Chương 11 Đến đây đến đây đến đây nào
Thục Lệ muốn viết thư cho em trai út.
Trong chợ chiều ở khu dân cư cũ thuộc Đài Bắc này có một tiệm văn phòng phẩm cổ lỗ sĩ, đèn huỳnh quang trong tiệm thoắt mờ thoắt tỏ, buôn bán ế ẩm, rất nhiều văn phòng phẩm bày mấy năm trời cũng không bán được, bút bi khô mực, lọ mực cạn queo, bao lì xì đỏ bị nắng chiếu trắng bợt, mấy năm trước gặp bão, cả khu dân cư này bị lụt, giấy viết thư ngâm nước lũ, khô rồi vẫn bày lên giá bán. Chủ tiệm là ông bác đến từ Chương Hóa, mười mấy tuổi đã lên Đài Bắc học nghề, hơn năm mươi năm không về quê, người nhà họ hàng chết cả rồi, chẳng có gì hết, một thân một mình chỉ còn lại căn tiệm xập xệ này, ăn ở tại đây luôn, buôn bán kém thì thôi, dù sao cũng không nhập hàng nữa, chờ bán hết toàn bộ tồn kho, ông sẽ bán căn tiệm, về quê làm ruộng. Thục Lệ hay đến đây mua giấy viết thư cho em trai út, giấy viết thư cũ nhăn nheo, kiểu viết dọc, nền trắng ngả vàng sọc đỏ, không có hoa văn, hết sức đơn giản, phơi nắng hè đến giòn tan, thường bị ngòi bút rạch rách. Ông chủ nói với cô, lô hàng này bán hết sẽ về quê. Tuy cô đã mua cả xấp dày giấy viết thư, nhưng trông lượng hàng tích trữ trong tiệm, có lẽ ông chủ cả đời này phải kẹt lại đây mất thôi. “Về nhà” nếu tỏ bày bằng lời nói, thì là một giấc mộng chẳng liên quan đến hiện thực. Người muốn về nhà tự nhiên sẽ về nhà, miệng không cần nói, đầu không cần nghĩ, đôi chân biết dẫn đường, đến nơi không cần tìm chìa khóa mở cửa, có người chờ, có ngọn đèn, có nước nóng, có giường ấm, trên bàn có bữa tối, cho dù cơm canh đã nguội, cái miệng cằn nhằn là lò vi sóng, bếp lạnh thoắt chốc đỏ lửa. Cô hiểu, bản thân cô cũng thường nói với chồng con: “Ngày mai mẹ về Chương Hóa hai hôm.” Song thật ra cô đến trọ khách sạn giá rẻ ở Đài Bắc, mọi người đều nói trước khi vào phòng khách sạn phải gõ cửa, thế thì ma trong phòng mới tránh đi, cô cũng gõ gõ, khẽ nói: “Tôi về rồi đây.” Trọ hai đêm trong khách sạn âm u, nằm trên giường xem phim người lớn, ngâm bồn thật lâu, gọt lê bóc chuối, đọc cuốn sách dày cộp, viết thư gửi sang Đức, thỉnh thoảng gửi tin nhắn cho chồng: “Chương Hóa nắng chang chang, em đoán Đài Bắc vẫn đang mưa nhỉ.” Nửa đêm vào giấc, cô nghe mưa Đài Bắc ngoài cửa sổ, trong phòng ẩm thấp, cô tưởng tượng có ma nằm trên giường, cùng mất ngủ với cô. Gõ cửa không phải đuổi ma, gõ cửa là mời gọi, đến đi ma.
