì họ chỉ có thể đi thành hàng một dọc theo lối mòn dốc đứng, uốn lượn, tạo ra bởi lũ cừu và ít khi có bàn chân người nào đặt lên. Will đi được nửa đường xuống hồ thì bị ngã.
Sau này cậu không bao giờ có thể giải thích được tại sao cậu lại bị trượt chân. Cậu chỉ có thể nói một cách đơn giản là ngọn núi đã nhún vai - và ngay cả John Rowlands, trong lúc đang tin tưởng cậu nhất, cũng không thể tin vào điều đó. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, thì đúng là ngọn núi đã nhún vai thật, được sai khiến bởi mệnh lệnh hiểm độc của Brenin Llwyd, chủ nhân của nó, làm cho một khoảng lối đi dưới chân Will bỗng lệch hẳn sang một bên rồi lại quay về chỗ cũ, như một con mèo cong lưng lên vậy, đúng lúc Will kinh hoàng nhận ra điều đó thì cậu đã bị mất thăng bằng và ngã nhào xuống. Cậu nghe thấy hai người lớn hét lên, và nhận thấy những cử động vội vã cuống cuồng trong khi ông Rowlands lao tới túm lấy cậu. Nhưng cậu đã lăn lông lốc xuống phía dưới, và chỉ nhờ có một gờ đá granit nhô ra giống như gờ đá nơi họ đã tìm thấy con cừu chết, mà cậu mới khỏi lao hết cái vực thẳm ba chục mét xuống đến bờ hồ. Cậu ngã xuống gờ đá xù xì đánh thịch một cái, và thét lên đau đớn khi cảm thấy như có một luồng lửa nóng rực đốt cháy cánh tay trái của cậu. Nhưng tảng đá đã cứu sống cậu. Cậu nằm yên.
Nhẹ nhàng như một người mẹ, John Rowlands sờ nắn các khúc xương trên tay cậu. Máu đã rút hết khỏi khuôn mặt rám nắng của ông, để lại màu da nom thật kỳ lạ. “ Duw,” ông cất giọng khàn khàn nói, “cháu thật là may đấy, Will Stanton ạ. Vài ngày nữa sẽ đau lắm đây, nhưng xem ra không có gì bị gãy cả. Lẽ ra nó đã có thể bị nghiền nát như tương rồi ấy chứ”
“Và thằng bé thì đã ở dưới lòng hồ Lyn Mwyngil rồi,” Idris Jones run rẩy nói, đứng thẳng dậy và cố lấy lại hơi thở. “Làm thế quái nào mà cháu lại bị ngã thế hả, bachgen? Chúng ta có đi nhanh lắm đâu, thế mà cháu cứ lao vùn vụt xuống..” Ông khẽ huýt sáo, và lột chiếc mũ xuống để lau trán.
“Nhẹ nhàng thôi nào,” John Rowlands nói, cẩn thận đỡ Will dậy. “Cháu đi được rồi chứ? Không đau ở chỗ nào nữa chứ?”
“Cháu sẽ không sao đâu. Thật đấy ạ. Cảm ơn bác.” Will đang cố ngoái nhìn ông Idris Jones. “Bác Jones ơi? Bác vừa gọi cái hồ là gì cơ ạ?”
Ông Jones trố mắt nhìn cậu. “Cái gì cơ?”
“Bác bảo, thằng bé đã ở dưới lòng hồ rồi. Có phải không ạ? Nhưng bác không nói là Tal y Llyn, bác gọi nó bằng cái tên gì khác cơ. Llyn gì gì ấy.”
“Llyn Mwyngil. Đấy là tên thật của nó, cái tên cổ bằng tiếng Wales.” Ông Jones đang đờ đẫn nhìn cậu vẻ kinh ngạc, rõ ràng ông tưởng rằng cú ngã đã làm Will choáng váng. Ông lơ đễnh nói thêm, “Đó là một cái tên hay, nhưng ngày nay chẳng còn mấy ai dùng nữa, ngay cả ở Cục Bản Đồ... giống như hồ Bala ấy. Nó phải được gọi là Llyn Tegid như trước kia, nhưng giờ thì đâu đâu họ cũng gọi nó là hồ Bala...”
Will hỏi, “Llyn Mwyngil trong tiếng Anh nghĩa là gì ạ?”
“Ờ..... có nghĩa là hồ nước ở nơi tươi đẹp. Một nơi ẩn dật đẹp đẽ. Đại loại thế.”
“Hồ nước đẹp tươi,” Will lẩm bẩm. “Thảo nào mà mình bị ngã. Hồ nước đẹp tươi.”
“Ờ, bác nghĩ là nếu dịch thoát ý thì nói thế cũng được.” Idris Jones đột nhiên lấy lại bình tĩnh và bực bội quay sang nhìn ông Rowlands vẻ bối rối. “John Rowlands, thằng bé rồ dại ông đem đến đây có bị làm sao không đấy, mà lại đứng trên núi này nói chuyện văn vẻ, trong khi nó vừa bị ngã một cú suýt gãy cổ? Ông nên đưa nó về trang trại đi, không khéo nó lại lên cơn và nói lảm nhảm đấy.”
