← Quay lại trang sách

Chương 11 Không ở trong núi cũng không ở trong gió

Em trai út ngồi trên ghế đẩu, tựa lưng vào túi găng tay, thiếp đi.

Dáng ngủ đó trông có vẻ không thoải mái, nhưng em trai út nhanh chóng rơi vào giấc mơ sâu thẳm. Em ấy vừa tắm xong, ngồi yên không cử động vẫn toát mồ hôi nhễ nhại. Lưng em dựa vào găng tay mềm mại, mắt nhắm lại, mơ thấy mình cả người ướt rượt, trượt vào đường trượt nước ngoằn ngoèo, tiếng nước róc rách, cơ thể gia tốc, vun vút lao về miệng ống trượt, rơi vào làn nước biển trong veo, rơi mãi, rơi mãi, hướng tới vực sâu không đáy. Trong mơ, em trai út không thể phân biệt được, đây là hồ bơi Vĩnh Hưng ở Vĩnh Tĩnh hay là biển Baltic.

Thục Mỹ nghĩ bụng, con nhà họ Trần đúng là mọi lúc mọi nơi đều có thể ngủ được. Chúng ta không kén chọn chất liệu hay địa điểm, tấm gỗ, xi măng, bãi cỏ, xô pha, giường nước, viên gạch, gốc cây, ven ruộng, trên xe đều là giường ngủ, hoặc ngồi hoặc nằm hoặc đứng, nằm ngửa hay cong người, đều ngủ được. Cho dù giữa trời đất chẳng có chốn nương thân, ít nhất có thể trốn vào giấc ngủ. Trước kia mẹ thường nói, đi ngủ, ngủ no mắt là được, trời cao đất rộng, ngủ no mắt là nhất.

Vợ chồng Thục Mỹ từ nhà bên cạnh dọn về nhà cũ, vườn lan Tiểu Cao cũng từ sân sau nhà bên dời sang sân sau căn nhà này. Trước khi mất, mẹ thích nhất là ngủ ở vườn lan Tiểu Cao. Sau bữa trưa, mẹ chê máy may của chị ồn ào, đi ra sân sau, buông người lún vào giường xếp, dùng tiếng ngáy đối thoại với hoa lan và gà qué. Tiếng ngáy của mẹ như kèn đồng, khoang mũi lồng ngực chấn động, phát ra âm thanh vang dội như nhạc cụ ống đồng, còn ồn hơn máy may của Thục Mỹ. Mẹ ngáy, con gà trống hay gáy bậy liền im miệng, nằm xuống trong góc vườn lan Tiểu Cao, chổng vó lên trời, ngủ mê mệt. Đây là thời điểm tốt nhất để bắt gà, Thục Mỹ sẽ thừa cơ lấy dây cột chân gà lại, gà trống tỉnh ngủ thì đã thành một nồi canh gà.

Sau khi ngọn núi đó biến mất, vợ chồng Thục Mỹ hoàn toàn phá sản, nợ đầm đìa. Hai đứa con đã khôn lớn, rời Vĩnh Tĩnh, đều sang đại lục làm việc, mỗi năm về một lần. Nhà cũ bên cạnh chỉ còn lại hai ông bà già, cha nói dọn về đi, dù sao cũng chỉ cách một bức tường, mẹ con hằng ngày đều muốn cãi nhau với cha, nhưng cha không nói chuyện, bà ấy không có đối tượng để lời qua tiếng lại, lòng dạ bứt rứt, con dọn qua đây, vừa tiết kiệm tiền thuê nhà, vừa phụ trách đôi co với mẹ con.

Chồng chưa bàn bạc gì với chị đã dốc hết tiền dành dụm, còn vay ngân hàng, đi Nam Đầu mua một ngọn núi. Chị nhớ ngọn núi đó. Chạy xe lâu lắc lâu lơ, đến cuối đường núi, rừng tre rậm rạp, cỏ cây um tùm, phải bỏ xe cuốc bộ, tiến vào đường mòn hẹp quanh co, cầm rìu cầm dao mở đường. Đi mãi, cánh tay chị bị bao nhiêu lá cây chạc cây sắc nhọn quẹt tứa máu, cây tầm ma dữ tợn cào xước bắp chân chị. Tầm ma hình như chỉ nhằm vào chị, chị thấy chồng suốt dọc đường đều mỉm cười, trên người không tươm máu, không đau đớn.

