Chương 13 Thiền Dầu Nành
Có ve.
Mùa hạ nóng nực, vùng đất nhỏ lâu lắm rồi không mưa, kênh nước khô cạn, đất nông nghiệp hưu canh nứt nẻ, nhà nhà đều đang hóa vàng mã, trước mỗi nhà đều có một lò lửa, ngọn lửa rừng rực khiến mùa hè càng oi gắt, mặt đất là chiếc chảo đáy bằng đun nóng, ve đực trên cây dốc hết sức lực phát ra tiếng kêu, bầu trời không mây, nắng như rang. Tôi là ma, tôi không có tóc, da, nội tạng, không có cơ thể, không cần điều tiết nhiệt độ, nóng lạnh đều chẳng liên quan đến tôi. Nhưng tôi “ở” vùng đất nhỏ này. Tôi “ở” dưới sàn đá mài của dãy nhà phố, qua khe nứt trên sàn, nhìn đứa con gái cả, nó cảm thấy rất nóng, nên tôi biết hiện giờ rất nóng. Tôi “ở” trong căn phòng tối tăm của Bạch Cung, thấy con gái tư gọi điện thoại cho từng người, toàn thân nó đẫm mồ hôi, nên tôi biết hiện giờ rất nóng. Tôi cũng “ở” trước xưởng nước tương, thấy con trai út đang nhìn chân dung anh nó, nó cho rằng mình nóng váng cả đầu nên mới lạc đường, một mạch lạc từ nhà tù ở Berlin về đến quê nhà, khi nó rời Berlin, 15 độ C, lúc đến Vĩnh Tĩnh, 38 độ C. Hôm nay là ngày nhiệt độ cao nhất trong năm nay.
Nhưng bất kể “ở” đâu, tôi đều không nhớ ra khuôn mặt đứa con gái thứ năm. Tôi cho rằng, sau khi biến thành ma tôi sẽ tìm thấy con gái út của mình. Song tôi lang thang khắp chốn làng quê này mà vẫn không tìm thấy nó, cũng không tìm thấy bất cứ con ma nào khác, nó không “ở” đây. Khi còn sống, tôi cho rằng người chết rồi thành ma thì sẽ gặp được những con ma khác. Thật sự làm ma mới nhận ra, ma chính là một dạng tồn tại hiu quạnh nhất, không thể gặp gỡ bất cứ con người, sự việc, sự vật nào trong không gian và thời gian. Tôi chỉ có thể di động trong kẽ hở giữa giây và phút đồng hồ, yên tĩnh treo ngược mình ngủ cùng lũ dơi trên ngọn cây, yên tĩnh ngủ đông với lũ ve trong đất, không có hình dạng, mùi vị, nhiệt độ, màu sắc cố định, không thể thăm dò, không có trọng lượng không có thực thể. Người ta bày đầy cả bàn đồ cúng, nói là cho cô hồn dã quỷ ăn, nhưng đồ cúng chính là ham muốn ích kỷ của loài người, càng không có cảm giác an toàn, càng sợ chết, càng cảm thấy không đủ, đồ cúng trên bàn càng phong phú. Càng phong phú, lại càng cô độc.
Xe tuyên truyền chính sách từ trụ sở xã chạy ra, âm lượng vặn mức lớn nhất, đọ đề xi ben với tiếng ve kêu, xe chạy vào tất cả đường ngõ của vùng đất nhỏ, tiếng nói của xã trưởng xộc vào tai từng người dân: “Bà con thân mến, tôi là xã trưởng, hôm nay là rằm tháng Bảy, trời khô hanh, bà con cô bác cúng kiếng phải cẩn thận củi lửa. Xin ân cần nhắc nhở bà con, Vĩnh Tĩnh lâu rồi không mưa, theo báo cáo khí tượng sắp tới cũng sẽ không có mưa, mong mọi người tiết kiệm nước, xin nhờ cả mọi người đấy. Bà con xin cứ yên tâm, xã trưởng nhất định sẽ cùng mọi người vượt qua khó khăn thiếu nước này.”
