← Quay lại trang sách

HỒ BONG BÓNG

Khi không còn sự quấy nhiễu tiếp tục nữa, họ bắt đầu ăn trưa, nghỉ ngơi rồi tiếp tục đi, họ đi gần bờ một con suối với hy vọng rằng con đường này sẽ dẫn họ đến hồ. Niềm hy vọng này được lý giải rằng: mặc dầu đồng cỏ càng trở thành đầm lầy, nhưng họ vẫn đi dọc bờ suối được và bỗng chốc trước mắt họ hiện ra một mặt nước rộng khoảng nửa cây số đường kính, xung quanh sậy mọc xanh rì. Lá của những cây hoa súng lớn mọc bên dòng nước trôi cùng với loại lá nhỏ của củ ấu trụi (Trapa natans), một loại cây hầu như đã mất trên thế giới, nhưng ở đây lại mọc rất nhiều. Đáy hồ có rong tảo bao phủ và sâu dần xuống, những con bọ cánh cứng sống ở đó và những đàn cá nhỏ lội tung tăng lách qua những cây mọc ở dưới nước. Xa xa trên mặt hồ là những con vịt, ngỗng và hải âu đang bơi lội, sóng vỗ oàm oạp, ở các chỗ khác nhau những con cá lớn đang quẫy. Những tia nắng xiên của mặt trời buổi trưa xuyên qua mây và soi sáng cảnh tượng thanh bình của đời sống sung túc ở đây mà người ta không thể quan niệm được có thể có ở vĩ độ này.

- Dòng suối không chảy vào hồ mà lại từ hồ chảy ra, - Gôriunôp nhận xét.

- Vậy chúng ta có thể rút ra kết luận gì?

- Kết luận là nước của thung lũng này phải chảy ra biển. Nói một cách khác, có một cái đèo ở đâu đây trên những dãy núi bao quanh.

- Chúng ta hãy giả định rằng có cái đèo thật.

- Chúng ta phải phát hiện xem có đèo không, vì những đống tuyết mà từ đó chúng ta đi xuống thung lũng này về mùa hè sẽ thấp đi rất nhiều và chúng ta không thể đi về được. Rút cục chỉ có một cái đèo trong dãy núi là thế cho phép chúng ta rời khỏi thung lũng.

- Nhưng có thể không có đèo nào cả, - Oocđin nói. - Nước có thể chảy vào trong một sông ngầm ở dưới lòng đất. Thường có những sông ngầm như vậy trong các lớp phún thạch. Anh có nhớ những con cá heo ở quần đảo Haoai mà anh học trong giáo trình về địa chất của anh không?

- Đó là những gì vậy? – Côxtiacôp hỏi.

- Đó là những đường hầm dài trong phún thạch chạy dài từ biển vào sâu trong nội địa. Khi có thủy triều thì những đường hầm này đầy nước chảy từ những cái khe, chẳng khác gì những đài phun nước. Do đó mà chúng có tên gọi như vậy.

- Tôi phải nói là tên gọi như vậy không đúng, bởi vì cá heo không phun nước như cá voi mà chỉ tung nước lên khi chúng nô giỡn, - Gôriunôp nhận xét. - Nhưng thật không may nếu không có đèo, nghĩa là cần phải đợi cho đến cuối mùa đông, khi các đống tuyết lại trở nên cao.

- Điều đó chẳng quan hệ gì. Chúng ta dự định nghỉ đông ở Vùng đất Xannhicôp, nếu có thể được. Theo chỗ chúng ta thấy thì rõ ràng có thể thực hiện được.

Trong lúc đó Gôrôkhôp đang mải nhìn hồ, bỗng cắt đứt câu chuyện bằng một tiếng kêu:

- Nhìn kìa, có cái gì ở kia kìa, có một con quái vật đang bò ra khỏi mặt nước.

Ở giữa hồ, nước đang dâng lên, có hình phồng phồng của một cái bong bóng. Bỗng cái bong bóng vỡ tan và một làn hơi nước trắng bốc lên, tan nhanh trong không khí, Các làn sóng xoáy tròn ở đây lan rộng ra khắp mặt hồ làm cho những con chim đang bơi phải lảo đảo vì chúng.

