Chương 2 Con sắp về nhà rồi
Cuối cùng con sắp về nhà rồi.
Con trai út nhà họ Trần, vậy mà sắp về nhà rồi.
Thuyền Con đưa đò, sắp đưa con về nhà rồi.
Lần trước con về nhà, là để dự đám tang cha. Con suốt đêm không ngủ trông linh cữu, sáng hôm sau tiếng ve ra rả, đe dọa xua đuổi, con liền rời đi. Trước khi đi, con thắp hương trước linh đường cha, vái lạy, miệng khẩn lầm rầm. Cha không nghe thấy tiếng lẩm bẩm của con, nhưng cha biết con đang từ biệt cha. Cha muốn bảo con mau đi đi, nhanh rời khỏi nơi này, cha đã nghe thấy lời từ biệt của con, được rồi, nói tạm biệt xong là được rồi, mau, đi mau. Lúc còn sống cha ít nói, chết rồi không thể phát ra âm thanh, cha dốc hết sức lực muốn truyền đạt đi mau đi mau đi mau đi, cha muốn vén khăn bàn, muốn tắt nến trong linh đường, để con biết cha nghe thấy rồi. Cha thật sự nghe thấy rồi, con mau đi đi. Song khăn bàn bất động, ngọn nến vẫn cháy, cha đóng khung trên bức di ảnh, xác cha cứng đờ, không gió không mưa, mèo chó gà ngỗng gần đó vẫn bị vây hãm trong mơ, cây cỏ im ắng, ma thinh lặng.
Đột nhiên tiếng ve lại vang dội, mắng con “Đồ lông bông lêu lổng”. Con cuối cùng cũng đi.
Bảo con đi mau, vì cha sợ. Con ở lại thêm một giây có khả năng sẽ biết được chân tướng sự việc. Chuyện trong tháp nước. Bộ mặt thật của cha. Bộ mặt thật của mẹ con. Tất cả mọi việc cha mẹ đã làm với con. Cha mẹ không bảo vệ con. Một lần cũng không. Kẻ tàn khốc nhất không phải cảnh sát, cũng không phải giáo viên chủ nhiệm cấp hai của con. Là cha mẹ.
Từ nhỏ con đã không thích về nhà, cha thường ra ngoài tìm con, xách thân thể nhỏ bé của con trong cánh tay, đưa con về nhà. Người ta nói bảy tháng biết ngồi tám tháng biết bò chín tháng mọc răng, nhưng con cái gì cũng nhanh hơn người khác, tròn sáu tháng đã bắt đầu bò, bảy tháng đã đứng lên lẫm chẫm, nền nóng muốn đi. Bò, đi, chạy, con bắt đầu hướng ra bên ngoài, muốn đi ra ngoài, bế vào nhà là khóc. Con thấy cửa nhà khóa, cửa sổ đóng liền muốn mở ra, những vùng cấm dặn không được đi, con nhất định sẽ nghĩ cách đến. Cha và mẹ đều hay dọa con, nói ở đó có ma đấy, dưới nước có ma, rừng tre có ma, trong ruộng có ma, đường cái có ma, bén mảng tới sẽ bị ma bắt đi, làm con trai của ma. Nói chuyện ma, nghe chuyện ma, anh con cau mày, khóc toáng, còn con mở mắt to hơn, không thấy sợ hãi mà chỉ tò mò.