Những sạp hàng ở chợ chiều không nhớ mặt cô, nhưng ông chủ tiệm văn phòng phẩm biết cô cũng là người Chương Hóa, luôn nhớ mặt cô. Cô không biết rằng, ông chủ nhớ mặt cô, vì cô là khách hàng duy nhất đến đó tiêu dùng. Ông chủ mở miệng thường là: “Chào cô Trần! Chào đồng hương Vĩnh Tĩnh! Tôi lại thấy tin tức về nhà họ Vương trên thời sự ti vi, niềm vinh quang của Vĩnh Tĩnh đấy, Quỹ Vương Tân, tài thật chứ! Bán bánh quy đến tầm như vậy. Cô có quen họ không?” Cô lắc đầu, ngập ngừng vài giây, lại gật đầu nói: “Hàng xóm.” Kết quả dẫn đến tràng truy hỏi của ông chủ tiệm: “Ồ! Hàng xóm à, vậy nhà cô cũng là thế gia vọng tộc rồi! Tôi xem ti vi thấy họ xây một tòa Bạch Cung, ánh vàng lấp lánh, nóc nhà cũng màu vàng, còn Bạch Cung hơn cả Bạch Cung nước Mỹ, [10] cô quen nhà họ chứ? Còn giữ liên lạc không? Đã vào Bạch Cung chưa? Nhà cô cũng rất giàu có nhỉ? Không biết Bạch Cung nhà họ Vương có mở cửa cho tham quan không? Lần sau tôi về Chương Hóa phải đi xem thử mới được.” Mỗi một câu hỏi, cô đều có câu trả lời, song cô không lên tiếng, lẳng lặng chọn giấy viết thư, tìm loại ít nhăn một chút.
Cô đi vào tiệm văn phòng phẩm, ông chủ đang thu dọn đồ cúng rằm tháng Bảy, không bất ngờ, bánh quy của nhà họ Vương là đồ cúng chính. Tiệm văn phòng phẩm đã mấy ngày không có khách ghé, ông chủ thấy cô, nói như xả lũ: “Cô xem, mấy tiệm kia đều cúng bừa bãi cả, rằm tháng Bảy sao có thể lấy lê cúng chứ, lớp trẻ Đài Bắc này ấy à, chả hiểu gì sất, năm ngoái tôi còn thấy nhà bên cạnh lấy khổ qua ra cúng, người lớn không dạy dỗ tử tế, tôi thấy sau này sẽ chẳng còn ai cúng kiếng đâu.” Cô biết cúng cô hồn kiêng kỵ lê, hồi nhỏ ở tam hợp viện, rằm tháng Bảy mẹ mua lê, còn chưa bày lên bàn cúng đã bị bà nội bạt tai. Lời lẽ sắc như dao bắn ra từ miệng bà nội, mắng mẹ không hiểu chuyện lại không chịu học, gả vào nhà họ Trần chỉ tổ làm mất mặt, quả trong tiếng Đài nghe giống như gọi ma đến, vậy mà không biết không thể cúng cô hồn. Quả lê xinh xắn rơi xuống đất, Thục Lệ vội nhặt, còn chưa chạm tới quả lê, gò má đã va phải lòng bàn tay bà nội, không được nhặt không được đụng không được ăn. Lòng bàn tay bà nội chi chít vết chai cứng, cọ qua khuôn mặt nhỏ nhắn của cô, đến giờ cô vẫn nhớ cảm giác quệt vào những vết chai ấy. Cô khẽ đọc đi đọc lại “quả lê” bằng tiếng Đài, quả lê quả lê quả lê quả lê, “lê” nghe có vẻ giống “đến”, nhưng chuẩn bị cả bàn đồ cúng thịnh soạn, chẳng phải là bày tiệc mời ma đến ăn sao? Thế nên quả lê không phải chính là lời mời sao? Khi vừa dọn đến chung cư nhỏ ở Đài Bắc, rằm tháng Bảy cô cố ý mua lê cúng, chủ sạp hoa quả dặn cô, lê không thể cúng đâu nhé, cô mỉm cười gật đầu, về nhà bày lê ngay chính giữa mâm cúng, thầm niệm: “Đến đây đến đây đến đây nào, bọn mi đến cả đi.”
