← Quay lại trang sách

Chương 14 Đó đều là thiên nga hoang dã

Gã ở đâu?

Dựa vào âm thanh để phân biệt. Hải triều. Máy may. Gà gáy. Mẹ ngáy. Hà mã kêu. Khớp ngón tay gõ tháp nước thép không gỉ. Chó sủa. Tiếng vỗ tay. Cello. Mưa.

Dụi mắt. T. Chị cả. Găng tay. Bánh quy. Bếp lò. Ghế đẩu. Khe nứt. Vàng mã. Tro tàn. Tóc vàng. Đêm đen. Mặt trăng. Thiên nga. Miến tuyến ăn không hết. Lông mi vàng kim. Máu tươi. Sương mù dày đặc.

Ngửi. Giò lợn. Thuốc viên. Hơi ẩm. Xà phòng trên da. Cá hun khói. Mùi tanh của nước biển. Nước biển trong tóc. Mật ong. Kẹo. Kịch bản Shakespeare.

Tất cả manh mối giống như sợi dây mảnh, quấn bện xoắn xuýt, để lại hết nút thắt chết này đến nút thắt chết khác trong đầu gã. Cũng giống như rắn, trăm ngàn con rắn to nhỏ, màu sắc hoa văn, giống loài khác nhau vậy quanh người gã, thè lưỡi, cắn xé.

Sao lại nghĩ đến rắn nhỉ?

Hồi nhỏ gã từng bị rắn cắn, đang chơi đùa lăn lộn ở bãi cỏ thì tay chợt đau nhói, một con rắn cắn tay gã, quấn quanh cánh tay gã chặt cứng, gã cố dùng tay còn lại kéo con rắn ra, nhưng con rắn khỏe kinh hồn, không làm sao gạt bỏ được. Anh gã đứng bên cạnh khóc váng lên, những đứa trẻ khác la hét bỏ chạy tán loạn. Gã nhớ ra mẹo mà người hàng xóm giết rắn dạy, tìm thấy hậu môn của con rắn ở gần vùng bụng kề đuôi, lấy đầu ngón tay đâm mạnh vào, con rắn quả nhiên lập tức mất sức, buông cánh tay gã ra, rơi xuống đất. Gã cúi đầu nhìn bàn tay, có vết răng rắn.

Hôm nay về, đầu choáng váng, nhoi nhói đau. Giống như năm xưa bị rắn cắn.

Gã biết mình về nhà rồi. Cái nhà gã sinh ra. Nơi bắt đầu. Khởi điểm. Cái nhà gã dốc hết sức rời khỏi. Cái nhà không cần gã. Cái nhà không chào đón gã.

Gã nhìn mái tóc muối tiêu của chị cả, đồng thời cũng nhìn thấy thiên nga hoang dã trên biển. Hình ảnh chồng lên nhau, ý thức rã rời, trong ba lô của gã có thuốc bác sĩ Đức kê, hôm nay sau khi xuống máy bay đã uống chưa nhỉ?

Gã đi ra ngoài, bếp lò trước cửa đã nguội, chứa đầy tro tàn. Không khí uể oải, không có gió, mấy chiếc xe ngang qua dẫn tới vài luồng khí nóng. Trên bầu trời trăng tròn như mâm bạc, nhìn sang trái, ở cuối đường, Bạch Cung lấp lánh tỏa sáng trong đêm. Trong nhà tù ở Berlin, Bạch Cung từng vào giấc mơ tìm gã. Chị năm đứng trước cánh cổng màu vàng của Bạch Cung, hét to với đám phóng viên: “Tôi sắp cắt ngay đây, máy quay của các người chuẩn bị sẵn sàng chưa? Tôi sắp cắt ngay đây.” Con dao rạch qua cánh tay chị năm, máu tươi chảy ồ ạt, máy quay quay lại tất cả. Trong mơ chị năm mặt mũi mờ nhạt, cắt cánh tay xong liền biến mất, nhưng máu nhỏ trên mặt đất lại có sinh mệnh, vươn dài như dây leo, phun ra như cột nước, tường bao Bạch Cung nhanh chóng bị máu đỏ tươi loang kín, tiếp theo là sông đào nhân tạo trong vườn hoa Bạch Cung, nước máu đầy ắp, cá koi bên trong chết hết. Máu tiếp tục lan rộng, cột Hy Lạp, tường ngoài trắng tinh đều chuyển sang màu đỏ. Sắc đỏ trong mơ sáng óng ánh, giơ tay sờ tường ngoài của Bạch Cung, giống như chạm vào chất gel màu máu.