Băng qua một vat rừng âm u ẩm ướt, tầm nhìn chợt rộng mở, trước mặt là ngọn núi chồng mua. Chồng chị lấy tay đo đạc, ra dấu, từ cây mận này đến cây mận ở trên cùng kia, cả vạt này đều là của chúng ta. Sườn núi là vườn trà, rõ ràng là không có người trông coi hay thu hoạch, trà tự mọc hoang, xanh mướt mát. Cây mận đang nở hoa, hoa trắng nhụy vàng, ong mật múp míp bận rộn hút mật. Họ đi tới cây mận trên đỉnh núi, dưới gốc cây đã bày bàn trà và ghế đẩu. Chồng chị pha trà, viết thư pháp, ra dáng nhàn. Chị nhìn xuống chân núi, những đỉnh núi cao hơn che khuất tầm mắt, không thấy thành phố trấn nơi xa, không thấy bóng người. Có tiếng nước khe khẽ, gió nô đùa trong vườn trà. Chồng chị nói, con lớn cả rồi, chúng mình đến đây xây nhà, anh tiếp tục trồng hoa lan, em xem muốn làm gì thì làm, chí ít mẹ em không ở ngay sát nách. Chúng mình tự trồng rau, nuôi gà, lấy nước suối pha trà, nấu mì. Gió lay hoa lìa cành, cánh hoa mận trắng bay vào chén trà của chị. Chị nhìn Tiểu Cao bên cạnh, mặt nhăn nheo, còng lưng viết thu pháp. Một chiếc máy thu thanh nhỏ đặt bên chân, tín hiệu tậm tịt, tiếng phát thanh viên chập chờn đứt quãng, hỏi: “Sang năm là năm 2000 Tây lịch [22] , thế kỷ mới sắp đến, mọi người chuẩn bị sẵn sàng chưa, Muốn đón thế kỷ mới như thế nào?”

Quên đi tầm ma, chị ngủ thiệp dưới cây mận. Tỉnh giấc nhận ra mình không ngồi trên ghế, cũng không ở Vĩnh Tĩnh, Tiểu Cao bên cạnh chẳng thấy đâu. Chị nằm bãi cỏ, trở người, nghiêng người, nằm sấp ngủ, đất phủ lá khô mềm mại, có mưa lất phất, không lạnh cũng không nóng, độ ẩm vừa phải, đất đai thơm tho, vạn vật ru ngủ.

Tiếp tục ngủ. Không muốn tỉnh dậy. Chị muốn cứ ở đây ngủ, không tỉnh dậy, đón chào thế kỷ mới. Thế kỷ mới còn chưa đến, nhà trên núi còn chưa khởi công, tháng Chín động đất mạnh, tâm chấn ở Nam Đầu. Chồng chị đêm đó đi miền Nam chở hàng, không ở nhà, chị đang ở tầng trệt, vẫn chưa ngủ, có một lô hàng phải làm gấp để xuất khẩu, chị uống cà phê đen đậm đặc, đạp máy may. Căn nhà bắt đầu rung lắc dữ dội, chị hộc tốc mở cửa sắt cuốn lao ra ngoài, cha mẹ ở nhà bên cũng lao ra, mẹ luôn miệng kêu gào. Rung lắc ngừng, các hộ gia đình trong dãy nhà đều chạy ra đường, tiếng kính nứt vỡ liên tục vang lên. Mẹ bảo chị gọi điện cho em trai lớn, lúc đó em trai lớn đã theo nhà họ Vương đi Trung Quốc làm ăn, điện thoại đường dài không liên lạc được. Chị vừa cúp máy, di động lập tức reo, là em trai út.

“Không sao cả chứ? Đài Bắc rung kinh quá.”

“Ở đây cũng sợ chết khiếp đi được. Cha mẹ đều ở bên ngoài, không sao không sao, không sao đâu. Em cũng biết mà, mẹ chỉ lo cho anh trai em thôi.”

“Không sao thì tốt. Chị đừng nói em gọi điện về nhé.” Điện thoại đến đây thì bị ngắt, mất sóng, đêm đó không thể gọi hay nghe nữa.