Tiệm văn phòng phẩm này bày bán rất nhiều văn phòng phẩm lỗi thời quá hạn, thật sự rất giống hiệu sách hồi cô còn nhỏ. Hồi đó, Vĩnh Tĩnh có ba hiệu sách: Vĩnh Xương thư cục, Vĩnh Nam thư cục, Minh Nhật thư cục. Vĩnh Xương thư cục nằm bên ruộng rau muống do chồng cô giáo âm nhạc cấp hai của cô mở, chủ yếu bán sách tham khảo, văn phòng phẩm không nhiều lựa chọn, sau đó vợ chồng cô giáo âm nhạc đột nhiên biến mất, nghe nói họ cho rằng Đài Loan sắp sụp đổ nên cả nhà di dân sang Argentina. Sau khi phất lên, nhà Vương về Vĩnh Tĩnh muốn xây dinh thự, mua tất cả đất đai gần ruộng rau muống, dỡ bỏ mấy căn nhà cũ ven ruộng, quyền sở hữu nơi từng là Vĩnh Xương thư cục không rõ ràng, khó bề truy nguyên, nhà họ Vương quyết định dỡ trước tính sau. Máy xúc dễ dàng bổ Vĩnh Xương thư cục ra, bên trong còn chất đầy sách vở và sách tham khảo của thập niên 70, nhà họ Vương ra lệnh châm một mồi lửa, đốt hết số sách cũ đó.
Ông chủ Vĩnh Nam thư cục rất hung dữ, ai thử viết bút bi mà không mua chắc chắn sẽ ăn chửi, nhưng buôn bán vẫn tốt, vì các nam sinh đều biết rằng, tấm rèm đằng sau hiệu sách mở ra, có một gian phòng tối, bên trong chỉ có một ngọn đèn nhỏ, trên giá có sách bảo người lớn. Đó là cấm địa trong lời lũ trẻ, có lần cô thấy Vĩnh Nam thư cục chẳng có một ai, bèn đánh bạo vén rèm đi vào, nào ngờ gặp phải thầy chủ nhiệm cấp hai đang lật sách, thầy quay đầu trông thấy cô, hấp tấp vén rèm xông ra ngoài, bất cẩn va đổ giá sách, sách báo người lớn ập về phía Thục Lệ. Cô nhớ cô gái trên những trang sách in màu đó giang chân rất rộng, cô không lại dìu thầy chủ nhiệm bị té kêu đau, vì cả người ngã chúi nhủi vào đôi chân giạng ra trên trang sách kia. Ông chủ Vĩnh Nam thư cục đỡ thầy dậy, cô mới hoàn hồn, vừa quay đầu đã nhìn thấy mông thầy. Vào thời buổi chưa có giáo dục giới tính đó, ở Vĩnh Nam thư cục, cô đồng thời nhìn thấy bộ phận bí ẩn của cả nam và nữ, cuối cùng cô cũng đã hiểu câu thành ngữ “Một hòn sỏi trúng hai con chim”. Hôm sau đi học, thầy chủ nhiệm chống gậy vào lớp, tuyên bố phải đổi chỗ ngồi, cô bị đổi đến góc rìa cách bục giảng xa nhất, một bạn nam đồ con ngồi chắn phía trước. Nhiều năm sau, cô chủ nhiệm cấp hai của em trai út đến nhà mắng vốn, bắt em chuyển trường, chồng của cô chủ nhiệm chính là thầy chủ nhiệm ngã trong hiệu sách năm xưa. Cô chủ nhiệm chửi oang oang, cha mẹ xin lỗi rối rít, nhưng chồng cô ta vừa nhìn thấy Thục Lệ đã lập tức chạy ra ngoài. Bấy giờ cô chỉ lo lắng, chạy nhanh như thế, lỡ lại ngã, lại phải chống gậy thì làm sao?
