← Quay lại trang sách

NHỮNG CON VẬT KỲ LẠ

Trời chưa sáng hơn, nhưng vì không mưa và không có sương mù nên bốn nhà du hành có thể bắt đầu cuộc thám hiểm. Balô trên lưng và súng trên vai, họ đi về phương bắc, mang theo hai con chó thông minh nhất trong bầy thường dẫn đường, một con đen và một con trắng, con đầu gọi là Cơrốt và con thứ hai gọi là Belukha. Nhikiphôrôp với con thứ ba gọi là Pêxơtơrutca tiễn chân bạn, đi để kiếm thêm một ít thịt cho người và chó cho những ngày gần đây.

Cách các động tuyết càng xa, cây cỏ càng phong phú, rêu nhường chỗ cho cỏ và chẳng bao lâu họ gặp những cây bạch dương, liễu và trăn của Bắc cực. Ở đây, về buổi trưa mặt trời làm cho đất ấm lên mỗi ngày được vài giờ, do đó cây cỏ đâm chồi nẩy lộc. Ở sâu trong thung lũng thì các bụi cây lớn hơn, cuối cùng người ta thấy những cây tiêu biểu của vùng ôn đới: lạc diệp tùng, bạch dương, trăn và đây đó những bông hoa khoe sắc muôn hồng ngàn tía. Cây cao chừng ba hoặc bốn mét và mọc thành các cánh rừng nhỏ, xen kẽ với bãi cỏ.

Ở một trong những khu rừng này, những con chó bị buộc dây có vẻ điên cuồng, chúng bắt đầu kéo dây và gầm gừ. Các nhà du hành tháo súng và tiến đến bìa rừng một cách thận trọng.

Ở đây, trong một đồng cỏ, họ thấy một bầy thú lớn đang ăn. Lưng chúng đen, chúng có những cái bướu khá lớn, còn đuôi thì nhiều lông tơ và ngắn trông như bút lông lớn. Khi một con ngẩng đầu lên thì các nhà du hành thấy nó giống đầu con bò, chỉ có điều khác là nó ngắn, bè to và có sừng dài cong vểnh lên phía trước. Con vật đã đánh hơi thấy sự nguy hiểm. Nó rống to lên làm cho cả bầy hoảng sợ.

Không để lỡ một phút, Gôriunôp bắn con bò gần nhất. Nó chồm lên và ngã lăn ra. Những con khác hoảng sợ chạy giạt sang một bên, chúng hỗn loạn nhưng không chạy trốn. Sừng của một số con ngắn hơn và mảnh hơn, họ cũng có thể đoán những con bê thuộc nhiều lứa tuổi.

Các nhà du hành cởi dây buộc chó và chạy đến bên con bò bị thương. Thấy bóng người, cả bầy quay đầu chạy nhưng những con chó đã lùa được một con bê, con này bị Nhikiphôrôp bắn chết. Khi con bò bị thương thấy các nhà du hành tiến lại gần, nó cố vùng dậy xông về phía họ, và rống lên một tiếng dữ tợn, đầu cúi xuống, đôi sừng lớn của nó đưa về phía trước, một vệt máu tươi ròng ròng sau lưng nó. Nhưng những con chó chạy đến bên sườn nó và làm cho nó quẫn trí xoay mình lại và bị trúng hai viên đạn ngã vật xuống. Các nhà du hành chạy đến chỗ con thú và ngạc nhiên nhìn nó.

- Chắc chắn không phải là một con bò xạ rồi, - Côxtiacôp nói. - Lông ngắn hơn, đầu và sừng không giống...

- Phải, nó giống con bò mộng Tây tạng mà tôi đã thấy trong một vườn bách thú, - Gôriunôp nói.

- Nhưng ở phía Bắc, đại biểu duy nhất của họ này là giống bò xạ Ovibos moschatus, và nó sống ở Bắc Mỹ chứ không phải ở châu Á, - Oocđin nhận xét.

- Anh nói đúng và tôi dám chắc rằng con vật này không phải là bò xạ.

