← Quay lại trang sách

Chương 4 Đêm đen chết hết rồi

Trên xe tải nhẹ của Thuyền Con có thang, hộp đồ nghề, cưa điện, dây nối dài, gã còn chưa hỏi, Thuyền Con đã nhanh nhảu trả lời: “Tớ về đây làm thợ sửa điện nước, mọi người đi hết rồi, chỉ có tớ trở về. Thật ra cũng không tồi, công việc nhận không xuể, hôm nay lúc gặp cậu ở xưởng nước tương, tớ vừa đi sửa máy nước nóng. Cậu cũng quen đấy, chính là cô bạn múa thoát y học cùng lớp cấp một rồi cấp hai trước khi cậu xui xẻo bị chuyển sang lớp tớ đó. Máy nước nóng nhà cô hỏng, gọi tớ tới sửa. Tớ bảo, ơ hay, trời nóng thế này, tắm nước lạnh là được rồi! Cô ấy đáp, dù sao chắc ông cũng không tính tiền tui đâu, cho nên không sửa thì rõ phí! Cô ấy đã làm mẹ, nói cái gì mà bây giờ thời đại khác rồi, ít được mời đi múa thoát y hẳn, ngôi sao gợi cảm về vườn, bán gà rán vỉa hè.” Đương nhiên gã nhớ cô bạn thoát y, dáng vẻ cô ấy trần như nhộng, dáng vẻ cô ấy cóp bài, dáng vẻ cô ấy nhảy múa. Màn nhảy múa của cô ấy đã cứu gã.

Thuyền Con nổ máy xe tải: “Ở trong đó không có cơ hội tắm nắng nhỉ?”

Gã không nhớ Thuyền Con da đen bóng thế này, gã không nhớ Thuyền Con lắm lời thế này, gã không nhớ Thuyền Con biết sửa máy nước nóng. Cánh tay Thuyền Con giống như đêm tối, giăng đầy vô vàn ngôi sao nốt ruồi đen lấp lánh.

T à, khi tôi mới gặp cậu, cậu là đêm đen. Áo khoác đen, găng tay đen, mũ đen, ủng đen, đàn cello đen.

Thật ra gã nghe thấy sắc đen của T trước, rồi mới nhìn thấy sắc đen của T.

Gã vừa đến Berlin một tuần, căn hộ chung cư nhỏ do chương trình cư trú văn học sắp xếp nằm ở phía đông Berlin, tầng trệt, có một ô cửa sổ bé tí nhìn ra phố lớn rộn rịp. Một cửa sổ, một cửa chính, một giường, một bàn, một ghế, một phòng ngủ, một phòng vệ sinh, một phòng bếp, thứ gì cũng chỉ có một, là căn hộ nhỏ hoàn hảo dành cho người độc thân. Sau khi đêm xuống, ngoài cửa sổ luôn có những con ma men lè nhè thứ ngôn ngữ mà gã nghe không hiểu. Căn hộ cách lối ra của ga tàu điện ngầm chỉ năm bước chân, dưới lòng đất có tàu vào ga rời ga thì sàn nhà căn hộ sẽ rung nhẹ. Trời lạnh, gã vẫn thường kippen cửa sổ, mời tiếng người tiếng xe bên ngoài vào chơi. Kippen là từ mới tiếng Đức gã học được, tự điển nói là động từ, “nghiêng”, dùng cho cửa sổ nghĩa là đóng cửa sổ, xoay tay nắm cửa cho đến khi tay nắm hoàn toàn hướng lên trên, rồi kéo cửa sổ vào trong, cạnh trên, cạnh trái và cạnh phải cửa sổ đều nghiêng vào trong, chỉ còn lại cạnh dưới vẫn liên kết với khung cửa, người từ bên ngoài không vào được, còn gió và âm thanh vẫn tự do qua lại. Lạnh hơn nữa gã cũng kippen cánh cửa sổ đó, không muốn ra ngoài, vẫn chưa có cơ hội làm quen với Berlin, ở nhà viết tiểu thuyết, nghe âm thanh của cửa sổ nghiêng trước đã. Mọi âm thanh đều mới mẻ, ngôn ngữ mới, tiếng gió mới, tiếng mưa mới. Chữ viết, biển báo, áp phích, bảng hiệu, sách vở, gã đều đọc không hiểu, gã là tên mù chữ bị tất cả bài trừ, gã cuối cùng đã hiểu nỗi lo lắng vì không thể đọc chữ của mẹ. Song lúc này gã tận hưởng việc làm một người ngoài cuộc, gã chỉ đến cư trú ngắn hạn chứ không hề muốn trở thành một phần của Berlin, gã chủ động gạt bỏ bản thân ra ngoài mọi thứ, lướt qua hết thảy những người xa lạ, lặng lẽ đến, rồi lặng lẽ đi, không quấy rầy bất cứ ai.