Con liên tục chạy ra ngoài, như thể sau lưng có người truy đuổi. A Thiền nấu cơm tối xong, chẳng ai tìm thấy con, cha đi từng nhà kiếm con, xóm giềng đều nói vừa rồi có thấy con chạy tới chạy lui, nhưng không thể chỉ ra chính xác vị trí của con. Có lúc con ngủ trong áo quan của tiệm quan tài, có lúc con ngẩn ngơ xem hàng xóm giết rắn, có lúc con đã ăn no ngủ thiếp bên bàn ăn nhà hàng xóm, có lúc con ở dưới ngọn đèn đường, nói đang chờ dơi. Dẫn con về nhà, ăn cơm tối xong, ánh mắt con phóng từ bàn ăn ra ngoài cửa sổ, lại muốn ra ngoài rồi. Ánh mắt con liên tục quăng mỏ neo, luôn luôn tìm kiếm, móc mỏ neo không cày được vào đất, thân thể con không thể cập bến, vùng đất nhỏ này chẳng có thứ con muốn, chẳng giữ được con, chẳng có góc nào con có thể thả neo.
Con nhìn về phía đông, thấy dãy núi nơi xa thì nói muốn tự đi. Con chỉ tay về phía tây, hỏi cha đằng đó có phải là biển không? Cha gật đầu. Con còn nhớ chứ? Có lần cha trở về, xe tải chở cả đống hàu ấy? Cha ra vùng duyên hải chở cá chở hàu, gió ở cảng cá ven biển rất lớn, biển trông đen ngòm, cha không dám lại gần, dưới biển chắc chắn có rất nhiều ma. Con nghe xong, buông tay cha ra, cất bước về phía tây.
Lúc đó cha đã biết vùng đất nhỏ không giữ con lại được.
Về sau, nhà họ Vương dọn đến sát vách, con liền chạy sang nhà họ Vương suốt. Nếu con không ở nhà họ Vương, cha biết chắc con lại ở vườn khế.
Hai cậu con trai nhà họ Vương, cậu con lớn theo ông Vương buôn bán, thứ gì cũng bán, cậu con út là người có học, vừa giải ngũ về quê. Ông Vương nói, thế giới này thiếu cái gì, cần cái gì, ông ta bán cái nấy. Ông ta thấy cha đang chạy xe tải chở hàng, bèn bắt đầu bàn chuyện hợp tác với cha. Ông ta khui một chai rượu Mao Đài, nói lô hàng này mới từ Hồng Kông chuyển sang, chất lượng rất xịn, trên thị trường tuyệt nhiên không mua được, ông ta có đường dây bán Mao Đài cho người sành rượu, lô hàng này rất hiếm, đắt cách mấy cũng có người muốn mua, lãi to. Bấy giờ cha chưa hề nghe nói đến Mao Đài, uống một ly nhỏ, nhác thấy chữ giản thể trên thân chai liền cuống quýt đặt xuống, rượu mạnh vào họng sặc phun khắp nền nhà. Ông Vương cười phớ lớ, bảo cha yên tâm, loại này đẳng cấp lắm, bạn bè Hồng Kông có đường dây đặc thù, nhập thẳng từ đại lục, quá trình thủ tục rất phức tạp, nhưng không mạo hiểm chút thì làm sao kiếm bộn tiền? Có mấy vị quan chức cấp cao của chính phủ lén mua những mấy thùng chỗ ông ta cơ mà, không có chuyện gì đâu, uống rượu đâu thể xộ khám, cứ uống thoải mái đi. Ông Vương nói, nghiêm cấm đều là họ tự nói, chỉ cấm dân thường, chứ quan to ở nhà uống Mao Đài cho vơi nỗi nhớ quê, không về được, uống hết một chai, hóa thành ma men thì bay về thôi. Ông Vương nói, thời loạn ấy à, chính là thời cơ để người làm ăn nhảy vào hốt bạc. Nghe nói mấy năm trước cả nhà Vĩnh Xương thư cục di dân sang Argentina. Ngốc quá, ở lại mới kiếm được bộn tiền chứ. Giám đốc xe tải Trần, chúng ta hợp tác nhé, tôi tìm hàng, anh chạy xe, cùng kiếm đầy túi.
