DỌC THEO ĐẢO CÔTENNƯI
Căn lều làm trên bờ biển đã hỏng nặng. Các thợ săn ít khi đến đảo vì khó đi và thú săn ở đây hiếm. Chỉ khi các đoàn thám hiểm đến, căn lều mới được tu bổ, nhưng đã nhiều năm nó không được coi sóc nên mới bắt đầu dột và thủng lỗ chỗ, còn tường thì đổ sụp xuống. Các nhà du hành thấy không cần phải tu bổ lều vì họ chỉ nghỉ lại có một đêm, và do thời tiết tốt nên họ cắm trại ngoài trời.
Trời vừa sáng, họ đã thức dậy vì nghe tiếng chó sủa một cách điên cuồng.
- Hình như có gấu rồi đấy! - Gôrôkhôp kêu lên, vụt chạy ra ngoài lều không kịp mặc thêm quần áo, súng cầm nhăm nhăm trong tay, những người khác chạy theo anh ta. Một cảnh tượng thú vị hiện ra trước mắt họ. Đứng cách bầy chó mười bước là ba con gấu Bắc cực dáng điệu lưỡng lự, tất cả tám mươi con chó buộc xích đang dựng đứng hai chân sau, sủa rất hăng, chúng gầm và rít lên. Thật là inh tai nhức óc đến người chết cũng phải đứng dậy! Những con gấu cũng nhìn nơi mà các con chó dễ dàng xông tới, để tránh không bị chó cắn vào sườn và mông. Chúng đang tiến về phía những con chó ở xa nhất trong bầy, những con chó này vì bị xích quấn không còn cách gỡ ra nhưng vẫn không ngừng sủa, Vừa vặn lúc này, súng nổ từ cả hai bên lều và một con gấu bị một viên đạn của Oocđin bắn trúng, ngã vật trên mặt đất, hai con kia quay đầu chạy để lại một vệt máu đỏ chảy ròng ròng sau lưng chúng. Những người đánh xe, Gôrôkhôp và Gôriunôp chạy đuổi theo và phút chốc đã đuổi kịp một con, con này rõ ràng bị thương nặng hơn con kia và bị giết ngay. Con thú thứ ba đã biến mất sau một gò băng.
Cuộc săn bắn bất ngờ đã cho các nhà du hành bây giờ có đầy đủ thịt tươi cho mình và cho chó và như vậy họ có thể bỏ lại một số khá lớn cá khô dự trữ trong kho mà họ định xây ở địa đầu phía bắc của đảo.
Xác con gấu lập tức bị lột da và xẻ thịt. Đoàn người lại tiếp tục lên đường đi về phương bắc. Họ phải mất 4 ngày nữa để đến địa đầu phía bắc của đảo vì đảo dài khoảng một trăm tám mươi cây số, bờ biển vẫn trải rộng hơn hai trăm cây số. Ở nội địa thì đó là một lãnh nguyên lởm chởm đá.
Khi đã quá trưa, các nhà du hành đi qua cửa khẩu của sông Retsetnicova và đi gần hết cuộc hành trình dọc theo bờ biển thì thời tiết lại xấu đi. Bầu trời phút chốc bị mây phủ, một cơn gió tây-nam mát nổi lên và tuyết bắt đầu rơi. Họ tiếp tục đi, vượt qua cơn bão tuyết vì không có nhiều băng giá và địa đầu phía bắc của đảo Côtennưi đã tới gần.
Đây là một mũi đất phẳng; gần mũi đất này đoàn thám hiểm của Tôn đã dựng lên một cái lều dùng làm nhà kho phòng khi phải nghỉ lại mùa đông trên đảo. Gôriunôp định dùng cái lều này làm căn cứ với mục đích ấy và làm một nhà kho để chứa thức ăn mà đoàn cần đến khi quay về đất liền.
Căn lều được sửa chữa tốt và các nhà du hành không ngờ lại tìm thấy thức ăn mà đoàn người đi tìm Tôn đã để lại: một số lớn cá khô, một số đồ hộp, một hộp sắt tây lớn đựng mỡ gấu, một vài hộp mì sấy và thậm chí một xác nai ướp lạnh. Trong mùa hè, các đảo trên quần đảo này là nơi ăn cỏ của các bầy nai rừng. Chúng vẫn đi qua băng đến đảo vào mùa xuân và rời đảo vào cuối mùa thu khi biển mới đóng băng. Chúng tiếp tục cuộc hành trình dài này mặc dù có nguy cơ là về mùa thu băng mỏng có thể dễ dàng bị gió đánh vỡ ra. Bầy thú từ đất liền cảm thấy tự do hơn trên quần đảo và được an toàn hơn để tránh kẻ thù chính của chúng là người. Hơn nữa, vào mùa hè chúng không bị các loài bọ quấy nhiễu, Các loài bọ đó thường làm cho cuộc sống của người và vật trên lục địa thật khốn khổ.
Những con nai đã bắt đầu di cư về quần đảo. Có những dấu vết trên tuyết ở nhiều chỗ gần Liakhôpxki nhỏ tất nhiên ngày càng nhiều. Các người đánh xe dự định săn nai trước khi quay về đất liền, do đó sau khi dỡ đồ vật trên các xe trượt tuyết xuống, họ chia tay các nhà du hành và lợi dụng thì giờ ban ngày còn lại đi dọc theo bờ biển phía đông của đảo Côtennưi, định tìm một chỗ mà họ có thể ngủ lại để kiếm chỗ săn. Gôriunôp nhờ họ đưa một bức thư cho Sencơ miêu tả tiến trình của cuộc thám hiểm. Đây là dịp cuối cùng để gửi một bức thư và Gôriunôp hơi buồn khi nghĩ rằng bức thư đến thủ đô vào mùa thu.