- Nhưng làm thế nào một con bò Tây tạng lại đi xa ít nhất đến mười ngàn cây số như vậy?

- Đó lại là một câu đố khác mà Vùng đất Xannhicôp đặt ra cho chúng ta, - Côxtiacôp nói. - Có lẽ người Ônkilôn đã lùa chúng đến đây và chúng ta đang xâm phạm quyền lợi của họ chăng?

- Không, những con vật này là dã thú, - Gôrôkhôp nói. - Tôi chưa bao giờ thấy những con vật như vậy ở nước ta.

- Để giải đáp câu đố này, ít nhất chúng ta phải giữ gìn và mang theo sọ và sừng của nó, - Gôriunôp nói. - Nếu tôi không nhầm thì sừng của một con bò Tây tạng cong, to và vểnh lên trên, còn đuôi của nó ngắn và dày hơn.

Lúc này Nhikiphôrôp xuất hiện cùng với con bê anh ta bắn được. Con này mới sinh được hai hoặc ba tuần lễ.

- Nó mà đem quay thì ngon lắm, - anh ta nói. - Đã bao năm nay tôi chưa được ăn thịt bê.

- Đi về trại đi, Capitôn, - Gôriunôp ra lệnh, - và mang xe trượt tuyết đến. Khi anh đi rồi thì chúng tôi sẽ lột da con vật.

Nhikiphôrôp cùng với con chó Pêxơtơrutca đi về theo hướng đống tuyết đối diện với một vách đá đen hiện trên khu rừng có cây thấp lè tè.

Trong lúc những người còn lại lột da bò và bê, Gôriunôp đo kích thước của chúng và ghi chép những dấu hiệu của chúng thì một vài con chim lớn giống chim kền kền đã tụ tập trên đồng cỏ. Chúng hy vọng những thợ săn sẽ để lại một cái gì cho chúng, nhưng chúng đã thất vọng, vì anh chàng Nhikiphôrôp khôn ngoan đã đưa tất cả bầy chó đến cho chúng ăn no ngay tại chỗ và như vậy thì giảm nhẹ được những thứ anh ta phải mang về trại. Trước khi từ giã, các nhà du hành dặn dò Nhikiphôrôp giữ gìn sọ và da các con vật, khi anh muốn đi bắn, nên cất chúng vào trong hang.

Bốn nhà du hành lại tiếp tục đi. Xa xa, từ rìa thung lũng, cảnh tượng đổi khác. Cây cao hơn và cỏ tươi tốt hơn. Dương, liễu, hoàn diệp, dã anh, kim ngân, tầm xuân và một số cây khác xuất hiện. Một số cây đã đâm chồi nảy lộc, một số cây đang nở hoa. Cây cỏ ở đây làm Gôrôkhôp ngây ngất. Anh ta chưa bao giờ thấy cảnh vật như vậy quanh Cadatrie và dọc theo bờ biển, còn tất cả những cuộc du ngoạn của anh về phía nam chỉ vào mùa đông mà thôi. Những người khác cũng ngạc nhiên khi thấy ở đây, ở vĩ tuyến 80 này, những loại cây vốn không bao giờ có trong vùng Xibiri Bắc cực lại mọc tươi tốt thế này.

Cũng như trước, đồng cỏ xen với rừng, chỉ có điều là rừng bây giờ rậm hơn. Những con bò đang gặm cỏ trên hai cánh đồng cỏ và những nhà du hành ngắm nhìn chúng một cách thú vị. Khi đoàn người tìm cách lại gần chúng để nhìn cho rõ hơn thì cả bầy chạy trốn. Điều đó chứng tỏ rằng có người trong thung lũng đã săn bắn chúng nhưng không có súng lớn vì tiếng nổ của súng trường không làm cho chúng sợ hãi. Giữa một đồng cỏ khoảng tám cây số kể từ rìa thung lũng các nhà du hành nhận xét rằng ngoài những con bò đen còn có một vài con vật màu nâu cũng cao như vậy. Khi một con ngẩng đầu lên, Gôrôkhôp kêu lên:

- Matvây Ivanovich, đó là một con ngựa!

