NGHĨA ĐỊA CỦA MA-MÚT
Đảo Liakhôpxki lớn, hay đảo Blidơnưi như người ta thường gọi, nổi tiếng về cấu tạo địa chất của nó. Bốn mỏm đất gồ ghề của nó, hay nói cho đúng hơn, những mỏm nhô ra của nó là bằng đá gơ-ra-nít. Phần còn lại của đảo là những chất lắng đọng nhão ở đệ tứ kỷ. Do đó rất nhiều sông và suối từ trên vùng cao đổ về, xói mòn lớp đất mới được tạo nên, chia cắt đảo thành vô số đồi núi cằn cỗi. Suốt mùa hè ngắn ngủi, đảo giống như một lãnh nguyên đất sét phủ đầy rêu với những đụn tuyết còn lại trong những vực và thung lũng sâu quay mặt về phía bắc.
Những chất lắng đọng nhão nhoét này trải rộng xuống đến tận bờ của đảo, bề mặt bị vỡ ra thành những vách đá dốc đứng cheo leo dài hoặc ngắn, bị những thung lũng của các con sông con và suối cắt ngang. Các lớp đất này thường xuyên bị băng giá phủ kín mít, đến mùa hè băng chỉ tan một ít ở dưới sâu; lớp băng tan này cuốn cả đất ra biển và bị sóng đánh vỡ. Cứ như thế này thì đảo dang bị biển phá hoại.
Nếu quá trình xói mòn này không nhờ có băng giá thường xuyên đã làm chậm lại rất nhiều thì đảo đã bị xóa sạch từ lâu và chỉ còn nền gơ-ra-nít mà thôi.
Ngà ma-mút rất nhiều, chúng còn rải rác dưới lòng đất, có cả xác của con voi ma-mút và các con vật vào thời kỳ chúng sinh ra như tê giác có lông len, bò nguyên thủy, nai Ca-na-đa, ngựa và một số con thú khác, nhờ có băng giá thường xuyên nên đã giữ nguyên những cái này cùng với lông, ngà hay sừng và ruột. Song, do băng tan vào mùa hè ở một độ sâu nhất định nên nước của sông và suối đã làm rữa những cái xác đó, cuộn xương và ngà xuống biển. Cũng do băng tan và bị xói mòn, các vách đá trên bờ biển đã nhả các xác và bộ xương của ma-mút và xương của những con vật đã chết ra, cuối cùng đều cũng bị nước biển cuốn đi và vùi sâu xuống đáy. Thường thường những cái xác này bị những chim và thú ăn thịt. Chúng không từ chối ăn thứ thịt đã bị ướp lạnh qua hàng nghìn năm.
Với thành phần độc đáo như vậy của đảo Liakhôpxki lớn nên hàng năm vào mùa xuân thu hút những người thợ săn đến đây. Họ sục tìm ngà ma-mút trên bờ biển, ở cuối dòng suối và trong thung lũng. Do băng tan, những ngà này rời khỏi đất băng giá từ năm trước, hoặc bị sóng biển văng lên bờ. Được băng giá giữ gìn một cách tuyệt đẹp, những ngà ma-mút cũng giá trị như ngà voi thường. Các thợ săn bán ngà này cho thương nhân địa phương hoặc cho lái buôn vùng nội địa, họ đem ra chợ ở Iacutxcơ bán và từ đây các ngà lại được chở đến tận vùng Xibiri và đến tận nước Nga. Ở đây chúng được dùng làm lược, khuy tay áo, hộp đựng đồ trang sức, hòn bi-a v.v.
Các thợ săn không dùng xương của những con vật hóa thạch khác, mà chỉ các nhà bác học mới nghiên cứu động vật ở thời kỳ quá khứ đó. Đôi khi băng tan, những xác con vật nằm rải rác trên mặt đất làm người ta phải chú ý, nhưng phần lớn các xác đó bị hủy diệt, vì các người thợ săn không biết giá trị của chúng và không biết lập hồ sơ về các vật mẫu hoặc giữ cho chúng khỏi bị hư hỏng.
Gôriunôp và hai người bạn của ông ta đã đến đảo một lần trước đây cùng một vài thợ săn ngà và đã chú ý đến những đống ngà này. Nhưng họ không thể giải thích tại sao lại có nhiều ngà như vậy và tất nhiên ở Cadatric, họ không tìm được tài liệu nào thích đáng.
Khi ở thủ đô, Gôriunôp đã dùng một ít thời gian để đọc các tài liệu về đề tài này và đã mang theo một vài cuốn sách. Bây giờ các nhà du hành quyết định ở lại một ngày trên đảo để quan sát các vách đá dọc theo bờ biển kỹ hơn, đồng thời để cho các bạn đồng hành của mình và chó được nghỉ ngơi.