- Có thể là một con cá voi hoặc một con vật lớn khác ở đáy hồ, - Gôrôkhôp gợi ý.

- Cá voi không sống ở nước ngọt, - Gôriunôp bình luận. - Nhưng tôi muốn hỏi cái gì gây ra bong bóng?

Trong lúc đó, Oocđin lấy một cái hàn thử biểu ra khỏi hòm và nhúng xuống nước. Gôrôkhôp cười, cho rằng dùng phương pháp này để phát hiện sinh vật nào sống ở trong hồ là phi lý.

- Các anh hãy tưởng tượng: 25°C, - Oocđin thốt lên.

- Khí hậu đầu xuân đang ở tận phía bắc mà lại có 25°ư! Không thể tin được! - Côxtiacôp nói. - Anh có dám chắc rằng anh không sai lầm giữa mười hoặc gấp hai như thế không?

- Anh hãy nhìn, nếu anh không tin tôi. Nhưng làm thế nào mà giải thích được?

Căn cứ vào sự việc vừa xảy ra, cái hồ này rõ ràng có một con suối nước nóng ngầm hoặc có lẽ đúng hơn là có nguồn hơi nước nóng. Điều này phù hợp với giả thuyết của tôi: thung lũng này là miệng của một ngọn núi lửa mà thỉnh thoảng lại tỏa nhiệt qua những chỗ nứt.

- Chúng ta phải chờ xem có một cái bong bóng khác nổi lên không, - Gôriunôp nói.

- Phải, và nếu có nhiều hồ như thế này ở trong thung lũng thì chúng ta đã phát hiện ra một trong những lý do về khí hậu ấm áp ở Vùng đất Xannhicôp.

Những làn sóng xoáy tròn đã dịu đi, mặt hồ lại phẳng lặng như một tấm gương. Các nhà du hành kiên nhẫn chờ; Gôriunôp cầm đồng hồ trong tay. 32 phút sau lần nổi bong bóng thứ nhất, nước hồ lại dâng lên một cái bong bóng cao đến gần hai mét trước khi vỡ để thoát hơi ra.

- Tôi nghĩ rằng điều giải thích của anh là đúng, Gôriunôp nói. Điều mà chúng ta đang quan sát là sự thoát ra có tính chất chu kỳ của hơi nước hoặc không khí nóng bốc ra từ lòng đất, trực tiếp hoặc nhờ nước hồ mà làm ấm thung lũng

- Phải, và chúng ta đã thấy một vài cái hồ như thế này khi chúng ta đứng trên vách đá.

- Tôi vẫn nghĩ đó là một vòi nước phun ra từ miệng một con cá voi, - Gôrôkhôp nói, - đối với anh ta hiện tượng phún xuất của núi lửa hoàn toàn không rõ.

- Làm sao mà con cá voi lại có thể vào trong hồ này được hở Nhikita? Chắc chắn là nó không thể trèo qua những ngọn núi này.

- Làm thế nào mà tê giác, bò và ngựa vốn không thể trèo qua vách đá lại có thể đến đây được? - Côxtiacôp hỏi.

( thiếu 16 trang )

NHỮNG DẤU HIỆU ĐẦU TIÊN VỀ NGƯỜI GẶP NGƯỜI ÔNKILÔN

phiu chạy qua đồng cỏ, dọc theo một cái hồ nhỏ, gần đó có dấu chân giầy bằng lông mềm, người ta có thể dễ dàng nhận ra chúng trên mặt đất ẩm ướt.

- Đây không phải là những người ở thời kỳ đồ đá, - Gôriunôp kêu lên. - Nếu là dân tộc thời kỳ đồ đá thì chân họ không đi giầy.

- Vì họ cũng đi giầy như những dân tộc phương bắc chúng ta, cho nên chắc phải có liên quan tới những dân tộc này và chúng ta không nên sợ gì cả, - Oocđin nói thêm.

Khi họ đi vòng quanh hồ, thì những bụi sậy đã che mắt họ không cho họ thấy được bờ bên kia đồng cỏ, họ đứng trước một ngọn đồi xanh có khói tỏa trên đỉnh. Bên cạnh đồi có người. Một người đang đứng trên đồi và có vẻ đang chăm chú nhìn đồng cỏ. Thấy những nhà du hành xuất hiện ở phía sau hồ, người này báo tin cho những người kia, làm mọi người xôn xao. Gần ba chục người xếp thành hàng dài đi qua đồng cỏ và tiến về phía các nhà du hành. Khi họ đến gần, người ta thấy họ có đầy đủ vũ khí; mỗi người có một cái giáo dài cầm ở tay phải và một cái cung ở tay trái, những mũi tên đuôi có lông chim thò ra trên vai.