“Con người ta vì sao về nhà hở bác sĩ?”

Trong nhà tù nước Đức, gã đã hỏi bác sĩ tư vấn tâm lý mình như vậy.

Có nơi thuộc về, an toàn, xem ti vi, ăn, ngủ, tắm.

Gã hỏi luật sư gốc Việt, anh từng về Việt Nam chưa? Luật sư kể chuyện hồi hương. Anh ta không biết một câu tiếng Việt nào, phải nhờ vả chỗ quen biết mới tìm ra cô nhi viện mình sống hồi nhỏ. Lúc được nhận nuôi anh ta mới ba tuổi, chẳng nhớ gì về cô nhi viện. Anh ta nghĩ rằng mình quyên tiền, đến thăm, cái hố trong lòng sẽ được lấp đầy. Nhưng về đến Việt Nam, cái hố đó ngược lại càng to. Cha mẹ nuôi người Đức xúc động, cùng nhân viên cô nhi viện ôm nhau khóc, song anh ta lại cảm thấy rất xa cách. Ngay cả bạn đời đồng tính của anh ta cũng cảm động lây, nảy sinh ý định nhận con nuôi. Chỉ có anh ta cảm thấy muốn chạy trốn, muốn mau mau mang cái hố trong cơ thể rời khỏi Việt Nam, quay về Berlin.

Gã đọc được trong một cuốn sách ở nhà tù, rằng ký ức của con người biết sàng lọc, che đậy, trong một số tình huống cực đoan, con người sẽ chủ động xóa bỏ những giai đoạn trưởng thành quá đau khổ, giữ lại những phần đẹp đẽ, tốt lành. Gã nghĩ đến quê nhà, đương nhiên sẽ nghĩ đến những thứ đẹp đẽ, tốt lành. Đêm hè giống như tối nay, mẹ tự tay làm thạch bông cỏ, thêm vào mật ong long nhãn, cả nhà ngồi trước cửa ngắm sao, nghe dế kêu, đợi đom đóm. Mẹ luôn ngồi trên ghế bập bênh, chỉ tay lên bầu trời, một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, đếm Nhưng gã không quên những thứ xấu xa, bẩn thỉu đó, cái chế và sự ra đi mà gã gây ra, lời mắng nhiếc và trận đòn đau của mẹ. Mẹ đánh gã, tay đấm là dao, chân đá là kiếm, song hung ác độc địa nhất là miệng, trút đủ kiểu chửi rủa tiếng Đài, từng chữ như lửa đốt. Bị đánh, gã không bao giờ phản kháng. Gã cảm thấy có lỗi với mẹ, bản thân biến thái, bản thân không bình thường. Mẹ nói đúng, nhà họ Trần bị hủy hoại đều tại gã. Sinh ra gã là tạo nghiệp chướng, năm xưa sinh một đứa con trai là tốt rồi.

Vâng theo lời mẹ, gã rời đi, đến nơi xa lơ xa lắc, không định trở về. Gã thậm chí từ bỏ hộ chiếu Đài Loan, nhận hộ chiếu Đức, cắt đứt với quê hương, với đảo.

Song hôm nay gã đã trở về. Gã không có câu trả lời. Con người ta vì sao về nhà? Đâu là nhà? Gã trở về, không phải để cứu chuộc, không phải để sám hối, không phải để tìm kiếm lời giải đáp. Hồi hương không phải là nghĩa vụ, hồi hương khiến gã ngạt thở. Nhưng gã phải về.

Bởi vì, quả thực chẳng còn nơi nào để đi cả.

Bởi vì, T nói: “Kết hôn với tôi, anh sẽ lấy được thẻ tạm trú, có thể ở lại. Mấy năm sau lại xin hộ chiếu Đức.”