Nơi cô thường đi nhất là Minh Nhật thư cục. Hai ông chủ Minh Nhật thư cục rất thích Nhật Bản, trong tiệm có bút bi, cục tẩy, compa, tạp chí của Nhật, cô đều không mua nổi. Lúc đó chị cả rời nhà đi Sa Lộc làm công nhân may, cô thường đến đây mua giấy viết thư nền trắng sọc đỏ, viết thư cho chị cả. Hai ông chủ một béo một gầy, tên ông chủ béo có chữ “Minh”, tên ông chủ gầy có chữ “Nhật”, ghép lại đặt tên cho hiệu sách. Ông chủ béo ông chủ gầy cùng ngồi sau quầy học tiếng Nhật theo băng cát xét, ăn gà giòn lắc muối, yêu thích sách văn học, nguyên giá sách đều là tiểu thuyết văn học và tản văn, trên quầy có bánh quy nhỏ thết đãi khách miễn phí, do ông chủ gầy tự tay nướng. Cô đứng trước giá sách đọc cả ngày, không có tiền mua sách, ông chủ béo vẫn cười cười hỏi cô: “Có thích cuốn sách đọc hôm nay không?” Cô và chị em cố gắng gom tiền để mua sách, mọi người luân phiên đọc, bấy giờ mua xong sách cứ như trong tay cầm vàng vậy, về nhà trước tiên ký tên lên trang đầu, ghi ngày tháng: “Thục Lệ mua ở Minh Nhật thư cục, Vĩnh Tĩnh”. Có lần, cô liếc trộm thấy ông chủ gầy nắm chặt tay ông chủ béo ở sau quầy thanh toán. Có khách vào, họ lập tức buông tay.
Hôm đó, cái hôm cảnh sát đến vùng đất nhỏ, là ngày cuối cùng của Minh Nhật thư cục. Nguyên hiệu sách bị phong tỏa, cửa sắt kéo xuống. Cô đứng bên ngoài dây phong tỏa, từ xa xa nhìn thấy cửa sắt kéo ra, ông chủ béo và ông chủ gầy bị cảnh sát chia ra áp giải vào hai chiếc xe cảnh sát. Cô nhớ rất rõ, trước khi lên xe hai người đeo còng tay bị cảnh sát lôi mạnh tách ra, ông chủ gầy đột nhiên gọi một tiếng thảm thiết: “Minh ơi!” Cảnh sát nện nắm đấm vào mặt ông chủ gầy, chửi: “Đồ biến thái.” Đó là lần cuối cùng cô nhìn thấy họ.
Mỗi lần đến tiệm văn phòng phẩm lâu năm ở chợ chiều Đài Bắc này, cô lại nhớ đến ông chủ béo và ông chủ gầy.
Cô xách rau, thịt lợn, giấy viết thư đi về nhà, dọc đường suy nghĩ, thư gửi em trai út, câu đầu tiên nên viết gì nhỉ? Em trai út là nhà văn mà, từ nhỏ hành văn đã hay, mỗi lần viết thư cô đều viết câu này: “Thứ lỗi cho chị hai hành văn không hay, chị xin lỗi.” Viết “xin lỗi”, là thật lòng muốn xin lỗi. Cô đọc tiểu thuyết em trai út viết, có một cậu học sinh cấp hai trắng trẻo gầy yếu bị giáo viên chủ nhiệm quất thước, mắng trước mặt cả lớp: “Đồ đồng tính chết tiệt, đánh trò, tôi còn lo sẽ mắc bệnh AIDS đấy!” Cô ôm cuốn tiểu thuyết khóc ròng, xin lỗi út nhé, năm đó không có ai bảo vệ em, không có ai tin tưởng em.
Về đến nhà, trong nhà trống trơ chẳng có một ai, cô vội đi tắm, rửa đi bùn bẩn trên đôi chân, nhưng những lời chửi rủa dính chặt trên người mình thì cô không sao gột đi được.
Trong phòng tắm, cô nghĩ ra lời mở đầu của lá thư: “Út à, trong tù mọi sự đều ổn chứ? Hôm nay ở văn phòng, vì mấy con chó dẫn đường mà chị bị chửi cả ngày, còn lên tin thời sự nữa, đánh giá thành tích năm nay chắc cũng đi tong rồi. Vừa tan làm, chị liền muốn viết thư cho em, trò chuyện với em, nhân tiện hỏi em, trong nhà tù Đức có chó không? Hồi nhỏ lúc sống ở tam hợp viện, chị từng nuôi một con chó mực, lúc đó em còn chưa sinh ra. Thực chất không phải chó của chị, mà là chó của bà nội, nhưng chị hằng ngày đều phải phụ trách cho chó ăn, cho ăn riết rồi nó cứ đi theo bên cạnh chị.”