Những chiến binh dừng lại cách các nhà du hành khoảng một trăm bước, một người đi theo đường hẹp chắc là thủ lĩnh, giơ tay lên và nói điều gì đó.

- Hắn đang nói gì? Nói bằng thứ tiếng nào? - Gôriunôp hỏi Gôrôkhôp.

- Giống tiếng Tructri, – Nhikita trả lời. - Hắn ra lệnh cho chúng ta giơ hai tay lên để chứng tỏ chúng ta đến đây không phải để gây chiến.

Các nhà du hành giơ tay lên. Các chiến binh vẫn tiếp tục tiến đến, nhưng khi khoảng cách chỉ còn vài chục bước thì họ dừng lại vì thủ lĩnh của họ ra hiệu. Bây giờ người thủ lĩnh mới hỏi:

- Các anh là ai, từ đâu đến và đến đất nước của chúng tôi làm gì?

- Bảo với anh ta rằng chúng ta là người da trắng từ phương nam, từ một nước lớn đến đây để xem cái vùng đất nhỏ nằm giữa băng giá này, - Gôriunôp ra lệnh.

Gôrôkhôp làm phiên dịch cho Gôriunôp.

- Lại đây, những người da trắng, nhưng nên nhớ rằng chúng ta đông và có đầy đủ vũ khí, - người thủ lĩnh nói.

Các nhà du hành tiến lại gần, ba mươi cặp mắt cảnh giác theo dõi từng cử động của họ. Gôriunôp tiến lên và chìa tay cho thủ lĩnh. Trước khi bắt tay người lạ mặt, người thủ lĩnh đưa bàn tay phải lên trán rồi đặt tay trên ngực, cũng với cứ chỉ như thế ông ta lặp lại đối với những người còn lại. Trong khi đó, các chiến binh từ phía sườn đi lại khép thành vòng đai quanh các nhà du hành. Họ đứng sát vào nhau, nắm chắc vũ khí trong tay và xì xào bàn tán về những bộ quần áo, giầy, ba-lô, rìu giắt ở thắt lưng và những cây gậy sáng loáng trên lưng người lạ mặt.

Tất cả đều mình trần. Họ mặc quần da và đi giầy bằng lông mềm. Trên mặt, ngực và cánh tay họ đều trổ và nhuộm những đường sóng, những vòng tròn và chấm. Mỗi người có một cái vòng đeo cổ giống răng chó sói, một hai hoặc ba răng nanh của gấu ở đằng trước. Tóc họ đen và mềm búi tó trên đầu và búi lại, có dắt hai hoặc ba cái lông đại bàng. Thân thể họ cường tráng, da ngăm đen, nhưng xương gò má không cao, mắt đen và mũi thẳng, hai răng cửa hàm trên nhuộm đỏ làm cho khi họ cười nom rất kỳ quặc. Thủ lĩnh của họ trông còn lực lưỡng hơn và cao hơn. Ông ta có một cái vòng đeo cổ bằng răng nanh của gấu, có một vạch đỏ trên trán, có những cái lông đỏ trên tóc. Rõ ràng đây là một bộ tộc thiện chiến và các chiến binh là những kẻ thù đáng sợ mặc dầu vũ khí của họ thô sơ: giáo làm bằng đá trong suốt, đầu tên làm bằng xương, nhiều chiến binh giắt vào thắt lưng rìu nhỏ bằng đá có cán bằng gỗ. Trên lưng ngoài một cái túi đựng đầy tên ra, có một cái khiên bằng da.

- Các anh là ai và vùng đất này gọi là gì? - Gôrôkhôp phiên dịch câu hỏi của Gôriunôp.

- Chúng tôi là người Ônkilôn, và đây là đất nước chúng tôi do tổ tiên chúng tôi chiếm được. Tôi là Amnunđac, thủ lĩnh của những người Ônkilôn. Tên ông là gì và đất nước ông gọi là gì?