“Kết hôn”? Năm đó nước Đức vẫn chưa cho phép hôn nhân đồng tính, nhưng có luật riêng, cho đăng ký bạn đời đồng tính. Ánh mắt T kiên định, gã nghịch hạ bộ bông mềm của T, “kết hôn” giống như một sự cắt đứt thực sự, nhổ gã khỏi đảo. Đó là lời mời hấp dẫn, gã sẽ có được một thân phân hoàn toàn mới. Làm lại từ đầu, ở một nơi không quá khứ, cùng một người xa lạ bắt đầu cuộc sống mới. Gã mỉm cười gật đầu, nói ok, T nghe xong, nhanh chóng cứng lên trong lòng bàn tay gã.

Trước khi đăng ký làm bạn đời, T dẫn gã về Laboe. Mẹ T là cô giáo trường âm nhạc, cha làm việc ở cảng. Mấy ngày nữa là lễ Giáng sinh, cùng cậu ấy về nghỉ lễ thôi. Họ gửi chó mực cho bạn, từ Berlin bắt tàu hỏa đến Hamburg, đổi sang tàu chậm đến Kiel, rồi ngồi xe buýt đến Laboe. Lộ trình này vòng vèo, phong cảnh ngoài cửa sổ thay đổi lớn, gã thiếp ngủ trên chỗ ngồi, tỉnh dậy thì thành phố lớn đã biến mất, ngoài cửa sổ tuyết trắng miền man, không thấy nhà cửa gì cả. Đến Laboe, tuyết tạm ngừng, ban ngày âm u, trước mặt là vịnh biển tĩnh mịch, trên bãi cát có cô gái dắt chó đi dạo, thấy T liền lao tới ôm. Cô gái ngắm nghía gã bấy giờ đang đứng cạnh T, con chó ngửi gã, như thể vùng vịnh xuất hiện sinh vật ngoài hành tinh. Biển rất lặng, nghe kỹ mới thấy tiếng sóng. T giơ tay chỉ về phương xa, có nhìn thấy không, những đốm trăng trắng trên mặt biển ấy? Đó đều là thiên nga hoang dã.

Nhà T quay mặt ra biển, một ngôi nhà nhỏ bên vịnh, hai tầng, mái hình núi, tường ngoài màu kem, khung cửa sổ xanh Hy Lạp. Trong vườn hoa có xích đu, cây táo trợ trụi, ghế dài nhìn ra biển. T chỉ cửa sổ trên tầng, đó là căn phòng lúc trước của cậu ấy, cậu ấy thường ngồi bên cửa sổ nhòm kính viễn vọng ngắm tàu lớn trên mặt biển đoán xem thuyền trưởng sẽ lái tàu đi đâu.

Vừa bước vào ngôi nhà đó, gã đã biết cha mẹ T không hề chào đón gã. Bắt tay lạnh nhạt, ánh mắt lảng tránh. Sự tồn tại nồng nhiệt duy nhất trong nhà là cây Giáng sinh nhấp nháy giữa phòng khách. Bữa tối họ cãi nhau, gã và T ngay đêm ấy rời khỏi ngôi nhà nhỏ.

T từ đó không nhà. T nói, heitmatlos, tính từ, heitmat, “quê nhà”, los, “không”. Tra tự điển, “không quê nhà”. Lúc đó gã không hiểu chữ này, bây giờ gã đã hiểu. Dân tị nạn vượt biển, quê nhà bị bom đạn tàn phá, từ đó không nhà. Mất nước, lưu đày, bơ vơ, lênh đênh, không về quê cũ được nữa, ấy là không nhà. Nhổ tận gốc, cắt đứt, tách rời, vĩnh biệt, không có quê hương để về, ấy là không nhà.

Sau khi giết T, gã tự chạy xe đi Laboe.

Chị cả đến bên gã, cùng ngắm trăng với gã. Mồ hôi đầm đìa như mưa, dĩn đen để lại nhiều vết sưng đỏ trên tay chân gã. Mặt trăng từ từ lên cao, bầu trời không mây. Chị cả nói: “Lâu lắm không mưa rồi.”