Trời mưa rồi, gã nhìn ra ngoài, nhưng hoàn toàn không nghe thấy tiếng mưa. Gã mở toang cửa sổ, tiếng mưa vẫn yếu ớt, mưa rơi trên lối đi bộ, tí ta tí tách. Mưa Berlin yên tĩnh như thế, còn mưa quê hương, mưa Đài Bắc vừa chạm vào mái tôn đã biến thành lựu đạn, có thể cắt đứt giấc ngủ say, gây rối loạn thần kinh.

Mưa biến thành tuyết, gã nghe thấy Bach.

Tiếng cello không đệm, đạp tuyết len vào cửa sổ. Gã ngồi bên cửa sổ lắng nghe, âm sắc đầy đặn, thỉnh thoảng có sai sót thì lặp lại ô nhịp, đúng rồi mới tiếp tục. Những lỗi sai đó rất thản nhiên, không lấp liếm, sai thì sai thôi, không có chút hối hận nào. Gã đoán là một đứa bé học đàn, nhưng Schubert tiếp theo lại rất tang thương, giống như phát ra từ ngón tay cụ già.

Tuyết rơi liên tiếp mấy ngày, gã ở lì trong phòng ngắm tuyết, viết lách, không bước chân ra cửa. Mỗi tối sau 8 giờ, dòng xe cộ trên phố lớn tản đi, tiếng cello liền xuất hiện. Gã nấu xong bữa tối đơn giản, salad rau diếp cà chua trộn dầu ô liu, trứng ốp la, thịt ức gà thái sợi xào tỏi, cơm nấu lửa nhỏ, ngồi bên cửa sổ đợi cello. Khi tiếng đàn vọng vào cửa sổ, gã bắt đầu dùng cơm, thong thả ăn, đọc vài trang sách. Tiếng đàn nhỏ dần, bữa tối vừa vặn ăn xong. Có tối tiếng đàn không đến, gã mới biết cơm canh mình nấu dở cỡ nào, không có tiếng đàn yểm trợ, vị giác đột nhiên thức tỉnh. Tiếng đàn biến mất, lương thực trong tủ lạnh cũng cạn, không được rồi, thật sự phải ra ngoài mua thức ăn thôi.

Gã xách hai túi to rau củ, hoa quả, thịt đông lạnh mua ở siêu thị đi về nhà, tuyết ngập đến mắt cá chân, trên áo khoác bám đầy bông tuyết. Gã đứng dưới đèn đường ngắm tuyết bay, nhớ tới lúc chờ dơi dưới đèn đường ở quê thuở bé. Dưới đèn đường ở Berlin, không có côn trùng hay muỗi, đương nhiên không có dơi. Nhưng tuyết dưới đèn đường rõ ràng là có sức sống, lóng lánh vờn bay, trông như côn trùng nhỏ trắng tinh.

Mặt đường rung nhẹ, một cơn gió từ lối vào ga tàu điện ngầm ập đến, gió mang theo tiếng cello, thổi vào khăn quàng cổ và mũ, rót vào tai gã. Tiếng đàn đến muộn, nhưng vẫn đến. Gã đi tới lối vào ga tàu, biển người vừa xuống tàu đang vội rời khỏi ga hình thành làn sóng, đẩy gã về phía sau, pha loãng tiếng đàn. Biển người nhanh chóng tản đi, tiếng đàn Bach từ dưới mặt đất trở lại, nốt nhạc trầm thấp chậm rãi bay lên trên phố, gió nghe thấy rồi, mưa nghe thấy rồi, gã nghe thấy rồi. Hóa ra không phải láng giềng, mà từ trong ga tàu điện ngầm vọng đến. Gã đi xuống cầu thang, nhìn thấy T.