Cha hỏi ông ta, sao biết thế giới này thiếu cái gì? Ông ta đáp, phải khiến mọi người cảm thấy họ đúng là thiếu “cái đó”, mua “cái đó” rồi thì có thể bình an phú quý, cả nhà vui vẻ, ba đời mạnh khỏe, đẻ toàn con trai. Cho nên, buôn bán chính là làm sao để mọi người cảm thấy nhất định phải mua “cái đó”. Còn về “cái đó” là gì? Thế thì phải xem người kinh doanh tài giỏi đến đâu trong việc tạo ra nhu cầu thị trường. Ông ta nói, mấy năm trước ông ta bán súng hơi, trúng quả đậm mới có thể mua căn nhà này. Giám đốc xe tải Trần, theo tôi thấy, nhà anh năm xưa chắc hẳn cũng mua súng hơi nhỉ? Cơm không nhất thiết phải ăn, học phí của bọn nhỏ không nhất thiết phải đóng, nhưng súng hơi thì nhất định phải mua, mua rồi mới yên tâm, mọi người đều nghĩ vậy, nên tôi trúng lớn!
Con trai út của ông Vương vừa giải ngũ, cao gầy tráng kiện, biệt hiệu Cây Cau, là học sinh giỏi đầu tiên của xã thi đỗ vào trường đại học hàng đầu ở Đài Bắc, sau khi tốt nghiệp rồi giải ngũ không muốn ở lại Đài Bắc làm việc, nói muốn về làm ruộng. Nhà ông Vương có một mảnh vườn khế bỏ hoang, bèn cho Cây Cau quản lý. Ông Vương bảo, gọi nó là Cây Cau, đích thực vô tri, [16] hằng ngày ở đó đọc sách, chẳng chịu đi kiếm tiền, tôi dám cá nó không đời nào chịu nổi vài tháng, trẻ người non dạ đâu đã hiểu lao động vất vả nhường nào, tốn ngần ấy tiền cho nó đi học đại học, là muốn nó thành đạt ở Đài Bắc, kết quả nó lại nói chịu không thấu thành phố lớn, muốn về thể nghiệm lao động chân tay làm nông dân. May mà thằng cả rất hiểu chuyện, rất giống ông già nó, mê tiền mê gái, là nhân tài kinh doanh.
Lần cuối vườn khế được mùa, cả nhà chúng ta đều qua giúp. Hai đứa con trai nhà họ Vương, năm đứa con gái và hai đứa con trai nhà ta đều đến giúp hái khế. Cha nhớ con gái cả Thục Mỹ lúc đó đã làm mẹ, ngồi dưới gốc khế đun nước nóng pha sữa bột, thằng chồng mê cờ bạc của nó không biết đi đằng nào. Con gái tư và con gái năm đánh đu dưới gốc cây, hai đứa nó thân nhau nhất, con trai lớn nhà họ Vương cứ đăm đăm nhìn con gái năm. Con trai út nhà ta năm đó vừa lên tiểu học, tò tò theo sau Cây Cau con trai út nhà họ Vương, học hái khế. A Thiền đứng trong vườn khế cầm xẻng đảo cái chảo to, nước tương Phương Cống Cống đổ vào chảo, nấu ra món mì xào thịt thái sợi có thể cho cả đội quân ăn no.
Nhà họ Trần, nhà họ Vương cùng ngồi dưới gốc cây xì xụp ăn mì, thơm quá, ong bướm ruồi mèo chó đều đến giành ăn. Mấy giỏ khế đặt bên cạnh, lần này được mùa to.
Đột nhiên một cơn gió ào đến, thốc vào vườn khế, lá cây xào xạc thở than, lá rời cành, váy tung bay. Gió mạnh đánh đổ hộp sữa bột em bé của Thục Mỹ, sữa bột bay là tả theo gió, hình thành màn sương mù bột trắng xung quanh chúng ta. Sắc trời biến đổi hẳn, mây đen che kín mặt trời. Mưa đá to cỡ quả bóng bàn thình lình từ trên trời rơi xuống, nhắm vào tất cả cây trồng của vùng đất nhỏ, nện xuống tới tấp.