Hôm gã và T đăng ký làm bạn đời, Berlin đổ mưa. Cơ quan hành chính hộ tịch nằm ngay bên hồ phía đông Berlin, thủ tục đăng ký gọn lẹ, rất nhanh đã cầm được giấy chứng nhận. Không cần người làm chứng, chỉ mời một người phiên dịch quốc tịch Trung Quốc giúp gã hiểu rõ thủ tục đăng ký. Người phiên dịch chúc mừng gã: “Chào mừng đến nước Đức.”

Không có nhẫn, không có lễ phục trang trọng. Họ nắm tay nhau đến bên hồ, T nói, nơi này gọi là Weißensee. Hồ trắng trong mưa, giữa hồ có người đang chèo chiếc thuyền con. Mùa hè chúng mình đến đây bơi nhé.

Các chị biết gã đã “kết hôn” qua câu chữ của gã. Lúc đó gã có một chuyên mục trên phụ trương báo, viết những gì mắt thấy, tai nghe, yêu thích, biết và không biết ở Berlin. Bài đó viết về cảnh hồ trong mưa, hai chàng trai vừa mới “kết hôn”, không giương ô, dầm mưa hôn nhau bên hồ, đợi mùa hè.

Chị hai gọi điện cho chị cả, may quá, mẹ không biết chữ, không đọc báo. “Chị cất báo hôm nay đi kẻo cha đọc được.”

Chị ba sáng sớm uống cà phê bên hồ, hôm nay có chuyên mục của em trai út, nhanh tay giở đến phụ trương. Chị ấy nghĩ bụng, phụ trương chắc chẳng ai đọc. Chắc chẳng ai ở Vĩnh Tĩnh đọc đâu.

Mẹ không biết chữ, nhưng người bán thịt lợn biết chữ, người bán rau muống cũng biết chữ, người hàng xe máy cũng biết chữ, người bán chậu cảnh cũng biết chữ. Xì xầm. Bông đùa. Cau mày bàn tán. Giọng điệu ghét bỏ. Gió đến, thổi bay câu chữ trên báo, truyền đi xa.

Chị cả nói, mấy tháng liền không mưa, kênh nước cạn queo rồi. Văn phòng xã bảo sắp thực hiện hạn chế nước và hưu canh ôi ông trời không khóc, mọi người chết nghèo chết khô mất thôi.

Gã khát cháy cổ. Gã cần một cốc nước to, giội hết mớ thuốc viên trong ba lô vào dạ dày.

Nhìn sang trái, ở cuối đường có một bóng người cao gầy, xuất phát từ Bạch Cung, đi về bên này. Gót giày của bóng người đó gõ lên mặt đường, từ đằng xa trông thấy gã và chị cả đứng ven đường, bèn gõ nhịp nhanh hơn.

Nhìn sang phải, ruộng cúc vừa mới lên đèn. Phía trên ruộng hoa từ từ xuất hiện một quầng sáng màu vàng, soi tỏ đường nét của vùng đất nhỏ. Ánh sáng chậm rãi lan rộng, xua đuổi bóng tối, con đường nhỏ ven ruộng vốn tối om nhuộm ánh đèn vàng, mặt đường như được tô lên một lớp vàng kim. Lớp vàng kim ấy tựa hồ bọt sóng, một chiếc xe tải nhỏ cưỡi sóng, chạy về phía họ.

Gã lại nhớ đến thiên nga trên mặt biển. Thiên nga thong thả đến gần gã. Trắng phau như tuyết, thiên nga hoang dã nhấp nhô theo sóng trên mặt biển đen ngòm, đếm ngón tay, một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, đếm không xuể, mỗi lần đếm là một tổng số khác nhau. Thiên nga hoang dã con nào con nấy đều trắng sáng thuần khiết, mặt biển giống như bầu trời đêm, còn thiên nga là ánh sao li ti giữa trời.

Gã chưa từng nói với các chị. Gã chưa từng nói với bất cứ ai. Gã sẽ chẳng bao giờ nói ra miệng. Nếu không nhờ thiên nga, sau khi giết T, người gã giết tiếp theo chính là bản thân mình.