Chương 9 Xã trưởng trên tường xưởng nước tương
T thường hỏi gã, rốt cuộc anh muốn gì? Đầu tiên là khẽ hỏi, rốt cuộc anh muốn gì, rồi âm lượng dần cao lên, rốt cuộc anh muốn gì, câu hỏi không ngừng lặp lại, rốt cuộc anh muốn gì, chất vấn chuyển thành gào thét, rốt cuộc anh muốn gì. Gào thét cuối cùng cũng phải hạ màn, mỗi lần đều kết thúc bằng tiếng khóc. T khóc, nói tôi xin lỗi.
Gã im lặng đối diện với cuộc gặng hỏi, gã muốn trả lời lắm chứ, nhưng miệng dán băng keo, cơ thể bị trói. T xé băng keo trên miệng gã, cởi dây trói, nói tôi xin lỗi. Xin lỗi, tôi biết tôi nên đi khám bệnh. Xin lỗi. Có đau không?
Băng keo rất dính, gã cảm thấy đôi môi bị băng keo giật đi luôn rồi. Miệng mất rồi, tốt quá, không cần trả lời câu hỏi của T nữa. Toàn thân đau ê ẩm, T ôm chặt gã khóc, lại càng nhức nhối. Khóc một hồi, T bắt đầu hôn gã. Gã không thể đáp lại nụ hôn của T, miệng mất rồi, làm sao hôn được? Có mấy lần băng keo dính lên mũi gã, không cách nào thở nổi, lúc gần ngạt thở, T lấy dao rạch băng keo ra. T thật sự là nghệ sĩ, cầm dao sắc cắt băng keo dính chặt vào da gã, không làm trầy da chảy máu, khéo léo rạch ra đường thở.
T à, tôi về nhà rồi. Tôi biết cậu luôn rất muốn về nhà, về thị trấn nhỏ ven biển Baltic đó, chạy trên bãi cát, ngắm thuyền, đợi tuyết, đợi mùa hè qua, đợi mùa xuân đến, đợi cá cắn câu, đợi chuyến tàu hỏa tiếp theo. Cậu luôn muốn chạy trốn, nhưng rồi cũng về đến ngôi nhà nhỏ ven biển ấy. Trong ngôi nhà nhỏ có cha mẹ, con chó già, em trai em gái, trên bàn bếp lúc nào cũng có cá biển hun khói màu đường cháy, cả hương, cả hồi, cá chình, cá thu, cá nhám gai, cá trích Kiel. Cậu vừa ngửi thấy mùi cá liền nhớ tới biển Baltic. Cá chính là tuổi thơ của cậu, tuổi trẻ của cậu, cậu hay phàn nàn, ở Berlin không mua được cá biển ngon như thế.
Trước khi ra tù, có người bạn tù hỏi gã, sau khi ra ngoài sẽ đi đâu?
Ở Berlin gã tứ cố vô thân, không đất cắm dùi, chỉ có thể tạm ghé trung tâm lưu trú cho người mới ra tù thôi, nhưng gã phải về nhà một chuyển trước đã. Bạn tù hỏi, về nhà ư? Nhà mày ở đâu? Trong tù có quả địa cầu, gã đặt ngón tay ở nước Đức, chậm rãi quay quả địa cầu, vẽ nên một quỹ đạo bay sau khi gã ra tù, băng qua châu Âu, Trung Á, thẳng đến châu Á, mở một tuyến đường bay về nhà, mục tiêu là một hòn đảo. Đường bay vẽ bởi đầu ngón tay đến châu Á, xuyên qua Trung Quốc, tới Thái Bình Dương, song không có đảo để hạ cánh. Không có. Trống trơn. Trên quả địa cầu, không ngờ lại không có Đài Loan. Gã chỉ cho bạn tù xem góc địa cầu chỉ còn lại biển đỏ, tôi đến từ một hòn đảo nhỏ trên vùng biển này, trên đảo có quê hương của tôi. Đảo nhỏ có lẽ quá nhỏ, nhỏ đến nỗi bị quả địa cầu trong nhà tù Berlin này quên mất. Gã nhìn vùng biển xanh lam, liệu trong mấy năm gã vào tù, đảo đã biến mất hoàn toàn chăng? Phương xa xảy ra một trận động đất lớn, các mảng kiến tạo của Trái đất dịch chuyển rồi ráp lại, gã ở trong thời gian không gian song song là nhà tù này, lại chẳng biết gì cả?