Chồng chị từ miền Nam chạy về, nói phải lập tức đi Nam Đầu xem thử. Chị đi theo, vừa vào Nam Đầu đã không thể đi tiếp, đường sá rạn nứt, nhà cửa sập đổ, núi sông biến dạng. Lão khăng khăng đòi đi xem ngọn núi mới mua, bảo chị chạy xe về Vĩnh Tĩnh.

Mãi mấy ngày sau lão mới về, chỉ nói một câu gọn lỏn: “Trống trơn, biến mất rồi.”

Trận động đất lớn ngày 21 tháng Chín, non nước rung chuyển, trong mấy giây ngắn ngủi, vườn trà biến mất, cây mận biến mất, cả ngọn núi biến mất.

Chồng chị cầm kéo ra vườn lan Tiểu Cao tỉa cành thay chậu. Nhiều cây lan bị động đất quật ngã xuống đất, cành hoa gãy lìa. Lão không nói gì, tay run rẩy, bất cẩn cắt rơi mấy đóa lan bung cánh.

Núi biến mất, thế kỷ mới đến, họ phá sản nợ nần, chị đành trả lại nhà thuê, dọn về nhà mẹ đẻ bên cạnh. Chồng chị nói lão phụ trách di dời vườn lan Tiểu Cao, mỗi lần một chậu lan, như thể vận chuyển kim cương vậy, từ sân sau này dời sang sân sau kia.

Vườn lan Tiểu Cao hiện tại nhét đầy áp phích, bảng thông tin, cờ xí em trai lớn dùng tranh cử xã trưởng năm nào. Tấm biển “Chúc sự nghiệp phát triển lớn mạnh, niềm vinh quang của Vĩnh Tĩnh” của em trai út cũng để trong vương. Gà ị trên áp phích tranh chậu hoa lan kê trên tấm biển của em trai út.

Ban nãy lúc tìm bếp lò trong vườn lan Tiểu Cao, chị nhìn thấy tấm biển đã bao năm không thấy này. Mấy năm trước bão ập vào miền Trung, mẹ chuyển tất tần tật những đồ không cần nữa lên sân thượng, thứ không cần thì tặng cho gió. Mẹ lầm rầm niệm, giống như bố trí pháp hội trong miếu, một thùng nước tương Phương Cống Cống quá hạn rất nhiều năm đặt ở giữa sân thượng, báo cũ của cha, một thùng giày cũ của em năm, váy đầm thời trẻ của mẹ, mấy thùng sách, đệm giường lên mốc, tấm biển của em trai út, toàn bộ dàn trận. Gió nổi, mẹ miệng niệm kinh, hai tay chắp lại, vái trời. Vái xong, mẹ nhìn tháp nước màu bạc trên sân thượng nhà mình, cô con gái cả là chị hiểu ánh mắt đó. Mẹ hy vọng gió mang luôn tháp nước đi. Tốt nhất là mang hết tất cả tháp nước của vùng đất nhỏ này đi.

Sau khi bão tan, chị và mẹ lên sân thượng, bão quả nhiên đã cuốn đi hết mọi thứ, nhưng tấm biển của em trai út vẫn còn, tháp nước cũng vẫn đứng sừng sững. Gió còn để lại một thùng giấy to, Thục Mỹ mở thùng ra, toàn bộ đều là cuốn Cây Cau vô tri: Cái chết của sinh viên giỏi Đài Loan do người chồng phát thanh viên của em ba viết hồi trẻ.

Năm xưa cậu ta đến Vĩnh Tĩnh, ở nhà họ Vương, mang theo bên người một chiếc máy ghi âm, đi khắp nơi thăm hỏi bạn học cũ, người thân, bạn bè của Cây Cau. Câu ta hỏi Thục Mỹ, ấn tượng về Cây Cau như thế nào?

Thục Mỹ nói, cao cao, gầy gầy, thời do hiểm có nam giới cao như vậy, cậu ấy thật sự rất đặc biệt, cho nên được mọi người gọi là Cây Cau. Rất thích đọc sách, rất lễ độ. Rất nghiêm túc chăm sóc vườn khế, gửi tặng cả làn to đến nhà tôi. Rất thích đọc sách trong vườn khế, đọc mải đọc miết. Còn nhớ cậu ấy từng nói sau này sẽ xây một căn nhà nhỏ ở vườn khế. Có lẽ do học vấn rất cao nên những gì cậu ấy nói nhiều người nghe không hiểu. Là bạn thân của hai ông chủ Minh Nhật thư cục, thường tụ tập với nhau.