John Rowlands bật lên một cười tiếng trầm trầm vẻ nhẹ nhõm. “Đi nào, Will.”
Bà Jones mập mạp tất bật chăm sóc Will một cách lo lắng và chườm lên tay cậu một miếng gạc lạnh. Không ai chịu để cậu làm cái gì hay đi đâu nữa. Ánh nắng chập chờn giờ đã ấm áp hơn, và Will không thấy khó chịu chút nào khi nằm ngả lên bãi cỏ gần căn nhà trại, với cái mũi lành lạnh của Pen áp vào tai cậu, và ngắm nhìn những đám mây bay qua bầu trời xanh nhạt. John Rowlands quyết định ông sẽ đến Abergynolwyn gần đó để mua cái bugi mà anh Rhys cần từ một ga ra sửa xe ở đấy. Idris Jones nghĩ ra mấy việc ông cần làm và cũng đi theo. Cả hai người đều kiên quyết nói rằng Will phải ở nhà với bà Jones và hai con chó, để nghỉ ngơi. Cậu cảm thấy chính họ vẫn đang phải hoàn hồn lại sau cú ngã của cậu, và đối xử với cậu như với một món đồ sứ mỏng manh vừa tránh khỏi bị vỡ một cách kỳ diệu, vì vậy nên được đặt cẩn thận lên một cái giá và không được di chuyển gì trong một thời gian thật dài.
Chiếc Land-Rover với hai người ngồi trong bình bịch nổ máy chạy đi. Bà Jones lăng xăng hối hả chạy đi chạy lại cho đến khi bà đã biết chắc là Will không còn đau đớn hay khó chịu gì nữa, rồi đi vào bếp làm bánh.
Will biếng nhác nằm chơi với lũ chó hồi lâu, nghĩ đến Vua Xám với một cảm giác pha trộn giữa sự đắc thắng thoáng qua, nỗi giận dữ, sự hung hăng và lo sợ không biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Bởi vì giờ đây cậu không còn chạy trốn được nữa. Bằng cách nào đó, cậu đã biết như vậy, ngay khi họ rời nhà sáng hôm đó. Con đường cậu phải đi nằm ngay giữa trung tâm lãnh địa của Brenin Llwyd. Bên hồ nước đẹp tươi những Người Say Ngủ nằm lại... Trên Đường Cadfan nơi chim cắt gọi nhau... Cậu chưa bao giờ nghĩ đến việc dùng câu trả lời đơn giản nhất để giải đáp câu đố hóc búa ấy, đó là chỉ việc bám theo Đường Cadfan cho tới khi nó dẫn cậu đến với hồ nước. Nhưng cho dù cậu có đi theo đường nào chăng nữa thì rốt cuộc cũng sẽ chẳng có gì là khác biệt cả. Không sớm thì muộn cậu cũng sẽ đến được nơi này, đến Tal y Llyn, đến Llyn Mwyngil, đến hồ nước đẹp tươi nằm dưới bóng đen của Vua Xám.
Cậu dẫn Pen theo, trong khi con Lala nhẫn nại đành ở lại nhà, rồi đi bộ ra khỏi cổng trang trại, tiến vào con đường với dãy hàng rào bằng đá xám. Mấy quả mâm xôi cuối mùa vẫn còn rủ xuống trên bờ cỏ bên đường, và một con chim chiền chiện cất tiếng hót đằng sau hàng rào, cứ như vẫn còn đang là mùa hè vậy. Nhưng mặc dù mặt trời vẫn đang tỏa sáng, ở đằng xa, qua những bụi mâm xôi, Will có thể thấy sương mù đang quấn quanh các đỉnh núi của rặngCader Idris.
Tâm trí cậu đang có một cảm giác mơ màng, lơ lửng, một phần là vì mấy viên aspirin mà bà Jones đã bắt cậu uống để giảm đau cho cánh tay, thì cậu bỗng nhìn thấy một thằng bé đi xe đạp đang lao vùn vụt trên đường đến chỗ cậu. Will nhảy sang một bên. Có tiếng phanh ken két, bụi đá bắn lên tứ tung, rồi thằng bé ngã nhào xuống bên vệ đường, chân cẳng giơ lên, bánh xe quay tít. Cái mũ của nó rơi xuống và Will trông thấy mái tóc trắng xóa. Đó chính là Bran.
Mặt thằng bé ướt đẫm mồ hôi; áo nó dính chặt vào ngực, và hơi thở nó hắt ra thành từng đợt hổn hển. Nó không kịp chào hỏi hay giải thích gì hết.
“Will - con Pen - đưa nó đi khỏi đây ngay, giấu nó đi! Caradog Prichard đã phát hiện ra rồi. Lão ta đang đến đấy. Lão ta phát điên phát rồ lên rồi, lão thề là sẽ giết con Pen, bất kể thế nào, và lão đang đem súng đến đây đấy...”