- Giống như ngựa, anh có cho là nó đã được thuần hóa hay không?

- Không thể. Chúng đều giống nhau về màu sắc màu nâu và có vằn đen chạy xuống tận mông đuôi và bờm mỏng hơn, tai dài hơn, - Oocđin dùng ống nhòm quan sát bầy thú và báo tin.

- Chúng giống loại ngựa hoang mà Pơrơdevanski phát hiện ở Trung Á, - Gôriunôp nói.

- Nhưng ở đây, giữa băng giá Bắc cực thì sao? Đó lại là một câu đố khác về vùng đất kỳ lạ này, - Côxtiacôp kêu lên.

- Chúng ta hãy thử tiến lại gần xem sao.

Đi vòng quanh đồng cỏ, các nhà du hành tìm cách lại gần bầy ngựa. Chúng đang gặm cỏ xa bầy bò: một con rõ ràng là ngựa đực già và là con đầu đàn, thỉnh thoảng ngẩng đầu lên quan sát đồng cỏ. Lỗ mũi nó nở rộng để hít khí trời. Bỗng chốc, thấy người, nó hoảng sợ hí lên, tiếng hí giống tiếng lừa, và cả bầy khoảng hai mươi con lớn và mười con bé lồng lên, đầu ngẩng cao và đuôi vểnh lên.

- Đồ chết tiệt, bầy thú đã chuồn mất, - Gôrôkhôp nói. - Tôi muốn chúng ta hạ thủ một con bé, thịt nó ngon.

- Để làm gì? Chúng ta đã có đủ thịt cho ngày hôm nay và dại gì mà làm cho nặng gánh, với lại, tại sao chỉ giết để mà giết?

- Về vấn đề sưu tập thì sao? - Oocđin hỏi. - Ngựa hoang đã hiếm, còn ngựa hoang này rõ ràng là một loài đặc biệt.

- Những con ngựa thường biến thành ngựa hoang, - Côxtiacôp góp ý.

- Không đời nào! Những con ngựa của chúng ta lông trắng và một số ít lông xám hoặc đốm xám, - Gôrôkhôp nói.

- Và thân hình của chúng có khác, - Gôriunôp nói thêm. - Hiển nhiên, do một vài điều kiện sống ở đây, nên từ trước đến nay, chúng ta không thể giải thích về những con vật thời kỳ địa chất trước đã chết đi ở những nước khác lại vẫn tồn tại ở Vùng đất Xannhicôp.

- Cũng giống như ở châu Úc người ta vẫn có thể thấy những con chó hoang, con cang-gu-ru và những giống vật có túi kỳ lạ khác, những loài có vú nguyên thủy, những con chim không cánh và những cái gọi là vật hóa thạch sống khác, - Oocđin giải thích.

- Rồi anh lại bảo tôi rằng ma-mút, tê giác lông len, gấu hang và một số con khác ở thời kỳ tiền sử có thể sống ở đây, - Côxtiacôp cười.

- Rất có thể, nếu loài người chưa tiêu diệt chúng, - Gôriunôp trả lời.

- Và điều lý thú là vùng đất Xannhicôp sẽ nổi tiếng trên thế giới bởi vị trí, hình dáng của nó và bởi vật hóa thạch của nó, Oocđin nói thêm.

- Hãy đi đến cái hồ ở giữa đồng cỏ kia kìa, - Côxtiacôp gợi ý. - Theo cách chúng ta phát hiện sự vật thì chúng ta có thể tìm thấy con hà mã ở đó.

- Con hà mã không phải là một vật hóa thạch,-Gôriunôp chữa lại. Và chúng sống hàng đàn trên những con sông ở châu Phi. Tôi dám chắc rằng không có con nào ở đây.

