← Quay lại trang sách

HIẾN TẾ VÀ NGHI LỄ

Nói với người thủ lĩnh, - Gôriunôp nói với Nhikita, - rằng chúng ta là những người yêu hòa bình và không muốn làm hại ai. Chúng ta cũng được những con chim bay về phương bắc đưa tới đây. Tất cả những điều chúng ta muốn là xem chim qua mùa hè ở đâu. Chúng ta sẽ quay lại nơi chúng ta đã ra đi.

Gôrôkhôp phiên dịch những lời này.

- Các ông có sấm và chớp giết người từ xa không? - Amnunđac hỏi.

Mọi người lo lắng nhìn mấy người lạ mặt. Gôrôkhôp quay nhìn sang Gôriunôp, vẻ bối rối, nhưng Gôriunôp nói:

- Có lẽ súng của chúng ta là sấm, chớp có thể giết người từ xa chăng? Thế nào rồi người Ônkilôn cũng phát hiện ra, chi bằng chúng ta hãy lợi dụng cơ hội này làm cho họ kính trọng chúng ta hơn và chúng ta có thể an toàn hơn bằng cách làm cho họ nghĩ rằng chúng ta là sứ giả nhà trời.

- Phải, chúng tôi có sấm và chớp! - Gôrôkhôp báo tin cho người thủ lĩnh.

Một tiếng xì xào hoảng sợ vang lên khắp nhà. Những người ngồi gần các nhà du hành nhất, không ai bảo ai, đều dịch ra xa. Người thủ lĩnh nói:

- Hãy đưa cho chúng tôi xem để chúng tôi biết rằng các ông thực sự là sứ giả nhà trời. Nhưng tôi đề nghị các ông đừng sát hại người Ônkilôn.

- Chúng ta hãy đi ra ngoài để sấm chớp của chúng tôi không làm hại ai cả, - Gôriunôp nói.

Người thủ lĩnh oai nghiêm đứng dậy và đi ra cửa, các nhà du hành và mọi người đi theo sau ông ta, dân chúng lúc này đi cách xa một quãng.

- Mang một con tuần lộc đến để hiến tế, - Amnunđac ra lệnh, - và để cho những người da trắng giết nó làm lễ tế thần.

Một số chiến binh chạy đến khu rừng sau nhà và phút chốc quay lại, dắt đến một con tuần lộc trắng to. Con vật dường như biết số phận đang chờ nó, nó rống lên và giẫy giụa định thoát. Gôrôkhôp hướng dẫn các chiến binh buộc con vật vào cái cọc cách nhà khoảng hai trăm bước. Các nhà du hành dùng đạn thường và bắn một loạt. Con tuần lộc ngã gục xuống. Tất cả những người Ônkilôn quỳ xuống khi họ nghe tiếng súng rền vang như tiếng sấm. Họ vái những người khách lạ có uy lực. Amnunđac đứng dậy và nói to để mọi người cùng nghe.

- Bây giờ chúng tôi biết các ông là sứ giả của nhà trời như ông thầy cúng tài giỏi đã nói. Các ông sẽ là khách của chúng tôi, mọi thứ chúng tôi có: nhà cửa, thức ăn, quần áo và tuần lộc đều thuộc quyền các ông sử dụng nếu các ông muốn! Đêm nay ông thầy cúng sẽ khấn các thiên thần đừng sát hại người Ônkilôn, họ sung sướng được đón tiếp sứ giả nhà trời.

Khi Amnunđac ngừng nói, ông giơ tay lên trán và ngực, rồi cúi rạp xuống trước các nhà du hành. Tất cả những người Ônkilôn khác đều làm theo. Xác con tuần lộc được kéo đến chân thủ lĩnh. Ông ta chỉ bốn vết thương trên sườn con vật và nói:

- Bốn cái chớp đã giết con tuần lộc làm vật hiến tế. Các bà hãy làm thịt tuần lộc để tối nay làm lễ. Các chiến sĩ mời ông thầy cúng đến nhà chúng ta.