Sáng hôm sau, cùng đi với Gôrôkhôp, ba người bạn bắt đầu khảo sát bờ biển. Tuy nắng hè oi ả và gió biển chưa bắt đầu, nhưng tia nắng xiên khoai đang xuống thấp, vẫn đốt nóng các vách đá. Các vách đá cao từ hai mươi đến hai mươi lăm mét và dọc theo đỉnh của chúng là những tảng tuyết rắn cái cao, cái thấp giống như những tảng tuyết treo lơ lửng trên một mái nhà sau một cơn bão tuyết dữ dội. Chỉ khác là chỗ bão dữ dội hay xảy ra ở đây về mùa đông, cho nên các tảng tuyết dài khoảng từ bốn đến sáu mét, rộng từ hai mươi đến bốn mươi mét và dày đến hai mét. Phía dưới tảng tuyết là mặt của vách đứng nhô ra khỏi đỉnh của nó gồm có những lớp băng, cát mịn và đất sét, hết lớp nọ đến lớp kia. Dọc theo vách đứng là những đống băng dựng lên thành bức tường có độ dày khác nhau và kéo dài vào tận trong đảo. Các lỗ hổng giữa những bức tường này đầy những chất lắng đọng của đất sét, cát mịn và băng xếp thành lớp mỏng. Trên vách đứng, mỗi khi tuyết treo lơ lửng vỡ ra thì băng và phù sa được phủ bằng cát, đất sét hoặc than bùn, tận cùng là một lớp đất lãnh nguyên đen phủ một lớp tuyết dày ở bề mặt của đất. Phía dưới của vách đứng được bao phủ bằng một lớp tuyết cứng dốc thoai thoải, về mùa đông lớp tuyết này đã đùn lên thành đống cao từ tám đến mười mét trên bờ biển. Cái dốc tuyết này chứng minh rằng những lớp băng ở bên trên và những chất lắng đọng của đất giữa các lớp tuyết ấy nằm trên băng rắn tạo thành lớp nền của đảo và nó cao từ mười hai đến mười lăm mét so với mặt biển.
Sự khảo sát này đã cho thấy rằng xương của những con vật hóa thạch không ở trong băng mà trong những chất lắng đọng của đất nằm giữa băng, điều này được Gôrôkhôp khẳng định, anh ta đã ở trên đảo trong nhiều dịp trước đây và gặp một vài cái xác nguyên vẹn, những xác này cũng nằm sâu trong những chất lắng đọng của đất.
Sau khi quan sát khoảng mười cây số bờ biển và biết chắc chắn rằng cấu tạo của đất chỗ nào cũng giống nhau, các nhà du hành quay về Malôie Dimovie để ăn chiều, mang theo một vài bộ xương tìm được, trong đó có cả sọ tê giác và ngà voi ma-mút. Ở các phần của tường băng, họ đã nhìn thấy rõ có sự phá hủy của mặt trời, những tia nắng đó đã làm băng lõm thành từng hốc, các hốc đó tô điểm các trụ băng từ trên xuống, giống như những thạch nhũ trong hang động đá vôi.
Trong bữa ăn, Gôriunôp kể với các bạn mình về Tôn đã giải thích cấu tạo của hòn đảo kỳ lạ này như thế nào và những xác của các con vật thời tiền sử trên đảo ra sao. Theo nhà bác học này thì băng trên đảo là di tích của một băng hà lớn, bị thu hẹp lại rất nhiều vào thời đóng băng vĩ đại. Mặt của băng hà này bị thu hẹp sau thời kỳ này chi chít những con suối do băng tan chảy từ trên những vùng cao xuống, nước làm lắng đọng cát và phù sa trong các sông đào và các chỗ trũng. Cây hóa thạch tìm thấy trong những chất lắng đọng này chứng tỏ rằng hồi ấy cây cỏ ở đây phong phú hơn nhiều so với ngày nay. Bây giờ chỉ còn lại rong rêu và những cây có hoa thấp; ngày trước, mặc dầu có băng nhưng ở đây vẫn có những lùm cây trăn, những cây này cao từ bốn đến sáu mét, các cây liễu và nhiều cây ngũ cốc. Khí hậu của thời kỳ sau băng hà rõ ràng êm dịu hơn so với ngày nay, bởi vì bây giờ những loại cây này chỉ mọc trên đất liền, ở một vài độ về phía nam. Thức ăn còn lại trong dạ dày và răng của con mamút chứng tỏ rằng những con vật này ăn các giống cây này, còn vị trí của các động vật trong các chất lắng đọng của đất giữa băng lại chứng tỏ rằng ma-mút đã từng sinh sống và chết ở đây.
