Chương 10 Cảm ơn Paris
Điện thoại lại reo.
Thục Mỹ từ sàn nhà đá mài bò dậy, nghĩ bụng hẳn lại là em tư. Mấy tháng trước, chị đọc tin tức trên mạng, biết cả nhà Bạch Cung đi châu Âu nghỉ mát. Họ mặc đồ gì ra sân bay, ngồi máy bay nào, ở khách sạn nào, chạy xe gì, phóng viên mọi ra hết thảy trang phục trên người họ, viết rõ nhãn hiệu và giá cả, “Đại gia bánh quy dắt con đi châu Âu hưởng lạc, dâu trưởng không xuất hiện bên cạnh con trai trưởng, chỉ thấy cô bồ người mẫu mới”. Phóng viên vẽ một sơ đồ gia phả, bà cả người Đài Loan, bà hai người Bắc Kinh của ông trùm đều từng cầm cùng một mẫu túi xách hàng hiệu Paris đặt làm riêng, người vợ con trai trưởng nhiều năm nay chẳng thấy lộ diện, cô bồ mới là người mẫu hai mươi tuổi vừa ra mắt, con trai thứ nhiều lần đính hôn, lần nào cũng là mấy em chân dài bốc lửa. Trên bài đăng có một tấm hình dâu trưởng, nét mặt buồn rầu đau khổ.
Dâu trưởng nhà họ chính là em tư, tấm hình đó là ảnh chụp nhiều năm trước, trong đám tang của em năm, phóng viên chụp từ xa, thật ra hiện giờ em tư trông thế nào, người chị cả là chị cũng không rõ. Chị mua hoa quả, đến bấm chuông điện Bạch Cung. Cổng Bạch Cung lắp mấy chiếc camera giám sát, chuông điện không có hồi âm, nhưng chị biết có người đang nhìn mình. Đột nhiên, người làm vườn từ cửa nhỏ bên tường bao Bạch Cung đi ra, đứng xa xa ra hiệu cho chị vào qua lối cửa nhỏ.
Thục Mỹ sải bước đi tới: “Yên tâm, chị không ngốc thế đâu, chị biết họ không có nhà, đi châu Âu cả rồi. Trên mạng có đưa tin mà.”
Người làm vườn cau mày: “Chị thế này tôi rất khó làm việc, họ về, có khi sẽ kiểm tra băng ghi hình camera giám sát, chị làm vậy khiến tôi nhọc lắm, còn phải tốn thời gian xử lý băng ghi hình. Mau vào đi, đừng để người ta nhìn thấy.”
Người làm vườn dẫn chị vào từ cửa nhỏ, băng qua vườn hoa, đi vào Bạch Cung. Thục Mỹ đứng trước cửa phòng em tư, gõ cửa: “Tố Khiết, là chị, chị cả đây. Chị đến thăm em.”
Tố Khiết không mở cửa, từ trong phòng gọi vào di động của Thục Mỹ, còn chưa kết nối đã bắt đầu gào: “Chị điên rồi hả? Đã bảo chị tuyệt đối đừng vào đây cơ mà? Trong này buồn nôn lắm! Bẩn lắm! Anh ta sẽ giết chị mất! Anh ta việc gì cũng làm ra được!”
Tiếng hét của Tố Khiết bị lọc qua cửa phòng, truyền đến tai Thục Mỹ, giống như tiếng sấm ầm ì phương xa. Thục Mỹ nghĩ, nếu thật sự có sấm rền thì tốt quá, lâu lắm rồi trời không mưa, không khí cứ xám xịt, ngửi có mùi khét thoang thoảng. Thục Mỹ lại gõ cửa: “Yên tâm đi, chị cả không ngốc thế đâu, chị cả biết họ không có nhà. Em mở cửa được không? Chị mang hoa quả đến, đu đủ mà em thích ăn đấy. Chị em mình cùng ăn, được không em?”
Tố Khiết không đời nào mở cửa, chỉ liên tục gọi vào di động của Thục Mỹ, giục chị đi mau: “Chị mau đi đi, còn không đi sẽ không kịp mất! Người chết của nhà ta còn chưa đủ nhiều sao?”