“Chị cả Thục Mỹ, hồi đó chị đã lên tầng hai của Minh Nhật thư cục bao giờ chưa?”

Chị lắc đầu thật mạnh. Điều chị không nói là, câu này phải hỏi em hai Thục Lệ. Em hai thời đi học đã rất thích chạy sang bên đó, về sau tốt nghiệp rồi thi đỗ công chức, làm việc ở Đài Bắc, mỗi lần nhất định sẽ mang quà đến biếu hai ông chủ nọ.

Thục Mỹ cũng không nói, trước khi chuyện xảy ra, khắp nơi đều đồn Cây Cau là tên biến thái, tên biến thái chuyên sàm sỡ bé trai. Con trai Thục Mỹ lúc đó chưa đầy tuổi tôi, Cây Cau nói thằng cu kháu khỉnh quá, nếu chị cả Trần cần người phụ trông bé thì cậu ấy có thể giúp. Chị hớt hải ôm chặt con, nhìn cậu thanh niên cao lớn trước mặt bằng ánh mắt hoảng sợ.

Trong cuốn sách ấy cũng không nhắc đến chuyện này. Tất cả những người tham gia đồn đãi năm xưa, nhiều năm sau đều ngậm miệng tập thể. Điều này không cần giao ước miệng, đây là hệ thống đồng phạm của vùng đất nhỏ, đồn đồn đồn, càng đồn càng khoa trương, đồn đến nỗi người ta bị bắt, thậm chí chết rồi, người từng đồn thảy đều khâu miệng lại. Toàn bộ không nói, toàn thể miễn chịu trách nhiệm.

Ai nấy đều nói với người chồng phát thanh viên của em ba, thật đáng tiếc quá, thời buổi trớ trêu, vùng đất nhỏ đã mất đi một thanh niên tốt.

Cơ thể em trai út run rẩy dữ dội, rồi em ấy bỗng đứng bật dậy, ánh mắt mờ mịt.

Thục Mỹ hiểu. Em trai út bị giấc mộng đá về hiện thực, hoàn toàn không biết mình đang ở đâu. Vẫn ở Đức ư? Vẫn ở trong tù ư? Đây là đâu? Người phụ nữ già cỗi trước mặt là ai?

Út à, người phụ nữ già cỗi này là chị cả của em đấy. Năm đó sau trận động đất, chị mất ngủ dài hạn. Chị không hề sợ động đất, nhưng hễ vừa chợp mắt chị liền mơ thấy ngọn núi đó, ngọn núi có nền đất mềm mại, ngọn núi bị động đất xô đổ. Chị thường nửa đêm giật mình tỉnh giấc, hai mắt đẫm lệ, hiện thực và giấc mộng xoắn xuýt, chẳng rõ mình ở nơi nao.

Chị không tin chồng, chị muốn nhìn tận mắt. Động đất qua đi được một thời gian, nhiều đường sá ở Nam Đầu đã tu sửa, chị tự chạy xe lên núi, đi tìm núi. lúc trước đã hoàn toàn biến mất. Chị hỏi dân địa phương, ở đây trước có phải có một con đường không? Cuối đường có một vạt rừng tre rậm rạp.

Dân địa phương trả lời: “Biến mất hết rồi, trống trơn rồi, cô xem những sườn núi này giờ đều trọc lông lốc, nào cây nào cỏ nào thác nước toàn bộ đều biến mất rồi.”

Chị vẫn không tin, cuốc bộ theo trí nhớ, xem có thể đi được bao xa. Chị cúi đầu tìm kiếm, chị nhớ ở đây có rất nhiều tầm ma, nhưng chẳng có gì cả. Chưa đi được mấy bước thì phía trước xuất hiện vách đá cheo leo, còn tiến tới bước nữa sẽ rơi xuống khe núi nước chảy xiết, trước kia nơi đây vốn không có địa hình thế này. Không có tre, không có tầm ma, không có cây mận, không có núi.