Tại sao đảo Liakhôpxki lớn trở thành sào huyệt của những con thú khác nhau ở thời kỳ sau băng hà?
Điều đó có thể giải thích rằng, vào đầu đệ tứ kỷ đất liền của Xibiri trải rộng rất xa về phía bắc hơn ngày nay và bao gồm quần đảo Nôvôsibirơxcơ. Vào cuối thời kỳ băng hà cuối cùng, khi ma-mút, tê giác lông len và bò nguyên thủy vẫn lang thang ở Xibiri và những người nguyên thủy đã xuất hiện thì những mảng lớn phía Xibiri bắt đầu vỡ ra và một vài nơi bị chìm xuống biển. Dần dần, khu đất cao không bị băng hà và có cây cỏ sum suê. Xét theo di tích của cây cỏ tìm được trong đất thì hồi ấy khí hậu ở đây ấm hơn. Bị nước cuốn đi, nên các thú vật phải cùng nhau tìm chỗ ẩn nấp ở các vùng cao. Đảo Liakhôpxki lớn, giống như những đảo khác ở quần đảo Nôvôxibirơxcơ, là một trong những vùng cao này. Một số khá lớn động vật đã rời về phương nam theo bản năng, tập trung ở đây, bởi vì đây là cực nam của quần đảo. Nhưng nơi đây đã bị một dải nước lớn cắt rời khỏi đất liền, thành hòn đảo, và các thú ở trên cạn không thể đi xa hơn. Trên đảo này có rất nhiều thú nên không đủ thức ăn cho tất cả mọi con, vì thế, đảo đã trở thành nghĩa địa của chúng.
Để xem có bao nhiêu voi ma-mút đã sống trên đảo, người ta có thể xét đến số ngà mà những người thợ săn đã từng bán tại chợ Iacutxcơ trong thời gian qua. Thống kê học cho chúng ta biết rằng từ 1000 đến 1400 pút ngà hoặc trung bình 1200 pút được mang đến chợ hàng năm. Một cặp ngà lấy từ một con ma-mút lớn cân nặng tám mươi cân có nghĩa là 5 pút; do đó số ngà bằng số ngà của hai trăm bốn mươi ma-mút. Phần lớn được đưa từ đảo Liakhôpxki lớn, ở đây nước biển xô vào bức tường băng làm cho vô số ngà tách khỏi băng và đất, phơi lên bờ biển. Đây là nơi mà các thợ săn đến nhặt ngà vì làm như thế thì dễ hơn là đào chúng ở trong đất đóng băng.
Như vậy, vào một lúc nào đó ở gần cuối thời kỳ băng hà cuối cùng, khi một phần của đất liền đã trở thành một hòn đảo tách ra khỏi lục địa bằng một dải nước lớn thì có hàng trăm ma-mút đi lang thang trên đảo và chết dần chết mòn vì đói. Một số bị sa vào những con suối đầy bùn hình thành trong mùa hè khi băng đã tan, một số vì ham ăn có bị thụt vào đất lầy, còn một số khác rơi vào các khe băng trong khi lẩn tránh sự quấy nhiễu của muỗi mắt và ruồi trâu, cát và phù sa đã phủ lên xác chủng. Những xác này được băng giá thường xuyên gìn giữ, còn những xác phơi trên mặt đất bị chim và dã thú ăn thịt, chỉ còn xương vỡ tan thành bụi theo thời gian, các ngà voi giữ được lâu hơn. Đó là lý do vì sao đảo lại trở thành cái kho chính chứa ngà ma-mút và hấp dẫn các thợ săn từ khắp bờ biển phương bắc của Xibiri.
- Tôi phải nói rằng, - Gôriunôp kết luận, - không phải tất cả các nhà bác học tán thành quan điểm của Tôn về nguồn gốc của băng hóa thạch trên đảo Liakhôpxki lớn. Chẳng hạn, Bungơ, người nghiên cứu đảo đồng thời với Tôn, tin rằng đó không phải là tàn dư của một băng hà trước đây mà là một cấu tạo về sau và băng ấy vẫn còn hình thành ở trên khắp vùng bắc Xibiri do nước đóng băng. Về mùa xuân nước chảy vào những khe sâu trong đất đóng băng về mùa thu vì rét và phủ tuyết về mùa đông. Do đó, băng hóa thạch này thuộc về một thời kỳ muộn hơn thời kỳ những con ma-mút sống.
- Trong trường hợp này thì các con vật ở trong băng như thế nào nếu băng vừa mới kết lại, - Côxtiacôp hỏi.
- Sự thực là chúng không ở trong băng mà ở trong đất của lãnh nguyên giữa băng. Tôn đã ghi chú và nhấn mạnh điểm này.