Thục Mỹ đứng trước căn phòng ngủ ở Bạch Cung, điện thoại trong tay cứ reo mãi, sau cửa không ngớt vọng ra tiếng gào của Tổ Khiết. Thục Mỹ vẫn không bắt máy, mặc cho nó reo.
Hôm nay là rằm tháng Bảy, Tố Khiết gọi điện gào “Mẹ đâu mất rồi”, đã mấy năm trời không nghe Tố Khiết nhắc đến mẹ, hôm nay làm sao vậy. Giờ điện thoại lại reo, chị tìm thấy điện thoại trong đống vải vụn bên cạnh máy may, số gọi đến hiển thị không phải em tư, mà là Paris.
Chị vội bắt máy: “Chào bà chủ, hôm nay không bận cúng, rảnh rỗi gọi điện cho tôi à?”
“Thục Mỹ! Cô mau tới đây đi! Xảy ra tai nạn rồi! Ông xã cô lật xe trên đường, sữa, khắp nơi lênh láng sữa! Ôi chao! Cô mau tới đây đi!”
Chị hoàn toàn không kinh hoảng, bình tĩnh hỏi địa điểm, nói sẽ tới nhanh nhất có thể. Sao lại gây họa rồi, mấy năm nay chồng chị gây họa khắp nơi, thực tình là chẳng có chuyện lớn gì làm chị khiếp sợ được nữa. Chị nghe giọng điệu Paris trong điện thoại là biết, xe tải bị lật, nhưng người chưa chết. Hôm nay nóng thật, chị quyết định cứ từ từ. Dù sao cũng có Paris ở đó.
Soi gương, thay áo, mái tóc uốn nhuộm nửa năm trước, gợn sóng lơi, màu tóc phai, mặt khắc khổ, mí mắt sụp, nếp nhăn sâu, chị luôn cảm thấy trên mặt ngày ngày đêm đêm đều đang động đất, mới nứt ra những vết nông sâu như này. Tóc quả thực phải nhuộm lại uốn lại rồi, nhưng gần đây làm gì có tiền đến chỗ Paris.
Vùng đất nhỏ chỉ có ba tiệm làm đầu, tiệm lâu đời nhất không có tên, trên tấm ván gỗ mốc meo bên ngoài đề “Cắt tóc”, buổi tối ván gỗ lật lại thì biến thành “Gà giòn lắc muối”, bà chủ mười mấy năm chưa hề thay chảo dầu, gà rán ra thường có sợi tóc, dân địa phương gọi đùa là “Gà rán tóc”. Tiệm thứ hai tên “Bốn chị em”, trong nhà đẻ toàn con gái giống nhà Thục Mỹ, tất cả đều làm tóc, bốn cô chung một ông bố, song lại có bốn bà mẹ khác nhau, ông bố chọn bốn người đàn bà là muốn sinh con trai, nhưng chẳng lần nào thành công, đứa thứ tư vừa lọt lòng liền tức đến nỗi phát bệnh tim mà chết. Bốn chị em cắt tóc uốn tóc đều qua loa tùy tiện, gặp “ngày tốt” âm lịch thì đóng cửa, bốn chị em bận đi đám tang nhảy điệu dẫn vong, hôm cha động quan cũng do chị em họ phụ trách mở đường, đưa vong hồn cha thuận lợi lên núi tiên. Tiệm thứ ba tên “Studio tóc Paris”, được các bà các cô trong xã ưa thích nhất, trên tường trong tiệm dán mấy tờ áp phích tháp Eiffel, thợ làm tóc là hai mẹ con đến từ Đài Bắc, không biết nói tiếng Đài, nghe nói từng theo tour du lịch đi Paris ba ngày hai đêm. Bà chủ da mặt trắng sáng, lông mi dài, mũi thẳng, đi nhẹ như mèo. Gặp bà chủ Paris, Thục Mỹ liền hiểu vì sao có người nói người nông thôn “quê một cục”, trên mặt Paris đến từ thành phố không có khói bụi, mịn màng trơn láng. Đâu giống như chị mặt mày nhớp nháp, ảm đạm tối tăm, rửa mặt thì ra cả chậu nước bẩn. Chị đoán nước tắm của bà chủ Paris nhất định sạch sẽ trong veo. Cô con gái Paris cũng xinh đẹp, lặng lẽ ở cạnh giúp gội đầu, quét tóc, không nói chuyện, nghe kể trước đây học trường cấp ba nữ sinh nổi tiếng ở Đài Bắc, học riết bị bệnh trầm cảm, nghỉ học theo mę vê quê. Bà chủ Paris nói: “Con gái khỏe lại, chúng tôi sẽ về Đài Bắc.”