Gần như mỗi tam hợp viện ở miền quê trên đảo đều nuôi chó. Có hôm một con chó cái đẻ một ổ chó con ở khoảnh sân trước tam hợp viện, bà nội đầu tiên đuổi chó mẹ chạy mất, tiếp theo chọn chó con, mấy con chó con có bàn chân bị xem là “chân trắng” không may mắn, bà nội tóm lấy ném luôn ra ruộng ngoài. Chọn, ném, chê, chọn, ném, chê, cuối cùng lựa được một con đen tuyền, bàn chân rất to, bà nội nói, chân to sau này sẽ tương đối to con, coi như chó giữ nhà, đuổi trộm.
Vừa hay Thục Lệ đứng cạnh xem bà nội chọn chó, bà nội bèn giao chó mực con cho cô, ra lệnh bằng ánh mắt, không nói câu nào.
Thục Lệ hoàn toàn không biết nên nuôi chó thế nào, cả nhà họ ăn còn không no, cô lấy gì nuôi chó? Cô xuống bếp lục rác, sang nhà hàng xóm sát vách xin nước gạo, cơm thừa canh cặn đã ôi thiu đổ thêm nước trộn lên, con cún ăn vào liền nôn ra, nôn xong lại ăn, trong bộ dạng rất dễ thương. Nuôi bừa, song con cún có sinh mệnh kiên cường, thế mà cũng lớn nhanh như thổi, mấy tháng sau đã là con chó to thích gặm xương lợn. Chó mực theo cô đi khắp nơi, xuống ruộng nhổ cỏ, ra chuồng cho lợn ăn, nửa đêm ra ngoài đi nhà xí, chó mực cùng cô băng qua khoảnh sân, chờ cô ở bên ngoài, vẫy đuôi với cánh đồng không một bóng người, nheo mắt ngoan ngoãn, dường như ánh trăng đang xoa đầu nó.
Con chó do cô nuôi lớn, cũng do cô hại chết.
Năm lớp 3, tiết đầu buổi sáng còn chưa học xong, cô nhìn thấy bà nội mặt mày giận dữ xông vào lớp học, nói với giáo viên muốn tìm Trần Thục Lệ. Bà nội vừa thấy cô đang ngồi tại chỗ liền đi tới véo mạnh tai phải cô, lớn tiếng chất vấn: “Sợi dây chuyền ngọc trai của tao đâu?”
Bà nội sáng sớm thức dậy, định đi miếu cúng bái, giúp con trai trưởng cầu con trai, nàng dâu trưởng không biết sinh con trai, liên tiếp đẻ năm đứa con gái, vô dụng. Hứng lên, bà muốn đeo dây chuyền ngọc trai, đó là món đồ ông nội đi Tokyo mua về hồi người Nhật còn ở đây, là ngọc trai Nhật Bản chính cống. Tìm khắp trong phòng không thấy sợi dây chuyền, bà nhớ ra, mấy hôm trước chẳng phải có con cháu nội tới phòng bà quét dọn sao? Đứa thứ hai? Hay đứa thứ ba? Dù sao đều là đồ thị mẹt vô dụng, vậy mà dám trộm dây chuyền!
Bà nội đến trường tiểu học, tìm từng lớp, chị cả Thục Mỹ, chị hai Thục Lệ, chị ba Thục Thanh đều bị bà lôi ra khỏi lớp, thẩm vấn ngay trước mặt thầy trò. Ba chị em đều quỳ, vừa khóc vừa lắc đầu, bàn tay bà nội đập lia lịa lên người họ, đánh mệt rồi, bà nội xông vào lớp học lấy cây thước của giáo viên, quất lên người ba chị em.