Nhưng họ không thể đi đến hồ được vì đất ở đây quá lầy lội và gần hồ, có một chỗ lầy không đi qua được, lại thêm cây cỏ mọc um tùm ở đầm lầy. Rõ ràng là cái hồ này trước đây rộng hơn, nhưng dần dần thu hẹp lại do cây cỏ lấn ra từ bờ. Các nhà du hành phải quay về mà không nếm được nước và xem có cá hay không. Dĩ nhiên không có vấn đề về một con hà mã sống trong hồ nữa, thân thể nặng nề của nó sẽ làm nó rơi tõm xuống chỗ lầy lội.

Sau đồng cỏ này là bắt đầu khu rừng rậm và cao, với những cây cối rậm rạp, những cây non và bụi rậm đến nỗi nếu không có những con đường nhỏ thú rừng đi, các nhà du hành phải đi rất khó khăn.

Đang đi trên một trong những con đường ấy, họ nghe tiếng hót líu lo của nhiều loại chim khác nhau, tiếng gù của con chim cu và của con chim tu hú từ xa vọng lại yếu ớt. Họ thấy chim giẻ cùi, ác là, quạ nhỏ và một đôi đại bàng. Đại bàng bay cao trên bầu trời để tìm mồi trên đồng cỏ.

- Thật lạ lùng, - Gôriunôp kêu lên. – Người ta có thể nghĩ rằng, chúng ta ở một nơi nào về phương nam của Xibiri chứ không phải ở dưới 10° vùng Bắc cực.

- Phải, và vị trí của mặt trời quá thấp, mặc dầu đã trưa, đó là dấu hiệu duy nhất chứng tỏ chúng ta đang ở cực Bắc, - Oocđin chỉ tay.

- Những đỉnh núi đen, tuyết phủ thành từng sọc của dãy núi bao bọc thung lũng này làm tôi nhớ đến thung lũng của sông Irơcut quê hương tôi với những dãy núi Tunkin dọc theo thung lũng, - Côxtiacôp nói, - trong khi cây cối và những con chim làm tăng thêm ảo ảnh.

Trong đồng cỏ tiếp theo, cũng có một cái hồ ở trung tâm đồng cỏ, có một vài con bò và ngựa. Các nhà du hành quyết định dừng lại trên rìa đồng cỏ, để quan sát bầy thú, đồng thời nấu bữa ăn trưa. Con suối nhỏ chảy từ hồ ra và qua cánh đồng cỏ nên có thể lấy nước sạch được. Họ dừng lại ngay trên con đường nhỏ lối đi từ hồ ra đồng cỏ, giữa các lùm cây, họ nhanh chóng nhóm lửa, bắc ấm nước và đặt chảo lên nấu cháo, thái thịt bê, treo thịt lên các que nhỏ rồi nướng. Trong lúc chờ đợi, họ nấp sau các bụi cây gần con đường nhỏ và từ đây qua các khe hở có thể quan sát những con vật đang ăn cỏ.

Bỗng từ rừng sâu có tiếng chân huỳnh huỵch chạy lại rất nhanh. Các nhà du hành hoảng hồn, nằm rạp trong bụi và thấy một con vật to lớn, màu nâu sẫm, chạy vụt qua và rống lên ồ ồ.

- Cái gì thế? Con quái vật gì vậy? - Gôrôkhôp hỏi, giọng thì thào một cách sợ hãi.

- Các anh có thấy cái sừng lớn trên mõm nó không? - Gôriunôp, cũng hoảng sợ không kém, hỏi.

- Và cái đuôi nhỏ cong lên như đuôi lợn? – Côxtiacôp nói thêm.

- Đây, vết chân của nó đây, - Oocdin nói và chỉ vào dấu chân trên một chỗ ướt của con đường nhỏ, nơi mà họ đã đổ nước thừa ra; dấu chân này có đường kính khoảng mười tám xăng-ti-mét, và ở phần cuối có những đường rạch do móng con thú để lại.

- Phải, chúng ta vừa thấy một vật hóa thạch khác, một con tê giác lông len, - Oocđin nói.

- Con vật tử tiệt! - Côxtiacôp kêu lên. - Nó đi khỏi và làm hỏng cả bữa ăn của chúng ta.

