← Quay lại trang sách

NGÀY ĐẦU TIÊN Ở VÙNG ĐẤT XANNHICÔP

Khi trời rạng sáng, sương mù vẫn chưa tan, dày đặc đến nỗi cách năm bước đã không trông thấy bóng người, mọi vật hầu như biến mất trong ánh sáng mờ đục. Ngay gần căn lều, các nhà du hành phải dò đường rất thận trọng bởi vì rìa vách đá chỉ cách đây vài bước.

Họ không thể làm gì khác đành chờ dịp tiếp tục đi tìm một cái đèo để xuống. Họ đốt lửa bằng số củi còn lại mang từ Côtennưi đến. Bầy chó được ăn no và các nhà du hành ung dung ngồi ăn sáng.

Đồng hồ của họ cho thấy rằng mặt trời đã mọc cách đây một giờ, nhưng nó hoàn toàn bị che khuất bởi sương mù chảy qua đỉnh núi giống như dòng thạch loãng tràn qua miệng cốc và chảy qua những đỉnh xa tít.

- Khói từ núi lửa của chúng ta bốc lên, - Côxtiacôp nói đùa. - Đêm nó hoạt động, ban đầu, một ngọn lửa bùng lên và sau đó thì khói bốc lên.

- Hãy cười lên, cười lên, Paven Nhicolaevich ạ. - Oocđin trả lời. - Rốt cuộc, thung lũng này là một núi lửa và sự phát hiện này cũng quan trọng như việc tìm ra Vùng đất Xannhicôp.

- Nhưng có thể có núi lửa giữa băng giá Bắc cực được không? - Côxtiacôp hỏi.

- Tại sao không? Ở Nam cực vẫn còn có hai núi lửa đang hoạt động như Erêbớt và Terơ và một vài núi lửa đã tắt. Tại Bắc Băng Dương, chúng ta thấy những hòn đá núi lửa của nhiều thời kỳ khác nhau ở Grinlen, Xpitxbecghen ở Vùng đất Phơranxơ Dôdep và ngay cả trên đảo Bennet là láng giềng gần nhất của Vùng đất Xannhicôp.

- Tất cả đều rất cổ.

- Không phải tất cả đâu. Aixơlan với nhiều ngọn núi lửa khổng lồ của nó đang hoạt động thì sao?

- Đúng, nhưng ngọn núi này thì nó vượt tất cả những núi lửa về kích thước, - Gôriunôp nhận xét. - Điều này làm cho tôi nghi ngờ giả thuyết của anh,

- Anh nói đúng, nó rất lớn. Tôi cho là nó rộng hai mươi cây số và dài chừng bốn mươi đến năm mươi cây số.

- Kích thước của ngọn núi lửa lớn nhất trên thế giới là bao nhiêu?

- Theo tôi nhớ Mauna-Loa ở Haoai là gần bốn cây số và Hunung-Tengơ ở Giava là gần sáu cây số đường kính.

- Đấy, anh thấy, núi lửa như thế thì chỉ có trên Mặt trăng, làm sao ở trên Trái đất được? - Côxtiacôp nói xen vào.

- Trên Mặt trăng, đó là chuyện thường. Những núi lửa ở đây có từ sáu mươi đến hơn một trăm cây số đường kính. Chẳng hạn, miệng núi lửa Pơtôlômê có đường kính dài một trăm sáu mươi một cây số. Lănggơrơnốt có đường kính một trăm năm mươi tám, đến bảy mươi - chín mươi cây số, có hơn chục ngọn. Hình như tất cả trên Mặt trăng người ta tính được gần ba vạn miệng núi lửa.

- Thật là một cảnh tượng kỳ thú khi tất cả các núi lửa đó đều hoạt động.

Trong khi các nhà du hành đang nói về núi lửa trên Mặt trăng thì mặt trời đã lên và sương mù đã nhanh chóng bị xua tan. Nó dâng lên cao và biến thành màn sương mỏng tan dần trong không khí. Phút chốc, các đỉnh núi trở nên quang đãng, các nhà du hành lại có thể lên đường, nhưng thung lũng vẫn như một biển sữa, mặt ngoài của nó đang từ từ rung động. Họ tiếp tục đi về phía tây vòng theo đỉnh núi đang thấp dần xuống. Cuối cùng, vào khoảng gần trưa, họ đi đến điểm thấp nhất, ở xa xa đất lại dâng cao lên.

- Nếu không có đèo ở đây thì chúng ta phải tìm một cái đèo ở phía bắc, - Gôriunôp tuyên bố.

- Như vậy thì thật là không may, - Oocđin nói. - Bởi vì chúng ta hết củi đun và chỉ có thức ăn cho chó đủ ba ngày.

Họ đi về phía rìa vách đá để nhìn rõ hơn. Phong vũ biểu chỉ cho họ biết là họ chỉ cách mặt biển có một trăm hai mươi thước và có hy vọng họ có thể lần xuống theo từng bậc bằng cách dùng thừng.