Lúc đó, gã đương nhiên không biết tên của người chơi đàn. Gã chỉ nhìn thấy góc ga tàu bị một khối màu đen chiếm cứ, vĩ lướt qua dây đàn, phát ra âm thanh trầm thấp. Gã không nhìn thấy mặt người chơi đàn, hoặc tí ti da thịt nào. Người chơi đàn cúi đầu kéo vĩ, mãi không ngẩng lên. Hành khách vào ga, rời ga đều vội vã, chẳng ai dừng lại nghe khối đen này kéo đàn. Chiếc áo khoác len màu đen của người chơi đàn rộng quá khổ, giống như một tấm chăn bông to sụ. Gã để ý thấy mặt sườn bên trái của cây cello đen tuyền có một hình dán nho nhỏ. Gã từ từ đến gần, nhận ra hình dán có in tàu lặn. Gã dốc hết số tiền lẻ mua thức ăn còn thừa vào hộp đàn đặt trước mặt người chơi đàn, khẽ nói “Danke”, [17] về nhà mở cửa sổ nghe đàn viết lách, ăn đồ ăn dở ẹc mình nấu.

Từ đó gã thường đi vào ga tàu điện ngầm trước cửa nhà để nghe cello, sau khi trở thành khách quen, gã mới phát hiện dưới chiếc áo khoác đen có một con chó to lông ngắn màu đen mắt sáng long lanh. Chó mực thường chỉ ló ra mỗi cái đầu, ngủ khò khò, khi thức ánh mắt uể oải, yên lặng nghe đàn. Có lần gã dựa vào tường ngồi xếp bằng nghe đàn, chó mực bò ra khỏi áo khoác đen, đến bên cạnh gã, kê đầu lên đùi gã. Có lẽ vì cello, hoặc do con chó, cả cái đầu chó mực đặt lên đùi một kẻ xa lạ như gã, ánh mắt vẫn uể oải, sau đó thiếp ngủ. Sự tín nhiệm vô điều kiện của con chó khiến mắt gã cay cay, nước mắt trào ra.

Ninon xong một chương nhạc, người chơi cello búng ngón tay, con chó mở mắt, ngáp dài, ngoan ngoãn chui về dưới áo khoác đen của người đó. Người chơi đàn cuối cùng cũng ngẩng đầu lên, kéo mũ ra sau, để lộ khuôn mặt trắng nõn, mỉm cười với gã.

Gã không ngờ dưới vành mũ đen lại là một gương mặt như vậy, ánh mắt trong sáng, ngũ quan rõ nét, lông mày vàng nhạt, môi mỏng, mắt xanh, cười toe toét, đầy vẻ cởi mở. Đúng lúc một làn sóng người xuống tàu ùa tới, gã vội vàng ném tiền lẻ trong lòng bàn tay vào hộp đàn, mặc cho bản thân bị sóng người cuốn ra khỏi ga tàu.

Bị người chơi đàn nhìn thấy bộ dạng mình khóc, gã quyết định không vào ga tàu điện ngầm nữa, ở nhà mở cửa sổ nghe đàn là được.

Tuyết rơi không ngừng, nhưng tiểu thuyết đang viết lại ngừng, câu chuyện mắc cạn, đột nhiên chẳng viết ra được câu nào. Gã ra ngoài mua bưu thiếp và tem, những điểm tham quan của Berlin trên bưu thiếp, gã thảy đều chưa đến thăm. Gã tự hỏi, rốt cuộc mình đến Berlin làm gì? Xin trợ cấp đến Berlin ở sáu tháng làm gì? Không ra ngoài, giữ khoảng cách với tất cả mọi người, thế chẳng phải giống hệt cuộc sống ở Đài Bắc sao?

Ở nhà hát Đài Bắc, gã đã xem đoàn kịch đến từ Berlin biểu diễn. Trên sân khấu diễn viên gào thét tiếng Đức, cơ thể đầy bạo lực, nào đâm đầu vào tường nào ngã vật xuống đất, gã cố ý hoàn toàn không đọc phụ đề, chuyên tâm ngắm cơ thể của diễn viên. Cơ thể những diễn viên đó gần như không có giới hạn, gào thét hai tiếng đồng hồ vẫn vang dội, trần trùng trục còn thản nhiên hơn khi mặc đồ. Hạ màn, diễn viên trở về với dáng vẻ của mình, ngây ngô mỉm cười nghe tiếng vỗ tay. Gã sợ lú cả người, như thể gặp ma, con người ta sao có thể quăng mình đến nơi xa như thế, phá vỡ tất cả giới tuyến, la hét, cầu cứu, tranh cãi, tưởng chừng thịt nát xương tan, sau đó khi hạ màn, cơ thể mất trật tự lại lập tức tìm về dáng vẻ ban sơ? Bỗng nhiên gã cảm thấy muốn đi một chuyến.