Núi biến mất rồi, chị cảm thấy một nơi nào đó trong cơ thể mình lún xuống, hình thành một cái hố to. Làm thế nào đây, thật tình không muốn chạy xe về Vĩnh Tĩnh. Nhưng có thể đi đâu được? Chị chạy xe lòng vòng ở vùng núi Nam Đầu, dừng lại trước một căn nhà dân bị sập. Đó là căn nhà cũ, cột xiêu tường đổ, tầng hai sụt xuống mặt đất. Mặt tiền tầng hai có cặp phù điêu sư tử, một con trong đó bị đứt đầu. Phù điêu được tạc rất khéo, sư tử mất đầu vẫn tinh xảo. Chị nhìn con sư tử cụt đầu, nhớ đến cái đầu bẹp gí mình ôm trong lòng ở nhà máy may Sa Lộc hồi trẻ. Chị chạy xe đến Sa Lộc Đài Trung, nhà xưởng năm xưa vẫn còn, nhưng rõ ràng đã bỏ hoang lâu rồi. Chị nhớ ra, cô đồng nghiệp trước cùng làm công nhân ở đây với chị từng kể, ông chủ đã dời hết nhà xưởng sang Trung Quốc từ lâu, nghe nói kiến trục, quy cách, trang bị trong nhà xưởng đều giống hệt nhau, chỉ là quy mô lớn gấp mấy lần. Chị đi ra phía sau nhà xưởng, muốn tìm ký túc xá công nhân nữ mình ở năm xưa, song ký túc xá đó chẳng thấy đâu nữa, chỉ còn lại một đống vải bị vứt bỏ. Chị cảm thấy cái hố trong cơ thể to hơn.

Sau đó chị thường lặp đi lặp lại hai giấc mơ, một hướng xuống, một hướng lên.

Hướng xuống. Đêm khuya, đứt gãy địa tầng diễn ra mạnh mẽ, ngọn núi nọ bị nuốt chửng trong vài giây ngắn ngủi. Sườn núi sụt xuống. Vườn trà sụt xuống. Cây mận sụt xuống. Cái bàn dưới cây mận sụt xuống. Cái ghế dưới cây mận sụt xuống. Chị đang nằm dưới cây mận cũng sụt xuống. Hoa lan sụt xuống. Máy may sụt xuống. Số tiền hồi mười mấy tuổi chị đi Sa Lộc Đài Trung làm công nhân dành dụm được cũng sụt xuống. Nhà máy may sụt xuống. Cái xác không đầu sụt xuống. Tất cả đều sụt xuống lòng đất đen ngòm.

Hướng lên. Ngày bão, cảnh báo bão mạnh đổ bộ, tiếng gió vù vù, chị đứng trên sân thượng dãy nhà, đứng chung với những đồ đạc mẹ bày la liệt. Gió tới, thổi thốc tất cả lên. Những thứ này đều là vật phẩm tế trời của mẹ. Nước tương Phương Cống Cống bay lên. Giày của em năm bay lên. Báo cũ của cha bay lên. Sắp đến lượt chị rồi. Thục Mỹ sắp sửa bay lên rồi. Chị cảm thấy mũi chân đã rời đất. Gió lặng. Bão tan biến trong chớp mắt. Cảnh báo bão được gỡ bỏ. Chị cùng một thùng sách và tấm biển của em trai út bị bỏ lại chỗ cũ. Không đi được. Không bay nổi. Ngay cả gió cũng ghét bỏ.

Tỉnh dậy, chị không ở trong núi cũng không ở trong gió. Chị ở đây. Vẫn luôn ở đây.

Ánh mắt em trai út rất đau khổ, chứa đầy câu hỏi. Chị muốn nói: “Út à, em ở đây, em về nhà rồi. Giống như chị. Em chạy xa đến thế, cuối cùng lại giống như chị vậy. Trước giờ đều ở đây.”

Nhưng chị không nói gì cả.

Người nhà họ Trần rất giỏi ngủ. Thật ra việc người nhà họ Trần giỏi nhất là ngậm miệng.

Thục Mỹ trước giờ vẫn không nhắc. Năm đó thứ bão từ chối mang đi, ngoài tấm biển và thùng sách kia, còn có một thùng băng VHS.