“Studio tóc Paris” thật ra chỉ biết uốn một kiểu tóc gợn sóng, nhưng cạnh gương là một tấm ảnh hai mẹ con chụp trước tháp Eiffel Paris, ở quê nào ai đã từng ra nước ngoài? Nào ai có hộ chiếu chứ? Paris là tưởng tượng tuyệt đỉnh của vùng đất nhỏ về châu Âu, đến tiệm làm đầu này uốn quả đầu gợn sóng, liền cảm thấy mình rất Pháp rất Tây. Mọi người tới Paris uốn đi uốn lại cùng một kiểu, ra chợ kêu từng bà nội trợ quay gáy về phía mình, sẽ phát hiện mỗi mái đầu nhìn từ sau trông đều giống nhau, nếp xoăn như nhau, chia lọn như nhau, đều Paris. Có lần bà chủ Paris hỏi chị: “Thục Mỹ, nghe nói em trai út của cô ở châu Âu hả? Có phải ở Paris không? Giỏi ghê nhỉ. Ôi, Paris đẹp long lanh thật ấy, cô xem cô xem, chiếc áo này tôi mua ở Paris đấy, đẹp không nào?” Thục Mỹ đáp: “Em tôi ở Berlin.”
“Berlin? Là đâu thế? Sao chưa từng nghe? Thục Mỹ đã đi chưa?” Chị lắc đầu: “Tôi cũng muốn đi lắm.” Năm mười lăm tuổi chị rời nhà đi Sa Lộc Đài Trung làm công nhân, những tưởng mình có thể chạy thật xa thật xa, kết quả cuối cùng chẳng đi được đâu, vẫn về lại chốn này. Chị ngưỡng mộ bà chủ từng đi Paris, cho dù chị rõ ràng từng thấy chiếc áo mua ở Paris của cô ta ở sạp hàng chợ chiều thị trấn bên cạnh. Đó là lần đầu tiên chị ngửi thấy mùi quê mùa ở bà chủ Paris.
Mười tám tuổi, chị quen chồng ở nhà máy dệt may tại Sa Lộc. Anh họ Cao, lái xe nâng, thấp bé kiệm lời, phụ trách bốc dỡ quần áo, thường gọi là Tiểu Cao. Xe nâng thật ra không dễ điều khiển, nhưng anh năm xưa là tay thiện nghệ xe nâng trong nhà máy, có thể nhanh chóng xếp những thùng vải lên giá nhà kho. Mỗi lần chị đến kho lấy vải, Tiểu Cao thường ngày không nói chuyện sẽ tới gần chào hỏi: “Thục Mỹ, có muốn đi hóng gió không?”