Đây là xe tuyên truyền chính sách con trai lớn của tôi phát minh ra khi làm xã trưởng, mấy đời xã trưởng sau này đều tiếp tục sử dụng. Con trai lớn đến xưởng in in áp phích chân dung mình, treo bên ngoài xe tải nhẹ, nóc xe đặt loa phóng thanh, phát chính sách mà nó mất cả ngày để ghi âm trong phòng làm việc của xã trưởng. Thuở ấy, con trai lớn thường mặc com lê, lại tròng một chiếc gi lê có in dòng chữ “Xã trưởng Trần Thiên Nhất vì bạn phục vụ”, đích thân lái xe tải nhẹ, vòng vào tất cả các tuyến đường hạ tầng, suốt dọc đường mỉm cười nghe giọng mình vang vọng khắp Vĩnh Tĩnh. Con trai lớn quy định bản thân không được nói tiếng Đài, dưới sự lãnh đạo của nó, Vĩnh Tĩnh phải cất cánh, nông nghiệp nâng cấp, công nghiệp nâng cấp, trầu cau nâng cấp, di tích văn hóa nâng cấp, cùng toàn dân tiến tới quốc tế hóa, thu hút khách du lịch toàn thế giới đến thăm, nói tiếng Đài làm sao kết nối với toàn thế giới được?
Hô hào “nâng cấp”, chứng tỏ những cái ban đầu, vốn có, lưu truyền đều không tốt, kém chất lượng, phải đào thải hoặc cải tiến. Con trai lớn dẫn đoàn khảo sát đi Paris, New York, sau khi trở về dùng xe tuyên truyền chính sách báo cáo với nhân dân, phải xây dựng Vĩnh Tĩnh thành Paris nhỏ, New York nhỏ của phương Đông. Tiệm tạp hóa không phù hợp với thời đại, nó phải đưa siêu thị lớn của Mỹ vào, đập bỏ nhà cũ, xây nhà cao tầng. Chợ Lớn cũ kỹ quá, nó phải mời nhà thiết kế đến thiết kế sạp rau sạp cá sạp thịt lợn, đưa vào thiết kế tối giản phong cách châu Âu, kín đáo mà xa hoa, tạo ra nét quyến rũ như chợ truyền thống Pháp. Tường bao trăm năm tuổi của tam hợp viện đơn điệu quá, nó phải mời nghệ sĩ graffiti quốc tế đến vẽ tranh. Hội miếu giết lợn cúng thần làm tổn hại hình tượng, sẽ bị hiệp hội bảo vệ động vật lên án, nên thông báo cấm chỉ. Tất cả tên đường, biển chỉ đường đều phải có song ngữ Trung-Anh, thế thì du khách các nước đến mới có thể nhận biết đường. Trụ sở xã mở lớp dạy tiếng Anh, xã trưởng cùng học tiếng Anh với mọi người. Ruộng trầu, ruộng cúc, ruộng lúa, vườn cây cảnh đều bắt đầu biển hình thành nông trường tham quan, mời toàn thế giới đến Vĩnh Tĩnh làm khách. Muốn giữ khách ở lại tiêu dùng thì phải xây dựng khách sạn lớn đẳng cấp quốc tế, trưng thu đất nông nghiệp hưu canh, xây khách sạn lớn năm sao, để du khách các nước đến Vĩnh Tĩnh nghỉ qua đêm, ban ngày nghe ve ngân làm spa, ban đêm nghe ếch kêu uống cocktail.
Đó là thời gian vui vẻ nhất trong cả đời A Thiền. Con trai trưởng đắc cử xã trưởng với số phiếu cao, bà ấy là mẹ xã trưởng, dường như toàn thân được rắc bột vàng, bất kể đi đến đâu người cũng tỏa ra ánh vàng. Chúng tôi cố đẻ năm đứa con gái mới sinh được hai mụn con trai, con trai lớn giống mẹ, mặt tròn phúc hậu, con trai út giống tôi, mặt gầy thanh tú. Con trai lớn trở thành quan chức cao nhất vùng đất nhỏ, bước tiếp theo là chủ tịch huyện, sau đó sẽ tới Đài Bắc, nó nói với A Thiền: “Mẹ ơi, chờ con nhé, rồi sẽ có một ngày con làm tổng thống”
A Thiền nghe xong, cười như chuông ngân. Mùa hè năm tôi quen A Thiền, có tiếng ve, có mùi nước tương.
Trước khi chết, tôi dùng khứu giác đánh dấu những người xung quanh, mỗi người đều có mùi đặc thù, ví như mẹ tôi là mùi cao Thanh Thảo, người làm quan tài là mùi vụn gỗ, con gái cả là mùi vải, Cây Cau là mùi khế, con trai út là mùi sách. Con trai lớn vốn là mùi quan tài, sau khi bị tay bán bánh quy kéo đi làm xã trưởng, biến thành mùi com lê.