Quay về nhà, các nhà du hành lại được mời uống sữa và ăn thịt tuần lộc nướng. Lần này họ mời ăn cả bánh rán dẹt làm bằng bột củ ấu trụi và củ mác-ta-gôn rán. Người Ônkilôn không có bánh mì, không có chè cũng không có thuốc lá. Còn một số bánh mì sấy, một vài miếng đường mà các nhà du hành lấy trong ba-lô ra được người Ônkilôn truyền tay xem, ngửi và nếm một cách hết sức ngon lành, họ rất chú ý đến những cái tẩu mà sau khi ăn Gôrôkhôp và Oocđin nhồi thuốc vào. Những người Ônkilôn sửng sốt nhìn những người da trắng thở khói ra làm các người ngồi cạnh bị sặc. Chiếc ấm đồng được treo trên lửa làm cho mọi người thán phục. Những người Ônkilôn chỉ có những dụng cụ bằng gỗ và bằng đất sét để nấu thịt. Nước được đun sôi bằng đá nung nóng. Nhưng không ai thích chè không có đường, các nhà du hành mang theo quá ít đường, nên không đủ cung cấp cho tất cả mọi người. Amnunđac buộc phải uống chén chè người ta đưa cho ông ta, nhưng tuyên bố đồ uống của người Ônkilôn ngon hơn, ông ta chỉ tay vào cái bình bằng da đựng sữa.

Rìu và dao đi săn cũng làm cho mọi người hết sức sửng sốt, họ sờ vuốt và thử dao. So với rìu bằng đá và dao bằng xương, dao và rìu này sáng loáng, chắc khỏe, chặt cắt tốt, làm cho các chiến sĩ rất thú vị. Amnunđac ra hiệu cho vợ, bà ta bước đến cạnh tủ, lấy ra một con dao bằng sắt thô và gỉ được giữ gìn như một kỳ tích. Đưa con dao cho các nhà du hành xem, người thủ lĩnh nói:

- Tổ tiên chúng tôi đã có những con dao, rìu, giáo và những đầu tên như thế này, họ mua của người Iacut nhưng tự mình không biết làm. Đến đây, những vũ khí này trở thành vô dụng, gẫy hoặc mất, người Ônkilôn lại bắt đầu làm những vũ khí bằng đá và xương.

Cơrốt và Belukha nằm dưới chân chủ, thoạt đầu chúng làm người Ônkilôn sợ vì họ không có chó. Khi Gôrôkhôp hỏi tại sao họ không có chó thì Amnunđac nói:

- Chiến tranh với những người Tructri khởi đầu cũng do những con vật ác hại này. Tổ tiên của chúng tôi là những người chăn tuần lộc, họ không có chó vì chó hay cắn tuần lộc. Tổ tiên chúng tôi sống ở trên bờ biển, chăn tuần lộc, câu cá và săn hải cẩu, họ làm nhà bằng gỗ trôi. Một hôm, người Tructri đến; họ có nhiều chó nhưng không có tuần lộc. Họ bắt đầu đuổi tổ tiên chúng tôi ra khỏi những vùng câu cá và săn bắn. Khi không có đủ cá cho chó thì họ lấy tuần lộc của chúng tôi. Vì thế chiến tranh nổ ra. Người Tructri thì đông, còn tổ tiên chúng tôi thì ít. Họ đành phải ra đi và đến đây.

- Có bao nhiêu người Ônkilôn sống ở đây? - Gôrôkhôp hỏi. - Đây có phải là tất cả không? - anh ta vung cánh tay một nửa vòng để ra hiệu.

Amnunđac cười:

- Có hai chục ngôi nhà như vậy và một bộ tộc gồm từ 20 đến 30 người sống trong mỗi ngôi nhà.

- Những ngôi nhà khác ở đâu?

Ở nhiều chỗ khác nhau. Tuần lộc cần rêu. Chúng tôi không thể sống gần nhau. Nếu chúng tôi ở như vậy thì sẽ không có đủ chỗ cho người và cho tuần lộc,

- Có một thủ lĩnh như ông trong từng nhà không?

- Không. Tôi là thủ lĩnh của tất cả những người Ônkilôn, - Amnunđac nói một cách tự hào. - Bộ tộc của tôi lớn nhất. Nhưng trong mỗi nhà thì có một tù trưởng đứng đầu bộ tộc.