“Hóng gió” chính là nhân lúc xưởng trưởng không có mặt, tài xế xe nâng đưa nữ công nhân ngồi trên xe nâng, chạy mấy vòng trong kho. Cuộc sống của các nữ công nhân buồn khổ, mười mấy cô gái trẻ chen chúc trong một căn ký túc xá chật hẹp, mỗi ngày ngồi bên máy may làm việc mười mấy tiếng, mỗi tuần chỉ được nghỉ một ngày, có thể ngồi lên xe nâng đi mấy vòng, sát bên anh tài xế trẻ, đã là sự lãng mạn trong nhà máy rồi. Chị sợ bị xưởng trưởng phát hiện, mãi không chịu nhận lời, không dám ngồi lên xe nâng. Mười lăm tuổi chị đã nghỉ học xa nhà đến Sa Lộc làm việc, năm đó Đài Loan xuất khẩu mạnh, đơn đặt hàng ngành dệt may nhận không xuể, có người bạn học mách chị rằng Sa Lộc gần nhà đang tuyển rất nhiều công nhân nữ, xưởng trưởng căn bản không xem xét trình độ học vấn, bao ở, cứ chịu khó sẽ được tuyển dụng. Chị ghét học hành, đầu óc củ đậu mà, ngày ngày ở nhà nghe mẹ than nghèo liền muốn ra ngoài kiếm tiền. Hơn nữa, chị thật sự không thể tiếp tục nán lại trong nhà nữa, sau sự việc đó, sau sự việc mà cha không biết đó, sau sự việc mà toàn thế giới đều không biết đó, chị chỉ muốn chạy trốn. Mẹ không cho chị đi, chị không hiểu, chị muốn đi kiếm tiền, nhất định sẽ đem tiền về nhà, gia đình bớt một miệng ăn, bớt một phần học phí cần đóng chẳng phải rất tốt sao? Mẹ tát chị một bạt tai, khăng khăng không cho chị đi. Thật ra không phải mẹ phản đối chị ra ngoài làm việc, mà là mẹ ghét chị, nên việc gì cũng phải phản đối. Đương nhiên chị biết mẹ ghét mình là vì sự việc đó. Cô bạn cùng lớp đã bỏ học đi làm mấy tháng, từ Đài Trung xúng xính quần áo mới trở về, toàn thân lấp lánh tỏa sáng, len lén rỉ tai chị, trong nhà máy có rất nhiều trai. Hôm sau, chị theo bạn đi Sa Lộc, vào nhà máy may làm việc.
Chị quả tình chưa từng nghe nói đến Sa Lộc, chị ngồi tàu hỏa rồi chuyển xe buýt đến đó, dọc đường nhìn thấy rất nhiều nhà máy, chứng tỏ dễ tìm việc, có tiền kiếm. Cô gái nhà quê là chị chưa bao giờ thấy nhiều xe và nhiều người như thế. Sa Lộc đương nhiên tốt hơn quê nhà, có tiền kiếm, có chợ đêm, có một trường đại học, có khói bụi của thành phố phồn hoa, chị cuối cùng không cần ngày ngày đối mặt với mẹ. Chị vào ở ký túc xá dành cho công nhân nữ, hơn chục cô gái, đều mười mấy tuổi, nhà đều nghèo, bỏ học đến đây học may.
Chị lĩnh lương tháng đầu tiên, phấn khởi bắt vội xe về nhà đưa mẹ, mẹ nhận tiền, chẳng buồn nhìn chị, đếm tiền, cau mày, không nói không rằng, ý là chê ít. Sau đó chị ít về nhà, hằng tháng ngoan ngoãn gửi tiền về, Chủ nhật chỉ ru rú trong ký túc xá khóc, nghe đài phát thanh. Các em gái từ quê viết thư gửi chị, kể những chuyện vụn vặt ở nhà, em trai út lúc nào cũng vẽ lên thư, viết: “Chị cả mau về nha.” Em trai út từ nhỏ nét chữ đã chân phương, theo các chị học viết chữ từ rất sớm, rất thích đọc sách, thảo nào lớn lên trở thành nhà văn. Tuy những cuốn sách em trai út viết sau này, chị đều đọc không hiểu, nhưng cuốn nào chị cũng mua. Chị chạy xe máy đến hiệu sách ở thị trấn bên cạnh, hỏi thăm nhân viên tên sách, lúc thanh toán nói với họ: “Đây là sách em trai tôi viết đấy. Nhờ các vị giúp quảng cáo nhé, xin cảm ơn.”
Sau khi gặp được Tiểu Cao ở nhà máy may Sa Lộc, cuộc sống bình thường, hằng ngày cứ 10 giờ tối Tiểu Cao sẽ mang bữa ăn khuya đến ký túc xá công nhân nữ tìm chị, các nữ công nhân khác vừa trông thấy Tiểu Cao liền gọi toáng lên: “Thục Mỹ có người tìm!” Hai người ngồi trên hành lang ngoài ký túc xá ăn gà giòn lắc muối, ngắm bầu trời Sa Lộc, ngoài ký túc xá liên tục có xe ben rầm rập chạy qua, cuốn bụi đất mù trời, được bụi đất che chắn, chị mới dám ngẩng đầu giương mắt nhìn Tiểu Cao, mũi nhỏ mắt nhỏ thân hình nhỏ, da đen sạm, giỏi chạy xe, ban ngày lái xe nâng trong nhà máy, ban đêm thường nhận việc thời vụ lái xe tải, chở xi măng chở dựa hấu chở bắp cải, gần như không nói chuyện, khiến chị nhớ đến cha.