Lòng tràn đầy đau khổ, các nhà du hành từ biệt những người đánh xe, dõi theo bóng họ cho đến khi họ khuất sau một chỗ ngoặt trên bờ biển, Sợi chỉ cuối cùng nối họ với phần còn lại của thế giới đã đứt! Bây giờ thì họ lẻ loi, cô độc với những sức lực của mình trên ngưỡng cửa của một vùng đất không ai biết, ở đây, họ không còn trông mong vào sự giúp đỡ của một ai.
Để khuây khỏa nỗi sầu muộn, họ lấy thức ăn và trang bị định dùng cho nhà kho ra gói lại để sáng hôm sau nếu thời tiết thuận lợi, họ có thể đi gấp lên phương bắc. Tháng ba hầu như đã qua, một ngày dài hơn mười ba giờ và khi thời tiết êm dịu, mặt trời khá nóng, làm hỏng băng. Sau khi đã lôi các hòm ra đánh dấu và xếp đặt gọn ghẽ, trong lều còn chỗ khá rộng cho các nhà du hành.
Nhưng gió dịu đi về buổi chiều, đến nửa đêm bỗng mạnh lên khủng khiếp. Nhiệt độ sụt xuống 40° độ dưới không và một cơn bão tuyết nối lên. Lúc rạng đông, Gôrôkhôp và Nhikiphôrôp ra ngoài cho chó ăn, khi quay về nhà bị rét thấu xương và nói rằng không thể đi được nữa. Thời tiết như vậy thì không thể làm được gì ngoài việc trùm chăn ngủ, vì ngồi trong lều chẳng thú vị gì, trong lều tối om và khói tuôn từ ngọn lửa bập bùng trong bếp. Chỉ cần thức dậy khi chuẩn bị thức ăn. Sau đó lại nằm. Ngày thứ hai vẫn nằm lại vì bão tuyết.
Một ngày vô công rồi nghề, kết quả của bão tuyết trôi qua, Nhikiphôrôp khi đang đốt một ngọn lửa trong bếp đã tìm thấy một thanh củi lạ trong đồng củi trong lều. Anh ta xoay đi xoay lại trong tay. Sợ đem đun thì phí đi, anh ta đưa cho Gôrôkhôp.
- Đúng, có thể là móng chân của chim “êchxêkiu”, - anh chàng người Iacut nói sau khi xem kỹ.
- Móng à? Nhưng nó chỉ ngắn hơn cánh tay tôi một chút thôi, - anh chàng Cô-dắc ngạc nhiên kêu lên. - Để có những móng lớn như vậy, chim của anh phải lớn hơn cái lều này. Vậy nó sống ở đâu?
- Các ông già bà cả nói rằng: nó đã từng sống trên đảo Côtennưi. Người đầu tiên đi săn ở đây thấy nó. Matvây Ivanôvich ơi, anh có nghĩ rằng điều ấy đúng không?
Gôriunôp quan sát của bắt được, cười, đưa nó cho Oocđin và nói:
- Đây là sừng của một con tê giác lông len hóa thạch, sống cùng thời với ma-mút. Tôi đã thấy những cái sừng giống như thế ở viện bảo tàng Iacut và ở Pêtecbua, ở viện bảo tàng của Viện hàn lâm khoa học.
- Vậy anh có thể giải thích tại sao người ta lại nói đó là móng chân của một con chim khổng lồ không?
- Bởi vì hình thù và bề mặt của nó có vân làm cho nó càng giống một cái móng, và đó là lý do tại sao người Iucaghirơ, người Lamut và người Tunggut lại tin như vậy. Hơn nữa, một trăm năm về trước, quan niệm này được một số nhà bác học tán đồng. Hedenstrôm, người đầu tiên khám phá ra quần đảo Nôvôxibirơxcơ đã chú ý đến những cái móng này trong cuốn “Những đoạn trích về Xibiri” và khẳng định cương quyết rằng chúng thuộc về con chim ở đảo Côtennưi. Tôn thăm đồi Êchxêkiu gần dòng suối Đragôtxennaya, tại đây, những người hướng đạo quả quyết nói với ông ta là chim này sống. Họ bảo ông ta rằng nó lớn đến nỗi khi nó bay vào không khí thì nó che mặt trời. Khi những người đi săn đầu tiên đến Côtennưi, tiến gần đồi thì chim kêu lên: “Mau mau”, và bay vút đi. Trên đồi, họ tìm thấy một cái vỏ trứng và một vài lông chim to nhưng chim thì từ đó không bao giờ thấy.
- Nhân dân bảo rằng nó có hai đầu, - Gôrôkhôp nói thêm.
- Phải, tôi biết. Điều thú vị nhất là những người Iucaghirơ nghĩ rằng con đại bàng hai đầu trên đồng tiền của chúng ta là chim êchxêkiu. Vranghen ghi lại nhiều truyền thuyết kỳ lạ mà họ thường kể về nó. Họ tin rằng, sọ tê giác đôi khi tìm thấy cùng với sừng là sọ của chim êchxêkiu.
- Ở Xibiri, những thổ dân cũng có nhiều truyền thuyết về ma-mút, - Oocđin nhận xét.
Ngày hôm ấy, để giết thời gian, các nhà du hành hỏi Gôrôkhôp và Nhikiphôrôp về những con ma-mút và những con vật đã bị tiêu vong khác và nói cho họ biết, chính họ đã đọc những tài liệu về những con vật thời tiền sử ấy.