Khi nghe câu trả lời và đặt một vài câu hỏi khác nhằm tìm hiểu tại sao và làm thế nào mà người da trắng đến được đây, người thủ lĩnh nói:

- Các anh từ xa đến và các anh ít người. Các anh sẽ là khách của chúng tôi, mời các anh về nhà.

Ông ta quay lại và đi ngược lên con đường hẻm. Các nhà du hành đi theo ông ta. Các chiến binh đi thành hàng đôi và đi cuối cùng. Họ hỏi Gôrôkhôp về quần áo và vũ khí của các nhà du hành, về cuộc hành trình qua băng và đất nước rộng lớn ở phương nam mà họ chỉ biết qua loa theo truyền thuyết. Gôrôkhôp phải khó khăn lắm mới trả lời được tất cả những câu hỏi này. Đặc biệt, người Ônkilôn nói thứ tiếng không hoàn toàn giống tiếng Tructri nên trong khi trao đổi có những chỗ họ không hiểu nhau.

Ngọn đồi xanh té ra là một ngôi nhà trát bùn rất lớn của người Ônkilôn. Người thủ lĩnh dừng lại ở cửa, kéo những tấm da dùng làm cửa và đưa tay mời các nhà du hành vào. Mọi người phải cúi đầu vì cửa ra vào quá thấp. Ngọn lửa được đặt ở giữa nhà và một vài miếng thịt treo trên một miếng gỗ dùng làm xiên để nướng thịt. Phần trung tâm có bốn cái cột lớn đặt theo các góc vuông cách nhau mỗi chiều sáu mét, phía trên cột là những xà ngang dày đỡ lấy mái nhà lợp bằng gỗ tròn mảnh với một khe hở hình vuông dùng làm cửa sổ và thông khói. Một khúc gỗ dài từ mỗi xà ngang bắc chếch xuống và cắm sâu vào lòng đất. Ở mỗi cạnh của khúc gỗ lại có những khúc ngắn hơn và mỏng hơn cũng nằm chếch xuống. Kết quả là căn nhà có hình chữ thập, tạo thành những góc đều, không nhọn. Ba phần nhà dùng làm phòng ngủ, trong phần thứ tư có cửa ra vào và một cái kho. Khu trung tâm là bếp, phòng ăn và phòng tiếp khách. Trên mặt nền nhà được phủ một lớp đất dày có cỏ. Nhìn chung, mặc dầu nhà tối nhưng rộng rãi và ấm cúng.

Người thủ lĩnh bước vào và dẫn khách tới phân khu trung tâm đối diện với cửa ra vào. Ông ta ngồi xổm trên một tấm da gấu và ra hiệu cho những nhà du hành ngồi bên cạnh ông ta. Các chiến binh ngồi quanh ngọn lửa dọc theo các cạnh vuông của khu trung tâm. Khi các nhà du hành đã quen với cảnh tranh tối tranh sáng thì họ nhận thấy rằng trên khoảng đất dưới những khúc gỗ xiên có nhiều đàn bà và trẻ con. Họ đang nhìn chằm chằm các nhà du hành với vẻ tò mò và nhích dẫn đến chỗ những chiến binh đang ngồi. Những người đàn bà hầu như không mặc quần áo. Họ chỉ có một miếng da rộng không quá bàn tay, cũng đen như nước da của họ để che phần từ bụng trở xuống. Khố của các thiếu nữ có những sọc đen, sọc vàng và sọc đỏ. Ngoài khố, họ còn có những vòng đeo cổ bằng những viên đá trắng, xanh, xám, đỏ và xuyến trên cánh tay và cổ tay. Hình như họ che thân bằng những loại hoa lá kỳ dị, những đường sóng và những đường tròn trổ trên ngực, bụng, lưng, cánh tay, bắp chân và mặt. Họ đặc biệt chú ý đến vợ trẻ của người thủ lĩnh, hai chân trổ hai con rắn cuộn tròn vòng lên đến tận bụng và cạnh sườn, đầu chúng châu vào nhau trên ngực và giữa xương đòn gánh bà ta, có hai con rắn nhỏ hơn trổ trên hai tay, đầu rắn ngóc lên xương bả vai. Trên nước da xam xám, những con rắn màu xanh đen này trông thật huyền ảo.