Có lần, một cái giá trong kho vải nhà máy đột nhiên gãy sập, xô đổ các giá khác theo hiệu ứng domino, hàng hóa nặng mấy tấn trút xuống, chất thành một ngọn núi nhỏ đầy bụi, xô sập bức tường tồn của nhà xưởng. Đúng lúc là giờ cao điểm xuất hàng, cánh tài xế xe nâng đều đang làm việc trong kho, bị chôn cả trong đống hàng. Chị và toàn thể công nhân tất bật gạt hàng ra, tìm kiếm các tài xế xe nâng. Chị nhớ rất rõ, container hàng chuẩn bị xuất khẩu lần đó là áo Polo màu đỏ, tất cả công nhân nữ đều bỏ lại công việc đang làm, lao vào đống vải đỏ, hô hoán mau cứu người. Chị luôn tay đào bới xuống dưới, cuối cùng cũng mò thấy một cơ thể âm ấm, chị vận hết sức lực túm lấy cơ thể đó, nhưng không kéo ra được, chị gạt mở vải đỏ, nhìn kỹ mới nhận thấy cả cái đầu người đã bị đè bẹp. Thình lình, một cái đầu khác ló ra từ lối thoát màu đỏ mà chị đào ra, là Tiểu Cao, anh thấy chị bèn cười toe. Chị lại nhìn cái đầu bị bẹp kia lần nữa, chị biết cái đầu đó có ba đứa con, vợ là nữ công nhân may giống chị, ngồi đối diện chị. Chị ôm cái đầu gào khóc nức nở, Tiểu Cao bò ra khỏi đống vải đỏ, không hề bị thương, ngồi cạnh chị, chờ chị nín khóc mới nói: “Thục Mỹ, có muốn đi hóng gió không?”
Hôm sau, chị quay lại nhà xưởng làm việc, vải đỏ đã chẳng thấy đâu nữa, bức tường tôn của nhà máy đã sửa xong trong đêm. Đối diện chị là một nữ công nhân mới, vừa ngồi xuống đã cắm cúi may, xưởng trưởng hô to, phải gấp rút xuất hàng, không ai được làm biếng! Chị hỏi đồng nghiệp, nữ công nhân ngồi đối diện chị lúc trước, vợ của cái đầu đó, đi đâu rồi? Mọi người đều không nói chuyện, cũng bảo chị đừng nói chuyện.
Mấy tháng sau, chị dính bầu. Xưởng trưởng vừa hay tin, ngay hôm đó đã đến ký túc xá, bảo chị cuốn gói. Chị quả thực không còn chỗ nào để đi, đành về nhà. Mẹ chửi: “Bảo là ra ngoài kiếm tiền cơ mà, té ra là đi đú đởn, đú đởn đến ễnh cả bụng ra.” Ở vùng đất nhỏ, chưa cưới mà đẻ là vụ bê bối lớn, vừa hay căn sát vách trong dãy nhà đang cho thuê, cha bỏ tiền ra thuê làm nhà tân hôn, đảm cưới gấp gáp, của hồi môn ít ỏi. Chị xa nhà đi làm ba năm, vốn lên kế hoạch dành dụm một khoản tiền để an cư ở nội thành Đài Trung, chị không muốn làm công nhân may cả đời, muốn mở một cửa tiệm, bán quần áo đẹp. Nhưng quanh quẩn một vòng, mơ giấc mộng thành phố, chị lại vòng về dãy nhà phố ở quê, căn nhà từng cố hết sức để chạy trốn chỉ cách chị một bức tường.