Gã thật sự đã trở về, về đến hòn đảo giữa biển khơi không tồn tại này, quê hương miền Trung hòn đảo không tồn tại này.
Gã rời vườn khế, đi về phía vùng ven hơn của quê hương, muốn đi viếng cha. Nghĩa địa của vùng nằm ở mạn rìa, cách xa khu dân cư, cái chết không tốt không lành không sạch sẽ, có thể làm hỗn loạn trật tự nhân gian, vì thế đẩy ra lề, càng hẻo lánh càng tốt, người sống không thấy mồ mả, có lẽ có thể né tránh cái chết.
Đám tang cha, mẹ không cho gã tham dự. Nhiều
năm trước, cha bị chẩn đoán ung thư gan giai đoạn cuối, đi mấy bệnh viện lớn thăm khám, họ đều nói chỉ còn mấy tháng. Đã vậy, cha bèn từ bỏ hóa trị liệu, không nằm viện, cũng không về nhà, bảo muốn đến ở trong miếu. Mẹ xưa nay kiểm soát nghiêm ngặt hành tung của cha, nhưng cha nói, cũng chỉ còn lại mấy tháng thôi, để tôi đến ở trong miếu đi, mẹ gắt um lên phản đối, cha nói tôi sắp chết rồi, bà để tôi đi đi. Miếu Thiên Hậu trong vùng rất thanh tịnh, không có mấy khách dâng hương, cha hằng ngày theo ông từ ngủ sớm dậy sớm, yên tĩnh dưỡng bệnh, chờ chết.
Kết quả, người cha bị tuyên bố chỉ còn lại mấy tháng, ở trong miếu Thiên Hậu yên tĩnh, đã sống thêm mười năm.
Cuối cùng lúc cha qua đời, thằng con út là gã đang ở Đức. Chị hai gọi điện cho gã: “Hôm qua cha đi rồi. Em về một chuyến đi. Em biết mẹ rồi đấy, tình hình không ổn lắm, mẹ nói nếu em về dự đám tang, người chết tiếp theo chính là mẹ. Thiết nghĩ, đây là đám tang của cha mà, cha nhất định mong em có mặt. Em cứ về nhé, mẹ bên này chị sẽ nghĩ xem giải quyết thế nào. Dù sao cũng phải có con trai bưng linh vị của cha đúng không?”
“Anh đâu? Chẳng phải anh ấy ra tù rồi sao?”
“Ai biết, bảo gì mà phải Đông Sơn tái khởi, theo nhà họ Vương đi làm ăn, không tìm thấy.”
Linh đường dựng ở nhà cũ, hôm sau gã từ Đức bay về, về đến dãy nhà ở Vĩnh Tĩnh thì đã gần nửa đêm. Chị cả, chị hai, chị ba đều ngồi ở bàn tròn, xếp hoa sen giấy. Chị ba thấy gã bèn nói: “May mà em về muộn thế này, mẹ đi ngủ rồi. Mẹ vẫn không biết em sẽ về.”
Linh đường của cha rất đơn giản, toàn bộ theo di nguyện của cha, linh đường càng giản dị càng tốt, nghi lễ không cần cầu kỳ, khỏi phải đốt gì cho cha cả, chỉ vái lạy, hỏa táng là được. Người cha trung niên trong di ảnh có nụ cười rất nhạt, mày rậm mắt sáng, ngũ quan đẹp đẽ, trên mặt có vài nếp nhăn. Cha cả đời giữ nhiều bí mật, đều kín như bưng, trong tẩm di ảnh này, vẻ mặt bình thản. Người chết vẻ mặt bình thản, người sống lại che che giấu giấu, con gái con trai trước linh đường thảy đều có tính toán riêng, ai nấy trong lòng mang ý đồ xấu. Di thể của cha còn chưa nhập liệm, phải chờ giờ tốt, tạm thời bảo quản trong hòm lạnh. Tầng trên hòm lạnh trong suốt, cha mặc áo liệm, lặng lẽ nằm bên trong. Gã đặt tay lên phía trên hòm lạnh, nói: “Cha ơi, là con đây.” Vẻ mặt khi chết của cha khớp với tấm di ảnh, nếp nhăn giãn ra, màu tóc đen nhánh.
Ban đêm phải có người túc trực bên linh cữu, gã xung phong, dù sao cơ thể gã vẫn tưởng rằng hiện đang là giờ bên Đức, nên lúc này chẳng buồn ngủ chút nào, mọi người đi ngủ đi, để em trông cho.