- Kia là cái đèo của các anh, - Gôriunôp kêu lên, chỉ tay về bên phải.

Các bạn anh nhìn theo hướng ấy. Một cái dốc dài phủ tuyết chạy từ trên đỉnh núi xuống, bây giờ là một đụn tuyết lớn do bão tuyết dồn lại ở đây. Bão tuyết đã đưa tuyết qua đỉnh núi, nơi đây, nó thấp nhất. Sườn núi hơi dốc và giống như một mái nhà chồng lên với một chỏm rộng, chạy dài đến rìa của một vách đá. Về bên phải và bên trái có những đống tuyết khác nhưng thấp hơn, thành thử chỉ có thể xuống dọc theo chỗ mà Gôriunôp đã chỉ. Họ thử mặt bằng của tuyết nó hầu như cũng tạm đủ để đi, vì chân dẫm xuống chỉ lún sâu bốn, năm phân.

Độ dốc gần 40 độ cho nên những xe trượt tuyết không thể đi xuống cùng với bầy chó buộc vào xe. Do đó, bầy chó không phải buộc dây. Bốn người xếp thành từng cặp vào mỗi cái xe và bắt đầu đi xuống, Côxtiacôp ở lại sau với chiếc xe thứ ba và bầy chó. Khi Gôrôkhôp và Nhikiphôrôp quay về thì anh ta dẫn bầy chó xuống dốc. Không thể để bầy chó đi một mình vì sợ chúng gặp một con vật hấp dẫn, làm cho chúng chạy theo để săn đuổi. Nhưng dẫn ba mươi con chó xuống dốc không phải là chuyện dễ. Khi chúng thấy những xe trượt tuyết và người ở dưới dốc thì chúng chạy rất nhanh, thành thử Côxtiacôp mất thăng bằng ngã lăn kềnh, và trượt bụng trên tuyết làm bụi tuyết bốc mù mịt, khiến những người đứng dưới và ở trên được bữa cười no.

Lần xuống dốc đã kết thúc, họ ngắm nhìn xung quanh. Đất gần những đống tuyết hoàn toàn không có cây cỏ. Mặt trời chỉ chiếu đến nơi này vào giữa mùa hè từ phía bắc, nghĩa là vào lúc ban đêm khi nó xuống thấp và hầu như không còn sức nóng. Hiển nhiên là tuyết còn lâu mới tan và cây cỏ không thể mọc. Nhưng cách khoảng ba chục bước kể từ chỗ tận cùng của các đống tuyết, thì giữa những mảnh và những phiến đá ba-dan rải rác trên đất đã có rêu xanh và những bông hoa thấp đang nở những cánh đầu tiên. Những bụi cây leo chưa có lá mọc hơi xa một chút, cách đó khoảng nửa cây số dưới chân họ có những bụi sum suê chứng tỏ những dấu hiệu đầu tiên của cây xanh. Bên kia là một khu rừng đen sẫm có những cây thấp bé.

Trong bữa ăn trưa, chỉ có chút ít thức ăn với chè đun bằng củi mà họ nhặt nhạnh trên xe trượt tuyết, các nhà du hành thảo luận về vấn đề quan trọng là họ sẽ tiếp tục đi như thế nào. Xuồng, xe trượt tuyết và chó không cần đến nữa, bởi vì không có tuyết ở thung lũng và sông quá nhỏ nên không đi thuyền được.

Ba chục con chó và nỗi lo làm thế nào để cho chúng ăn, đã gây nhiều khó khăn cho đoàn thám hiểm. Hơn nữa, thú săn lại rất nhiều, hấp dẫn bầy chó, còn dẫn chúng đi bằng cách dắt dây xích đòi hỏi phải tập trung sự chú ý và ít nhất ba người trong đoàn phải phụ trách công việc này. Nếu buộc bầy chó vào xe và đi qua bãi cỏ vào rừng thì phải hy sinh các càng trượt và như vậy những xe trượt tuyết trở thành vô dụng trên đường về đầy băng; hơn nữa, còn làm cho chó mệt.

Quyết định duy nhất có thể chấp nhận được là bỏ lại bên những đống tuyết tất cả những thứ quá nặng cùng bầy chó và cử một nhân viên trong đoàn thám hiểm trông coi. Trời mát, người ở lại có thể dùng thời gian để săn bắn lấy thức ăn cho mình và cho chó. Những người khác mang vác nhẹ có thể đi bộ quanh vùng đất Xannhicôp và thỉnh thoảng quay về căn cứ để cất những cái sưu tập được. Gôrôkhôp biết tiếng Tructri và Lamut sẽ làm phiên dịch khi họ gặp người Ônkilôn. Vì thế, Nhikiphôrôp phải ở lại sau để canh các thiết bị và bầy chó. Anh ta có vẻ không bằng lòng về trường hợp bất thường này, nhưng cũng như những thợ săn phương bắc, anh ta không sợ phải sống trong cảnh hiu quạnh ít ngày hay một vài tuần; nhờ có bầy chó anh không còn sợ thú dữ nữa, đồng thời chăm sóc chúng cũng mất không ít thì giờ, cho nên anh không đến nỗi ngồi rỗi.