Ba chị em không kịp lấy cặp sách, bị đánh mắng suốt đường về nhà, toàn trường đều đang nhìn họ. Về đến tam hợp viện, họ quỳ trong sân, bà nội khỏe vô cùng, tiếp tục đánh họ. Mẹ ôm em tư và em năm đang khóc quấy lao ra, cùng quỳ xuống bị bà nội đánh túi bụi. Bà nội quát, không cần dây chuyền ngọc trai nữa, chỉ cần có đứa dám thú nhận, chuyện hôm nay bỏ qua.
Thục Lệ bỗng đứng phắt dậy, vừa khóc vừa nói: “Là cháu ạ.”
Bà nội cầm cây chổi sể lên, từng bước đến gần Thục Lệ. Lúc đó cô nghĩ: “Mình sắp chết rồi. Mình sắp chết ngay bây giờ rồi. Mình sắp biến thành ma rồi.”
Cán chổi đập vào bụng Thục Lệ, cơ thể nhỏ bé của cô bay ra, va vào tường gạch.
Thục Lệ nằm bò trên mặt đất, chuẩn bị đón nhận nhiều cán chổi hơn. Đột nhiên, bà nội điên cuồng rú lên, chó mực cắn chặt cánh tay bà, không nhả.
Hôm đó, bà nội cầm cục gạch đập chó mực bất tỉnh, ném vào nồi nước sôi, cạo lông, lấy dao phay chặt thịt, thêm tỏi xào một nồi to. Thục Lệ và các chị em nấp trong phòng, cửa sổ đóng kín mà vẫn ngửi thấy mùi thịt chó xào tỏi.
Chú hai đón con trai tan học về nhà, đúng lúc kịp bữa tiệc thịt chó. Qua cửa sổ, Thục Lệ nhìn thấy trên cổ con trai chú hai lủng lẳng một sợi dây chuyền ngọc trai trắng muốt. Cô không nghe thấy cuộc đối thoại giữa bà nội và chú hai, cô chỉ thấy chú hai tháo sợi dây chuyền trên cổ con trai xuống, giao cho bà nội, mọi người đều cầm bát, tươi cười tiếp tục ăn thịt chó.
Cô ngồi xuống, bắt đầu viết thư.
“Út à, con chó sau đó bị chị hại chết, đến giờ chị vẫn thường mơ thấy đôi mắt đen láy của nó. Nhưng màu sắc trong mơ sẽ thay đổi, chó mực đã mơ rất nhiều năm, màu sắc dần nhạt đi, gần đây sắp biến thành chó trắng rồi. Hôm nay là rằm tháng Bảy, chị bỗng dưng muốn viết thư cho em, chẳng có lý do gì, chỉ là muốn trò chuyện với em thôi. Lâu lắm không nhận được thư em, em vẫn khỏe chứ? Mấy cuốn sách gửi cho em lần trước, có thích không? Hôm nay chị lại nhớ đến Minh Nhật thư cục, em còn nhớ ông chủ béo và ông chủ gầy không?”
Cô biết nữ hộ tịch viên họ Trần là cô đã làm hại rất nhiều người.
Hồi nhỏ, cô nghĩ chết thì thôi, biến thành ma là tốt rồi, trong nhà bớt một đứa con gái cũng chẳng sao, nên nhận bừa dây chuyền do cô lấy, kết quả hại chết con chó. Sau khi trưởng thành, cô tiếp tục làm hại rất nhiều người. Nếu năm xưa cô không nói gì cả, không tiết lộ gì cả, hẳn ông chủ béo và ông chủ gầy hiện giờ vẫn còn sống nhỉ? Sau đó cô thấy ảnh của ông chủ béo trên báo, gầy như que củi, khuôn mặt tròn đã biến mất. Cô vốn cho rằng phóng viên tờ báo nhầm người, nhìn kỹ tấm ảnh, phải, đó là khuôn mặt của ông chủ béo, chỉ mới mấy tháng mà thôi. Nếu ông chủ béo thành ra thế này, vậy ông chủ gầy thì sao?
Đều do cô làm hại.