Quả vậy, con tê giác đã làm loạn cả lên khi nó chạy vụt xuống con đường như một cơn lốc, cái nồi đựng cháo nằm lăn lóc trong bụi. Cháo đổ sạch, thịt vương vãi trên cỏ, những que củi và những miếng thịt bê nướng bị xéo nát, ấm thì đổ nghiêng.

- Phải nấu lại thôi, - Gôrôkhôp nói và cười xòa. Anh nhặt ấm và nồi rồi đi lấy nước.

- Con vật vụng về làm sao! - Côxtiacôp vừa càu nhàu vừa nhặt thịt. - Dường như, con đường nhỏ không đủ chỗ cho nó.

- Lần sau, - Gôriunôp cười, - chúng ta sẽ không cắm trại lên lối đi của loài vật nữa.

- Còn một con vật nữa đi lối này! - Oocđin kêu lên và nhảy ào vào bụi cây, những người khác cũng làm theo.

Một vài giây sau, ba con tê giác, con này nối tiếp con kia chạy vụt qua và rống lên rất to. Lần này các nhà du hành nhìn rõ hơn. Dẫn đầu là một con tê giác đực, có một cái sừng lớn trên mõm và một cái sừng nhỏ hơn trên đỉnh đầu. Con thứ hai là con cái có một cái sừng nhỏ. Đằng sau là một con tê giác bé không có sừng, con này cố gắng theo kịp bố mẹ nó bằng đôi chân ngắn. Tất cả đều có lông thưa nhưng hơi dài và nâu.

- Này, các cậu ơi, hãy coi chừng! - Gôriunôp báo cho các bạn mình. - Hình như chúng bị một con thú khác đuổi. Các cậu chuẩn bị súng nhé!

Gôriunôp vừa dặn các bạn xong thì một con vật to lớn xuất hiện trên lối đi. Người ta dễ dàng nhận ra đó là một con gấu, nhưng một con gấu rất to. Nó chạy lảo đảo, đầu cúi sát đất và đang ngửi. Thấy lửa cháy âm ỉ trên đường đi, nó dừng lại, ngẩng đầu lên, mồm há to để lộ những chiếc răng to và cái lưỡi đỏ. Ngay lúc đó, những con chó tấn công đằng sau nó, nó quay ngay lại và chạy vào rừng rậm, gầm gừ một cách tức tối.

- Các cậu ơi! - Gôriunôp gọi to. - Chúng ta hãy đến đồng cỏ, nếu ở lại đây thì bầy thú chẳng những ngăn chúng ta không nấu ăn được mà còn làm cho chúng ta ăn không yên nữa.

- Thật là một con gấu già lực lưỡng! Trong đời tôi, tôi chưa bao giờ thấy một con vật lớn như vậy, - Gôrôkhôp nói và bò ra khỏi bụi rậm.

- Nó quả là to nhưng không thật là can đảm nên bầy chó có thể làm cho nó hoảng sợ. - Oocđin cười. - Các anh có biết không, tôi dám chắc nó không chỉ là một con gấu nâu rất lớn nhưng là một con gấu hang hóa thạch sống cùng thời với tê giác lông len và ma-mút. Các anh có nhận thấy hàm răng nó không?

- Có nghĩa là, lại một con vật hóa thạch nữa. Bộ sưu tập của chúng ta tăng lên rất nhanh đến nỗi trở nên rất khác thường, - Côxtiacôp nói.

- Phải, chúng ta cần phải chụp tất cả những động vật hóa thạch này trong khung cảnh thiên nhiên, nếu không thì chẳng ai tin chúng ta, - Gôriunôp nhận xét. - Thật là đáng tiếc, chúng ta mang theo ít loại kính ảnh khắc hình quá, nhưng ai ngờ rằng Vùng đất Xannhicôp là một vườn bách thú, hay nói đúng hơn là một vườn bách thú hóa thạch.

- Nhikita, bây giờ anh có thể nói với đồng đội của anh rằng trên mõm con tê giác anh thấy cái sừng mà họ lại cho là móng của một con chim êchxêkiu.