Các nhà du hành dựng lều giữa hai đống tuyết và dùng thì giờ còn lại trong ngày để sắp xếp các trang bị. Do quyết định đi bộ thăm dò thung lũng, họ không thể mang theo hành lý nặng. Họ chỉ có thể mang theo những cái cần thiết nhất: quần áo thay đổi, một đôi ủng, súng đạn, một cái ấm và một cái nồi. Họ trù tính đi săn để lấy thức ăn và ngủ ở ngoài trời. Lúc gần tối, bầu trời bị mây bao phủ và tuyết ướt, có khi nó biến thành mưa, bắt đầu rơi. Họ phải tìm chỗ trú trong lều.

- Chúng ta đã thấy thời tiết ở đây thế nào rồi, nên chúng ta phải tìm cách giữ gìn những đồ vật chúng ta để lại, kể cả xe trượt tuyết và xuồng, khỏi bị mục nát và hư hỏng trong mùa hè, - Gôriunôp nói.

- Phải làm một cái chòi bằng cành cây và vỏ cây, - Oocđin nhận xét.

- Không, không đủ, hơn nữa chúng ta phải đi xa để tìm vỏ cây, - Gôrôkhôp nói.

- Tại sao không lợi dụng đống tuyết này nhỉ? Tôi chắc rằng phía bên trong, tuyết không tan, chúng ta có thể làm một cái hang trong một ụ tuyết và để tất cả những đồ vật của chúng ta vào đó. Nó sẽ mát, khô và an toàn.

- Phải, và chúng ta có thể đào một cái hang cho chó, - Nhikiphôrôp nói xen vào. - Chúng không chịu được nóng và tôi có thể nhốt chúng ban đêm để chúng khỏi chạy tản mạn.

- Không phải chỉ nhốt ban đêm. Khi đi săn, anh chỉ cần độ hai hoặc ba con, số còn lại có thể nhốt trong hang. Nếu anh không làm như thế, không bao giờ anh bắn được một con thú nào cả và chỉ làm cho những con vật khác sợ và chạy hết thôi, - Gôrôkhôp bình luận.

- Đúng lắm, một ý kiến hay tuyệt, - Gôriunôp nói. - Sáng mai, việc đầu tiên là chúng ta đào hang.

Đêm ấy trong lều lạnh và không ấm cúng, không có chất đốt và bữa ăn chiều được nấu trên một ngọn lửa do các nhà du hành tìm cách nhóm lên bằng những que củi và cành cây họ nhặt ở các bụi. Cho nên họ đi ngủ sớm. Nhưng những tiếng gầm rống, be be, vọng từ thung lũng đến thường làm cho những con chó hoảng sợ. Tiếng chó sủa làm cho các nhà du hành ngủ được rất ít.

- Tôi không muốn ghen với Capitôn, anh ta phải ngủ gần những con chó ấy, - Côxtiacôp càu nhàu trong một lần chúng sủa.

- Trong hang chúng sẽ yên tĩnh hơn, - Gôriunôp trả lời và quay lưng lại.

Buổi sáng họ bắt đầu làm việc. Họ dùng rìu để mở một đường hầm sâu trong đống tuyết gần nơi nó tiếp giáp với một vách đá ba-dan. Dưới một lớp tuyết, họ chạm phải băng cứng chắc có sẵn ở đây hàng trăm năm thành thử không sợ bị tan trong suốt mùa hè. Trong hang, họ chất tất cả những đồ vật không cần thiết, chiếc xuồng và hai xe trượt tuyết, sau đó họ bịt lối ra vào bằng những miếng băng làm cho nó kín gió, ấm và an toàn, đề phòng thú dữ có thể tìm thấy đường vào trong trường hợp Nhikiphôrôp đi vắng. Ở gần đấy, họ còn làm ba cái hang nhỏ hơn, mỗi hang cho mỗi bầy chó.

Chiếc xe trượt tuyết thứ ba được để lại cho Nhikiphôrôp dùng, để anh ta có thể chở củi và thú săn từ khu rừng về.

Người Côdắc rất thú những cái hang này và dự định làm hai cái nữa, một cái dùng làm kho chứa thịt, một cái dùng làm nơi cắm lều ở trong đó để cảm thấy an toàn trước mọi sự tấn công. Một người khách không mời mà đến chỉ có thể vào hang từ một phía chứ không phải từ mọi phía như trong trường hợp lều ngoài trời và chỉ cần hai con chó ở cửa ra vào là đủ để bảo đảm an toàn tuyệt đối.

Công việc này chiếm gần hết cả ngày, tất cả thì giờ còn lại, họ dùng để dạo chơi ở rìa một khu rừng gần nhất, và nhặt củi dùng cho buổi tối.