Chồng chị nghỉ việc lái xe nâng ở Sa Lộc, theo chị về vùng đất nhỏ này, làm việc vặt ở công trường gần đó. Sau khi cưới chị mới biết anh chồng trầm lặng mê bài bạc, bài tứ sắc, mạt chược, cá độ chẳng chừa món nào. Mang thai chín tháng, tiền tích góp nhiều năm của chị không còn lại một xu, chị về nhà mẹ ở kế bên vay tiền, rõ ràng chỉ cách vài bước chân mà bước nào bước nấy gian nan, vừa mở miệng đã chuốc lấy nhục nhã. Mẹ lấy ra một xấp tiền mặt, há miệng bắn gươm đao: “Mười lăm tuổi đã chạy ra ngoài kiếm tiền, kiếm đến giờ vẫn tới vay tiền tao. Cả thế giới chỉ có con ngốc như mày không biết nó đánh bạc sau miếu thổ địa.” Chị về nhà giấu kỹ tiền, rồi cầm dao phay xông vào miếu thổ địa, lật bàn, lôi kéo, dao phay chém trúng mấy người khuyên can, người đứng xem, tượng ông địa, chỉ không chém trúng chồng. Chồng chuồn ra khỏi miếu thổ địa, chạy vào ruộng lúa, chị cầm dao đuổi bén gót, cảnh sát tuýt còi bíp bíp ở phía sau, chị chạy qua ruộng lúa, ruộng cúc, ruộng rau muống, nước ối bỗng vỡ, trước khi xe cứu thương đến, chị đã đẻ trong ruộng rau muống. Chị nhớ đêm ấy trong ruộng ếch ôm ộp kêu vang, cùng hòa âm với tiếng la hét khi sinh nở của chị, đêm hè ánh trăng trong trẻo, chị nhìn rõ từng khuôn mặt xúm lại xem, chỉ không thấy cha của con gái đâu cả. Ruộng rau muống đó giờ đã biến mất, trở thành Bạch Cung tráng lệ. Lúc đó chị rõ ràng càng chạy càng nhanh, gần đuổi kịp rồi, chỉ còn một bước thôi, sắp chém trúng rồi. Hai ngày sau chị xuất viện về nhà ở cữ, không ngoài dự liệu, số tiền mặt mẹ cho chị vay đã bay biến.
Dao phay chém không chết, xà phòng đầu độc không chết, chị biết hôm nay xe tải lật, chồng chắc chắn cũng không chết được.
Chị biết gần đây chồng thường ở lại tiệm Paris. Mấy năm nay lão làm tài xế siêu thị, chở hàng chở rau chở cá. Hội chị em bạn dì đến mật báo, nói thấy trên xe tải của lão có phụ nữ, không nhìn rõ mặt, cũng không kịp chụp ảnh, xúi chị đi thuê thám tử tư, kiện chết con mụ đê tiện đó. Chị cười như mếu, hùa theo chửi đồ lẳng lơ đồ đĩ thõa, nhưng chẳng mảy may muốn biết đối phương là ai, không ngờ lại có người đàn bà khờ khạo bằng lòng đón nhận chồng chị, chị cảm kích khôn xiết, chắc chắn là Thiên Hậu hiển linh. Có lần, chị gội đầu ở Paris, buồn tiểu đi nhờ phòng vệ sinh, vừa ngồi xuống bồn cầu đã nhìn thấy áo Polo của chồng treo trên cửa phòng. Chiếc áo Polo ấy là đồng phục của nhà máy may Sa Lộc, đã mặc ba mươi mấy năm, trên đó còn in tên xưởng may nay đã đóng cửa. Chị vốn chỉ buồn tiểu, vừa thấy chiếc áo Polo ấy, bỗng dưng buồn ị, cơ thể thả lỏng, bài tiết mạnh mẽ, loáng cái chị cảm thấy nhẹ cả người. Chị tung tăng đi về chỗ ngồi, vừa gội đầu vừa phì cười. Bà chủ Paris hỏi chị: “Chuyện gì mà vui thế?” Chị cười đáp: “Cô đấy, đều nhờ cô đấy, khéo gội đầu thế này, đã đi Paris đúng là có khác, dễ chịu quá.” Thật ra, trước khi vào phòng vệ sinh ở tiệm Paris, chị đã táo bón cả tuần.
Chị quyết định không thay đồ, không ra ngoài nữa. Trời nóng nực thế này, chị vừa nghĩ đến mặt đất lênh láng sữa, miệng chợt lợm mùi chua loét. Có Paris ở đó là được, Paris từng đi Paris, còn chị chưa đi Paris bao giờ. Giao cho Paris, cảm ơn Paris.