La hét bỏ chạy. Có người đá đổ mì xào thịt thái sợi A Thiền nấu, mì nóng đổ hết lên khế tươi vừa hái. Trong không khí sực mùi sữa bột và mùi nước tương. Sấm sét đùng đùng, thêm nhiều mưa đá từ trên trời trút xuống.
Mưa tuôn xối xả, mọi người đều chạy về phía dãy nhà phố, không biết là ai hét to: “Chạy mau! Chạy mau! Còn không chạy sẽ không kịp mất!”
Mưa đá cỡ quả bóng bàn đập trúng trán cha, máu tươi nhuộm đỏ tầm nhìn. Cha dụi mắt, thấy Cây Cau co người bên dưới cây khế, dùng thân thể cao lớn bảo vệ con trai út của cha. Khế vừa mới thu hoạch không chịu nổi mưa đá dập vùi, cơm khế vỡ nát.
Cha chưa bao giờ nghe thấy tiếng mưa như vậy. Trên đường lao về nhà, cha chạy ngang qua ruộng cúc, mưa đá trắng xóa từ bầu trời rào rào giáng xuống, trăm ngàn cái bóng đèn nứt vỡ trong chớp mắt, kêu lốp bốp. Mưa đá hiển nhiên là cao thủ hái cúc, trăm ngàn đóa hoa còn chưa nở rộ đã lìa cành. Cánh hoa cúc rơi rụng, cúc đỏ, các tím, cúc vàng tươi đẹp theo nước xói vào ruộng lúa bên cạnh, xác lúa đổ rạp dưới đất nhuộm mảng đỏ mảng tím.
Cơn mưa to đó đổ tầm tã suốt ba ngày. Mưa thành cột, hình thành hàng rào bằng nước trong thị giác, giam cầm tất cả mọi người trong nhà. Có nông dân mạo hiểm ra ngoài cứu cây trồng, bị nước lớn cuốn đi. Hoa màu trong xã toàn bộ bị hư hại, rau bị mưa đá giã nát, ngâm trong nước đến thối rữa. Mực nước kênh dâng cao, gà chết, lợn chết, chó chết và rác rưởi trong kênh dềnh lên mặt đường. Ba ngày sau trời tạnh, không gió không mưa không mây, đó là bầu trời xanh nhất mà cha từng thấy, cha ngẩng đầu nắm lấy bầu trời, giống như thò tay vào lon sơn màu lam sáng vậy. Trên con đường trước dãy nhà chình ình mấy con lợn chết. Xác lợn bốc mùi tanh hôi dưới ánh nắng, nhấp nháy phát sáng. Cha bịt mũi lại gần xem, trên xác lợn ghim chi chít mảnh vụn bóng đèn của ruộng cúc.
Dưới ánh nắng, mọi thứ hiện hình, đổ nát càng đổ nát, cằn cỗi thêm cằn cỗi. Mưa to xối rửa ra tất tần tật rác rưởi người dân chôn và đổ ở khắp nơi, cá thoát khỏi đầm, để rồi chết trong ruộng trầu, cây nhội trụi lá phân nửa, trần nhà tam hợp viện cứ nhỏ lệ suốt. Nhà ta thuộc dãy nhà mới hoàn công chưa được mấy năm, vách tường thấm nước, sơn trắng bong tróc. Cha đứng dưới ánh nắng, giơ ngón tay ngoáy tai, tiếng mưa đã dính vào trong thính giác, cha muốn móc cơn mưa đó ra khỏi tại mình. Nếu như không có cơn mưa đá đó thì tốt rồi. Nếu như không có cơn mưa đó thì tốt rồi.
Chính vì cơn mưa đó, A Thiền mới nhìn thấy. Bà ấy nhìn thấy con trai út nhà họ Trần, và con trai út nhà họ Vương.