- Điều anh nói có nghĩa là những con ma-mút đi lang thang trên lãnh nguyên và bị thụt xuống đất lầy. Phải chăng lãnh nguyên trong thời kỳ đó là đầm lầy hay sao? Theo chỗ chúng tôi nghe thấy thì có cây to và cỏ mọc sum suê trong lãnh nguyên, - Oocđin nhận xét.
- Nếu chúng ta chấp nhận quan điểm của Bungơ thì điều anh nói là đúng, - Gôriunôp trả lời. - Nhưng tôi có xu hướng thừa nhận giả thuyết của Tôn. Trong vách đá mà chúng ta quan sát hôm nay, chúng ta thấy rằng đó không phải là băng lấp đầy miệng hố trong đất của lãnh nguyên mà ngược lại, đất này lấp đầy các chỗ trũng và các đường rãnh trong băng.
- Có cứ liệu nào khác, ngoài cứ liệu mà người ta biết về đảo Liakhôpxki, để chứng minh rằng bắc Xibiri là một băng hà hay không? – Oocđin hỏi.
- Có chứ! Tôn tìm thấy những băng tích xa xưa, đó là đất sét, cát, đá tảng, chúng đọng lại sau những trận băng hà trên bán đảo Taimurơ, dọc theo sông Anabara trên đảo Côtennưi và đảo Xibiri mới. Mitđenđooc tìm thấy những đống đá do băng hà chuyển tới, nay còn đọng lại trên khắp lãnh nguyên Taimưrơ 4 .
- Tôi đã đọc một tài liệu nào đấy nói rằng băng hóa thạch cũng có thể được tạo thành theo những cách khác, - Oocđin nhận xét. - Trong lãnh nguyên, những cái hồ nhỏ thường đóng băng đến tận đáy và nếu trong mùa xuân, băng có một lớp phù sa ngăn không cho nó tan thì nó hóa thạch. Một mảng tuyết lớn đâu đây trên dốc của một ngọn đồi, ở chân một vách đứng cheo leo trên một con sông hoặc trong một khe núi đôi khi cũng có thể phủ đầy cát và phù sa và dần dần biến thành băng, băng này vẫn giữ được cho đến khi lớp bảo vệ của nó bị phá hoại.
- Rất đúng, - Gôriunôp nói. - Và tôi có thể nói thêm với anh một cách khác. Tôi muốn nói về băng phủ trên bờ của các con sông Xibiri mà thỉnh thoảng rất dày, dài và rộng. Về mùa xuân, băng này cũng có thể có một áo khoác bằng phù sa và cát.
- Xác của động vật sống đồng thời với ma-mút cũng đã được tìm thấy trong lớp băng phủ hóa thạch này. Nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng vấn đề của băng hóa thạch vẫn còn nhiều khía cạnh mờ ám cần phải được nghiên cứu sâu hơn. Cho đến nay, chưa người nào đã xem đề tài này có tầm quan trọng đặc biệt và cần phải được nghiên cứu một cách toàn diện.
- Tôi nghĩ rằng vấn đề về những điều kiện sống và sự tiêu vong của những con ma-mút cùng những sinh vật cùng thời với nó cũng đã không đủ để giải thích và cần phải được nghiên cứu sâu hơn, - Oocđin nói. – Hãy lấy vấn đề tại sao chúng lại đi trên các băng hà hoặc trèo lên băng phủ làm thí dụ.
- Điều này dễ dàng giải thích, chúng phải tránh muỗi mắt, ruồi trâu và những con bọ đốt khác có lẽ đã có rất nhiều. Thậm chí ngày nay anh sẽ thấy con tuần lộc hệt như thế trong mùa hè, tìm nơi an dưỡng trên các đống tuyết, đống băng dọc theo bờ biển. Sau khi ăn no nê trên bãi rêu, chúng đứng hàng giờ trên những nơi lạnh lẽo này, ngủ chập chờn hoặc nhai lại thức ăn. Dĩ nhiên, ngoài điều này có nhiều điều mà chúng ta không biết về ma-mút. Sự tiêu vong của những con vật này người ta cho là do khí hậu xấu đi. Nhưng điều đó không xảy ra ngay, quá trình phát triển qua nhiều thế kỷ. Do đó, sự tiêu vong có thể đi sau sự thoái hóa và giảm dần. Khía cạnh của vấn đề này đã không được đề cập đến chút nào và để làm việc này thì cần phải tập hợp rất nhiều xương hóa thạch.
- Chúng ta có nên nghiên cứu về những điều này chăng? - Côxtiacôp nói.
- Năm tới, khi quay về Nga, chúng ta sẽ tốt nghiệp trường đại học và...