Vĩnh Tĩnh ban đêm thật sự yên tĩnh. Có chút đìu hiu mùa thu, gió lạnh mang theo vài tiếng côn trùng kêu lác đác. Lâu lắm rồi gã chưa gặp các chị kia mà? Sao mọi người xa lạ thế này, không tiếp xúc cơ thể, không ôm ấp, ánh mắt lảng tránh, không khóc không cười. Mọi người chỉ liên tục bưng đồ ra cho gã ăn, “Em ăn nhiều vào, sao sang Đức lại gầy đi rồi?”
Cửa chính mở toang, linh đường thắp đèn, phía sau lư hương có một chiếc máy phát mini, đang phát rì rầm tiếng tụng kinh “Nam mô A di đà Phật”. Gã một mình ngồi trước linh đường, xếp hoa sen giấy, ăn mì tôm. Chị dặn dò, phải để ý mèo chó, ở quê còn rất nhiều mèo hoang chó hoang, theo tục lệ không được để chúng lại gần linh đường. Gã mở mắt dỏng tai, nhìn kỹ xem chỗ tối có chó mèo không, bấy giờ mới nhận ra, con đường trước dãy nhà cũ, trong quãng thời gian gã đi xa đã mở rộng thành đường lớn, trải nhựa bằng phẳng, được ánh đèn linh đường chiếu rọi, lấp lánh ánh sáng mới mẻ.
Hôm sau người thức dậy đầu tiên là mẹ. Mẹ thấy thằng út là gã, chỉ hỏi: “Anh mày đâu? Vẫn ở đại lục à? Cha chết rồi, phải có con trai bưng linh vị. Mày có về cũng vô dụng thôi. Mày không được coi là con trai đâu.”
Hôm đó xảy ra rất nhiều chuyện. Mẹ đuổi gã đi, lật đổ tất cả di nguyện của cha, tang lễ phải trọng thể, không cho hỏa táng, chỉ được thổ táng. Mẹ buộc gã đi, chửi gã “Đồ lông bông lêu lổng”, “Đồ phá gia chi tử”, “Đồ báo nhà”. Trước khi gã đi, nhân viên mai táng đang chuẩn bị đặt di thể cha vào quan tài. Mẹ chê quan tài sơ sài, khăng khăng đòi chọn giờ khác nhập liệm. Nhà họ Trần tuy hiện giờ không giàu có gì nhưng không phải không mua nổi quan tài tốt, mẹ muốn đích thân đi chọn một cỗ tốt. Chị cả nói, đó là quan tài lúc sinh thời cha sang tiệm quan tài sát vách đặt làm, gỗ rẻ, kiểu dáng giản dị, cha nói dù sao cũng sẽ hỏa thiêu, dễ thiêu là được.
Trước khi gã rời đi, mẹ đang gào thét, ôm di thể cha khóc rống, miệng tuôn một tràng dài tụng kinh niệm chú, không cho di thể cha nhập quan.
Bỏ lỡ đám tang cha, về đến Đức không bao lâu gã đã vào tù, chưa từng cúng tế mộ cha. Gã biết cha an táng ở đâu, đã về rồi lại đúng rằm tháng Bảy, thì đi viếng mộ cha thôi.
Đi một hồi, gã lạc đường, không tìm thấy đường dẫn đến nghĩa địa. Những con đường nhỏ ở quê hoàn toàn không giống như gã nhớ. Đường làng trong ký ức của gã là đường đất lổn nhổn đá sỏi, giờ đây đều đã trải nhựa. Gã nhớ, ra khỏi vườn khế ngang qua xưởng nước tương, rẽ ngoặt rồi đi thẳng sẽ thấy nghĩa địa mà. Chắc chắn vì trời nóng quá, gã cảm thấy đầu óc cần hạ nhiệt, không thể dựa vào trí nhớ dẫn đường. Lòng vòng rất lâu, cuối cùng cũng tìm thấy xưởng nước tương, nhưng nay đã là nhà xưởng bỏ hoang, mái tôn biến mất, cỏ dại um tùm. Hồi nhỏ, gã dựa vào khứu giác là có thể tìm thấy xưởng nước tương, chỉ cần ngửi thấy mùi mằn mặn chua chua là biết xưởng nước tương ở gần đó. Gần chung cư của gã ở Berlin lúc trước có một nhà máy kẹo, mỗi lần mở cửa sổ sẽ ngửi thấy mùi ngọt. Hôm giết T, gã mở cửa sổ chung cư, hương mật ong thơm nức lập tức phả vào, a, hôm nay nhà máy làm kẹo mật ong, trên người gã bê bết máu, máu của T, máu của chính gã, đau quá, muốn ngủ một giấc quá, mùi mật ong khiến gã nhớ đến mùa xuân tươi đẹp, trăm hoa đua nở, bầy ong vo ve. Gã ngửi mùi mật ong, nằm trên sàn nhà lạnh băng, rơi vào giấc ngủ sâu. Trước khi giết T, gã đã lâu lắm không ngủ. Cuối cùng cũng ngủ được rồi, giấc ngủ sâu không mộng mị, gần như chết.