Đến đây rồi, lại một chữ cũng chẳng viết ra được, đối diện với sổ ghi chép và máy vi tính, cơ thể nóng nảy. Bên ngoài đổ tuyết, trong lòng có lửa, vùi đầu vào gối, nước đá uống vào họng, nước đá xối lên người, đều vô dụng, không dập tắt được.

Muốn ra ngoài. Lửa càng lúc càng hiện rõ trong cơ thể gã, giống như một ngón tay nhỏ đang gãi xương cốt và nội tạng.

Hồi ở Đài Bắc, gã hiếm khi có ý nghĩ ra ngoài. Gã trọ ở căn phòng xây thêm trái phép trên sân thượng, chủ nhà để cả đống đồ dùng cũ ở sân thượng, khách thuê nào vừa lên xem phòng cũng bỏ đi một nước, chỉ có gã lập tức nói muốn thuê. Chủ nhà hơi lấy làm lạ: “Tôi sẽ sắp xếp thời gian thanh lý mớ đồ này, trước giờ tôi vẫn muốn trồng cây trồng rau ở đây, sau này cậu có thể giúp tôi tưới nước.” Sau khi gã dọn vào, chủ nhà quả thực tính chuyện thanh lý đồ đạc, nhưng mỗi lần chủ nhà lên sân thượng, đồ cũ hình như không giảm mà còn tăng. Căn phòng xây trái phép này tiền thuê rẻ, không gian chật hẹp, tồi tàn tăm tối, so với những dự án xây dựng mới quy mô lớn sáng chói xung quanh, gã cảm thấy cách biệt với đời, lên sân thượng là đi vào một thời gian không gian song song, đúng là môi trường sống mà gã cần. Ở sân thượng chung cư cũ kỹ này, tiếng mưa oanh tạc, xô pha rách và bàn mất chân lặng lẽ giao phối, sinh ra nhiều bàn ghế ọp ẹp hơn. Gã viết bên cửa sổ, nhìn ra ngoài, một tháp nước màu bạc vừa hay chắn mất tầm mắt gã. Có một tháp nước chắn mất tầm mắt, đó là cách gã nhìn Đài Bắc. Nhìn tháp nước, gã đã viết ba cuốn sách liên quan đến Đài Bắc.

Gã đến Berlin, không nói với người nhà.

Bưu thiếp dán tem xong, gã lại chẳng rặn ra được chữ nào. Nói gì với chị cả nhỉ? Hỏi thăm sức khỏe chị hai chăng? Nếu bưu thiếp gửi cho chị ba bị người chồng phát thanh viên của chị chặn lại thì sao?

Cello phát ra lời mời, gã mang theo bưu thiếp và bút, ra ngoài đi vào ga tàu điện ngầm, ngồi xuống bên tường. Con chó mực chui ra khỏi áo khoác đen, đến nằm cạnh gã. Người chơi đàn đang ngẫu hứng kéo đàn, như thành giai điệu, đặt vĩ xuống, ngón tay gảy dây đàn, nốt nhạc vang vọng trong ga tàu điện ngầm, tiến vào cơ thể gã, lửa yếu đi một chút, cảm giác gãi ngứa trong cơ thể giảm bớt một chút. Gã bắt đầu viết bưu thiếp : “Chị cả: Em đang ở Berlin. Nước Đức. Xin được một khoản trợ cấp, sang đây ở mấy tháng. Cha ở trong miếu ổn cả chứ? Trước khi ra nước ngoài vốn định về một chuyển, nhưng nghĩ lại vẫn thôi, em bị đuổi ra khỏi nhà, sợ sẽ làm phiền đến cha. Em vẫn khỏe, mấy ngày nay tuyết rơi, rất yên tĩnh.”

Khối màu đen trong góc ga tàu điện ngầm lại ngẩng đầu lên. Khuôn mặt trắng nõn đó cười với gã.