A Thiền hồi mười tám tuổi, khắp người là mùi nước tương.
Bà mai nói với mẹ tôi, đối tượng là con gái cả của xưởng nước tương, bà mẹ ở góa, vừa tròn mười tám, cần cù khôn ngoan, mặt tròn mông mẩy, thoạt nhìn biết ngay là sẽ mang lại may mắn cho nhà chồng, chắc chắn mắn đẻ con trai. Cô con gái cả tên Lâm A Thiền, biệt hiệu “Thiền Dầu Nành”, là người đẹp nhất làng đó, không biết chữ nhưng tiết kiệm chăm chỉ, sinh ra đã định sẵn sẽ làm vợ hiền dâu thảo. Bà mai chỉ vào nước tương trên bàn ăn nói, mọi nhà ở Vĩnh Tĩnh đều ăn nước tương hiệu này, nước tương Phương Cống Cống, nhà bên kia khả năng kinh tế không tồi, của hồi môn hẳn khá lắm, hơn nữa bát tự cầm tinh đều hợp nhau, trưởng nam nhà họ Trần và trưởng nữ nhà họ Lâm kết hôn, là duyên lành trời định đấy.
Trước khi cưới Thiền Dầu Nành, tôi chỉ gặp mặt cô ấy hai lần. Lần thứ nhất, ở xưởng nước tương Phương Cống Cống, gia tộc hai bên gặp nhau, bà mai dẫn A Thiền vào, bưng trà ô long và cau đãi khách. Thiền Dầu Nành cúi đầu im lìm, tôi không cách nào nhìn rõ mặt cô ấy. Trong xưởng nước tương có mùi đậu nành lên men rất nồng, chua chua mằn mặn, sân bày những chum nước tương, nghe nói phải phơi nửa năm mới có thể đóng chai thành phẩm. Ve [11] trên cây ngoài xưởng kêu râm ran, họ hàng đằng gái kể, hôm A Thiền chào đời, ve cũng kêu rộn như thế, cả xưởng không ai nghe thấy mẹ A Thiền kêu đau bụng đẻ, nên đặt tên là Thiền. Nước tương Phương Cống Cống là xưởng nước tương gia truyền, lính Nhật thua trận chuẩn bị rời Đài Loan còn cất công đến xưởng mua những mấy chai, nói phải mang về Tokyo chấm sushi. A Thiền từ nhỏ theo mẹ học làm nước tương, tay nghề thành thạo, lựa đậu, nấu đậu, rắc mốc đều rất giỏi, nhưng con gái dù sao cũng phải lấy chồng, sản nghiệp gia đình chỉ truyền cho con trai, phải nhanh chóng tìm một mối tốt để gả đi.
Lần thứ hai gặp A Thiền, chúng tôi chụp một tấm ảnh đen trắng. Hôm đó tôi mặc sơ mi quần tây, A Thiền mặc đầm liền thân in hoa ôm sát người, tay cầm chiếc túi xách nhỏ. Mẹ tôi ra hiệu ảnh duy nhất trong xã mời thợ chụp ảnh, bảo chúng tôi đứng trước xưởng nước tương, chụp một tấm ảnh chung trước khi cưới. Khi chụp ảnh, thân thể chúng tôi cuối cùng cũng dựa sát vào nhau, tôi nhìn rõ mặt cô ấy, mắt to mặt tròn tóc xoăn, cô ấy nhận ra tôi đang nhìn mình, vội vã cúi đầu. Tôi lén hít sâu, quả thật giống hệt mùi chai nước tương trên bàn ăn nhà tôi.
A Thiền vẫn không nói chuyện, cứ nhìn dưới đất. Tôi hỏi cô ấy, dưới đất có gì thế? Cô ấy nghĩ ngợi hồi lâu mới khẽ nói, khi ve vừa bò khỏi đất, trăng trắng, be bé, bắt một nắm thả vào dầu rán, ngon lắm, chấm nước tương càng ngon, nhiều người không biết đâu. Nói xong, cô ấy lại cúi đầu, im lặng chụp ảnh.
Lần thứ ba gặp mặt, chúng tôi đã là vợ chồng. Đêm tân hôn, A Thiền ngồi trên giường ngủ trong tam hợp viện, bắt đầu nói chuyện. Vừa mở miệng là cô ấy không dừng lại được.
Ve có bao giờ ngừng kêu.