Khứu giác là cách gã phân biệt phương hướng của quê nhà, vườn khế có mùi thơm quả chín, Thành Cước Ma có mùi đốt hương, nghĩa địa có mùi tro tiền vàng mã, xưởng nước tương có mùi ngọt thuần khiết của đậu đen lên men. Hiện giờ xưởng nước tương bỏ hoang, tường bao có hình vẽ loang lổ và một đống áp phích, tờ rơi quảng cáo. Gã xem kỹ, tường bao vốn bị xã trưởng nhiệm kỳ nào đó coi như tấm vải vẽ tranh tuyên truyền chính trị, nét bút vụng về, sắc thái khoa trương vẽ ra phong cảnh nhà nông được mùa, thóc mẩy hoa thắm, nông dân tươi cười mừng một năm tốt đẹp. Tâm điểm của hình vẽ trên tường bao là chân dung xã trưởng đương thời, mái đầu tròn trịa, nhe hàm răng trắng muốt, biểu ngữ bên cạnh viết: “Vĩnh Tĩnh phát triển đại phồn vinh, bội thu cả nhà mừng sum họp, xã trưởng Trần Thiên Nhất và Quỹ Vương Tân kính tặng.”
Anh trai.
Xã trưởng Trần Thiên Nhất chính là anh trai gã. Đứa thứ sáu trong nhà họ Trần, đứa con trai cuối cùng cũng chào đời sau khi liên tiếp đẻ năm đứa con gái.
Đó đúng là khuôn mặt của anh gã, vầng trán đầy đặn, mày rậm mắt to tóc xoăn, giống mẹ. Hình vẽ bị gió mưa tàn phá, mảng màu bong tróc, cả cái miệng của anh gã đã biến mất. Đến gần xem, trên chân dung anh gã có nhiều bút tích chửi bởi: “Đ.m mày, tham ô, hủ bại, xuống địa ngục, trả tiền”, nhiều tờ quảng cáo, áp phích tranh cử choán hết mặt tường, che đi hình vẽ vốn có. Gã đọc một lượt tất cả quảng cáo: gieo quẻ hỏi việc, Tế Công xem bói, thu mua xe cũ, cho vay mua ô tô, bọc lại xô pha, xả hàng nhà máy, chuỗi cửa hàng ổi, chuyên xử lý ly hôn, bắt gian, mai mối chuyên nghiệp, nâng ngực không phẫu thuật, bảo trì tháp nước, dọn bể phốt, đòi nợ chuyên nghiệp, đứng tên đầu tư, cô dâu ngoại quốc, tin Thượng Đế được sống lâu, còn có áp phích tranh cử của nhiều nghị sĩ, đại biểu, chủ tịch huyện, tầng tầng lớp lớp chồng chất, áp phích cũ tróc xuống, áp phích mới lại dán lên, cả mặt tường vô cùng náo nhiệt.
Những tờ quảng cáo này chính là quê hương của gã. Kẻ lừa đảo, ngân hàng ngầm, xã hội đen, mai mối, tham chính, tham ô, cuộc đời gặp vấn đề nào khó giải quyết thì đến mặt tường này tìm, dưới mỗi mẩu quảng cáo đều có số điện thoại, gọi rồi cuộc đời sẽ có lời giải đáp.
“Này cậu.”
Một chiếc xe tải nhẹ dừng ở ven đường, tài xế thò đầu ra, gọi gã.
“Này, là cậu à? Trần Thiên Hoành?”
Tài xế xuống xe, đi về phía gã.
Là Thuyền Con.
Thuyền Con, Thuyền Con làm gã say sóng, bạn cùng lớp cấp hai của gã, cậu trai thứ hai ở quê nhà mà gã từng yêu, sau Quần Đùi Đỏ.