Mấy ngày sau, tuyết đã tạnh, đột nhiên tiết xuân ấm áp, mặt đất gấp gáp rũ bỏ mùa đông, ban ngày nhiệt độ tăng vọt, áo khoác bị ánh nắng dồn vào sâu tít trong tủ áo, cây cối trơ trụi trên phố chỉ trong một đêm đã trổ đợt lá non mới. Gã mang theo cuốn tự điển ra ngoài đi dạo, tra cứu biển chỉ đường, bảng hiệu, biển báo gần đó. Trên tường chung cư bên cạnh có bia tưởng niệm Lenin, gã cầm tự điển tra văn bia, nghĩa chữ rời rạc, không ghép lại thành đoạn có ý nghĩa được, năm 1895, tháng Tám, Lenin. Một con chó mực ngồi xuống bên chân gã, gã ngồi xổm xuống vuốt ve nó, một cái bóng màu đen che khuất ánh năng ngày xuân. Áo khoác đen dài quét đất, vẫn đội mũ đen, hướng về phù điêu của Lenin, nói một tràng những lời gã nghe không hiểu gì cả.

Gã lấy tự điển ra, Áo Khoác Đen chợt cười. Mũ đen bỏ xuống, để lộ mái tóc dài vàng kim bồng bềnh. Áo Khoác Đen tiếp tục nói, lần này xen lẫn nhiều từ tiếng Anh.

Lửa trong cơ thể lại bùng cháy. Gã đứng ở đường phố Berlin xa lạ, bỗng nhớ tới Quần Đùi Đỏ, Thuyền Con trong hồ bơi, những cọ xát cơ thể sau khi đến Đài Bắc. Gã đã cương lên.

Áo Khoác Đen, cello đen, chó đen theo gã vào căn hộ chung cư nhỏ. Khi gã đang định kippen cửa sổ, Áo Khoác Đen từ đằng sau ôm lấy gã, hôn lên cổ gã.

My name is T.

T màu đen bắt đầu từ từ nhạt đi. Ủng, áo khoác, áo len, quần, quần lót cởi hết, đêm đen chết hết rồi, nằm trên sàn nhà căn hộ chung cư nhỏ. Thân thể mảnh khảnh nhợt nhạt đứng thẳng tắp trước mặt gã, màu sắc rất nhạt, hầu như không có nếp nhăn, gầy gò, mái tóc dài vàng kim có mùi dầu gội hương hoa. Hồi nhỏ gã nghe cha mę ke chuyện ma, trong đầu luôn phác họa ra bóng dáng màu trắng, bây giờ trước mặt có một thân thể xa lạ trắng bệch, lông tóc rất nhạt màu, đôi mắt xanh lam nhìn thẳng vào gã. Gã muốn hỏi: “Cậu là ma ư? Cậu là thật sao?”

Họ gây ra cơn động đất trên chiếc giường nhỏ. Chim trên cây ngoài cửa sổ hót vang. Chó mực chui vào gầm giường ngủ. Gã sực nghĩ ra tiểu thuyết mới phải viết tiếp thế nào. Cuốn tự điển tiếng Đức trên bị họ đá xuống sàn. T bế gã lên bàn. Cái bàn kêu cọt cà cọt kẹt. Gã nhớ tới lũ mối ở Vĩnh Tĩnh.

T hỏi.

Anh từ đâu đến?

Gã muốn hỏi T.

Berlin có mối không? Cậu có từng nghe tiếng mối không? Giống như có người cầm cái cưa nhỏ xíu, len lén cưa mất chân bàn. Ban đêm cơ thể vẫn quanh quẩn trong cõi mộng, nghe tiếng mối sẽ tưởng rằng ngọn nguồn của tiếng cọt cà cọt kẹt đó là cơ thể mình. Một cơ quan nội tạng nào đó sắp bị len lén cưa mất. Một mạch máu nào đó sắp bị len lén ăn mất.

Thuyền Con nói: “Đến rồi.”

Dãy nhà phố trải ra trong tầm mắt, căn thứ năm từ bên trái đếm qua.

T à, tôi đến từ nơi này.

Chị cả đứng trước nhà cũ vẫy tay với chiếc xe tải nhẹ, dưới chân đặt một cái bếp lò.

Chị cả châm lửa, ngọn lửa vọt ra khỏi lò.

T ơi, cậu chưa về đến tàu lặn của cậu. Nhưng tôi đã về nhà rồi.