Vẻ mặt của đàn bà có phần thanh tú hơn đàn ông, và một số người có thể nói là đẹp nữa, thân thể cường tráng và hình dáng cân đối.

Trẻ con hoàn toàn ở trần truồng, còn nam nữ thiếu niên thì đóng khố, cũng giống như đàn bà, các cô thiếu nữ, cũng loại khố đó nhưng có thêu. Tóc những cô gái tết đuôi sam, còn tóc các chàng trai thì búi lại, cuộn tròn trên đầu. Tóc phụ nữ có hai cái bím buông xuống ngực và được trang điểm bằng những hòn đá nhỏ. Những cô gái đến tuổi lấy chồng có bốn bím tóc. Hai cái gài 2 bên mái đầu, còn hai cái ở sau gáy và buông xuống lưng.

Theo lệnh của Amnunđac, người đàn bà mình trổ rắn lấy từ trong một hòm bọc da ra một vài cái cốc gỗ nhỏ. Trong cốc rót đầy sữa đựng trong một cái bình bằng da treo trên cột. Bà ta đưa các cốc cho thủ lĩnh. Ông này đưa cho khách, và để cốc cuối cùng cho mình. Ông ta đưa cốc lên môi rồi, với một cử chỉ đẹp, mời các nhà du hành uống. Sữa đựng trong cốc là sữa tuần lộc đặc hơi chua nhưng rất ngon, các nhà du hành cảm thấy như vậy vì hình như đã lâu họ không được uống thứ sữa này. Chủ nhân lại rót sữa đầy cốc, sau đó người đàn bà mình trổ rắn lấy thịt nướng xuống thái bằng con dao làm bằng xương thành những miếng lớn. Bà ta đặt cả lên khay gỗ và mang đến cho người thủ lĩnh. Người thủ lĩnh đưa từng miếng thịt cho từng người khách. Trong khi họ ăn thịt và uống sữa, Amnunđac nói với người của ông ta. Ông ta nói rất nhanh, thành thử Gôrôkhôp khó nắm được ý nghĩa, Gôriunôp đề nghị thủ lĩnh nói lại. Ông ta nói một cách chậm rãi và Gôrôkhôp có thể phiên dịch từng từ ông nói:

- Nhiều năm trước đây, dân tộc chúng tôi, những người Ônkilôn, bị mỏi mệt vì những cuộc chiến tranh liên miên với người Tructri về vấn đề đồng cỏ cho tuần lộc ăn; chúng tôi đã quyết định tìm một nơi cư trú khác. Ban đầu chúng tôi vượt qua băng giá đến những đảo gần nhất, dựng lên những ngôi nhà trát bùn và xây đắp một cuộc sống thanh bình. Nhưng chúng tôi không thích những vùng đất ấy. Có nhiều sương mù về mùa hè, về mùa đông và về mùa xuân, sương mù quanh năm. Nhân dân bắt đầu chết và tuần lộc cũng bị chết. Người ta thấy mùa xuân chim hay bay về phương bắc và đến mùa thu khi quay về chúng béo mập, do đó chúng tôi quyết định đến chỗ có chim bay. Lần đầu đi thử thì gặp biển. Lần thứ hai băng mỏng và một cơn bão nổi lên làm băng vỡ nên nhiều người và tuần lộc bị chết đuối. Phải chờ đến mùa đông lạnh nhất và cho một số người đi trước. Đường băng rắn lại, mọi người kéo đi và tìm được vùng đất này. Chỉ có một số người đến được, còn lại khoảng năm chục người.

- Ở thời ấy, thủ lĩnh là ông thầy cúng tài giỏi chữa được mọi thứ bệnh. Ông chỉ cho nhân dân con đường đến vùng đất này. Trước khi ông ta chết, ông ta nói rằng: những người Ônkilôn sẽ sống yên ổn cho đến khi người da trắng từ lục địa lớn ở phương nam xuất hiện và ông ta nói rằng trong tay họ có sấm và chớp giết được người từ xa, giống như những thiên thần.

- Khi chúng tôi thấy các ông, những người da trắng đầu tiên từ lục địa lớn đến, chúng tôi nhớ lại lời của vị thầy cúng già ấy.