- Tôi thấy một con vật giống như vậy trước đây.

- Bao giờ? Đêm qua ư?

- Không, lâu rồi, trên sông Atrađa, con sông chảy vào Iana từ hữu ngạn, xác một con vật giống như thế trôi ra khỏi bờ về mùa xuân và nằm gần mặt nước. Những con cáo Bắc cực đã ăn sạch mặt và dạ dày của nó khi tôi thấy nó. Lúc đó quận trưởng của chúng tôi báo tin lên tỉnh trưởng và tỉnh trưởng gửi một quan chức đến để tìm con vật. Nhưng khi viên quan chức này đến thì không còn tìm thấy gì, tất cả thịt đã bị cáo Bắc cực chén sạch và sông đã vùi xương nó.

- Đó là điều thường xảy ra cho những vật tìm được như thế, - Gôriunôp nói. - Bây giờ có kẻ tình cờ phát hiện chúng và báo tin cho một quan chức, viên quan chức báo cáo cho Viện hàn lâm ở Petecbua, viện hàn lâm cứ một nhà bác học đến điều tra. Nhiều tháng trôi qua. Trong lúc đó, chim, thú vật và các con sông vẫn làm công việc của chúng. Vô số những vật hiếm tìm thấy được đã bị mất đi theo kiểu này.

- Phải, chúng ta sẽ mang về một cái gì đó tốt hơn, - Oocdin nói. - Da, sọ và ảnh chụp không phải của những động vật chết mà của những vật dù hóa thạch nhưng vẫn sống.

- Ảnh thì có thể chở được, nhưng chúng ta cần phải chọn ít sọ và da thôi vì chúng nặng và to, còn chúng ta thì chỉ có ba xe trượt tuyết, - Côxtiacôp nhắc anh ta.

- Anh sẽ không chở sọ và da của một con ma-mút bằng những phương tiện vận chuyển chúng ta có, - Gôriunôp cười.

- Anh cho là chúng ta thấy một con ma-mút sống, tôi giả định như vậy, - Côxtiacôp nói giọng mỉa mai.

- Tại sao không? Nếu tê giác sống và nhân lên ở đây như chúng ta đã thấy thì không có lý gì ma-mút lại không như vậy.

- Phải, tôi phải nói rằng nếu có ma-mút thì những người Ônkilôn của anh đã làm cho nó chết từ lâu.

- Tại sao họ phải làm như vậy? Họ không cần đến ngà, họ không bán cho ai được. Hơn nữa, có nhiều con thú săn khác và anh cần phải nhớ rằng không phải dễ dàng có thể bắn gục nó xuống mà không cần đến súng.

- Thời kỳ đồ đá, con người săn ma-mút với những vũ khí thô sơ nhất.

- Đó là tôi đoán, Matvây Ivanovich ạ, - Gôrôkhôp xen vào. - Nếu có loại ma-mút mà anh đã nói về đời sống của chúng ở đây thì dân cư của thung lũng này sẽ thờ phụng chúng như một thiên thần, như một con chim êchxêkiu.

- Rất có thể, Nhikita ạ, chính vì vậy mà tôi hy vọng chúng ta sẽ thấy con vật này.

Họ thu thập đồ đạc, đi đến rìa cánh đồng cỏ gần suối và lại nhóm một ngọn lửa. Đồng cỏ vắng tanh. Có lẽ tiếng chân thình thịch và tiếng rống của tê giác đã làm cho bò và ngựa sợ hãi chạy trốn.

- Chúng cũng đã làm hỏng các đồ vật của chúng ta ở đây, - Oocđin nói. - Tôi đang hy vọng lớn đến chỗ các con ngựa và bò để chụp lấy một vài kiểu ảnh trong khi chúng ta đang nấu bữa ăn chiều.

- Tất cả chỉ còn lại chim, chúng chỉ tổ làm mồi cho chim lò, - Côxtiacôp nói, chỉ tay vào một đàn vịt bay trên hồ.