Tính cả chiến sĩ, đàn bà và trẻ con thì có khoảng sáu mươi người trong nhà. Gôriunôp tính toán rằng nếu trung bình hai mươi lăm người sống mỗi nhà, thì sẽ có khoảng năm trăm ba mươi người Ônkilôn sống ở vùng đất Xannhicôp.

Các nhà du hành và người Ônkilôn chuyện trò cho đến lúc mặt trời lặn, khi một bầy tuần lộc bị lùa từ đồng cỏ về và các nhà du hành quan sát những con vật đang được vắt sữa. Tất cả đàn bà và con gái đều làm công việc này. Họ nhanh chóng chuyển từ con tuần lộc này sang con tuần lộc kia và dùng những xô bằng gỗ. Có trên hai trăm con trong bầy. Chúng đứng trong đồng cỏ suốt đêm, các chiến sĩ thay phiên nhau canh phòng dã thú.

Khi hoàng hôn xuống, mọi người quay về nhà thì ông thầy cúng ở cách đây vài cây số cũng xuất hiện. Ông ta là một ông già cao gầy, má hóp, mắt sắc và sâu ẩn dưới hàng lông mày rậm. Mặc dầu thời tiết tương đối ấm áp, ông ta vẫn mặc áo lông xù. Trên những giây buộc quanh cổ và thắt lưng ông ta là những cái vòng, cái que bằng đồng và bằng sắt, hình dạng rất kỳ dị. Những vật này đã xưa lắm, rõ ràng được mang từ đất liền đến và truyền từ thầy cúng này sang thầy cúng khác. Ông ta mang một cái trống nhỏ có những miếng da đỏ và đen cùng những cái lúc lắc bằng sắt tô điểm. Cái mũ nhỏ xíu, nhọn hoắt tựa hồ như cái chóp đã trụi lông, chụp trên bộ tóc của ông ta. Sau khi cúi chào người thủ lĩnh một cách trang nghiêm, ông ta chăm chú nhìn các nhà du hành và mấy con chó của họ. Mây con này sủa vang khi thấy một người ăn mặc kỳ khôi như vậy. Ông thầy cúng ngồi cách xa những người khác, cạnh đống lửa đỏ rực, để trống trên mặt đất và đưa hai bàn tay xương xẩu hơ lên lửa, lẩm bẩm điều gì không rõ. Theo hiệu lệnh của người thủ lĩnh, phụ nữ rót cho ông thầy cúng một chén sữa. Ông uống cạn sau khi đã vẩy một vài giọt lên ngọn lửa.

Một vài miếng thịt tuần lộc treo trên những cái sào dài được nướng trên ngọn lửa gần đấy. Cạnh chỗ nướng là nồi cháo, nói đúng hơn là nồi sốt thịt tuần lộc và củ mác-ta-gôn được nấu trong một cái nồi hình trụ bằng gỗ, nước trong đó đang được đun nóng nhờ những viên đá không lớn lắm. Một người phụ nữ dùng hai cái que có cắm đá ở đầu, gắp một hòn đá nung cho vào nồi cháo rồi lấy hòn đá nguội ra và lại đặt trên ngọn lửa.

Thịt đã nướng xong và được đưa cho người thủ lĩnh. Người thủ lĩnh, ông thầy cúng và các nhà du hành để thịt trong một chén cháo, mỗi chén có một cái dĩa bằng gỗ thật đẹp. Các nhà du hành nếm cháo và thấy cháo không có muối. Giống người Tructri, người Ônkilôn không dùng muối trong khi ăn. Muối được lấy từ trong ba-lô ra để ăn cháo và được người Ônkilôn truyền tay nhau xem. Các chiến sĩ nếm muối. Họ hy vọng muối cũng ngọt như loại đường các nhà du hành cho họ, nhưng họ thất vọng và khạc nhổ hồi lâu, với vẻ kinh tởm. Họ lấy làm lạ, không hiểu sao những người da trắng lại làm hỏng món cháo và món thịt ngon lành bằng thứ bột mặn chát này?

Sau khi ăn cháo, họ ăn thịt nướng và bánh hạt ấu trụi. Cuối bữa ăn, người ta uống một cốc sữa. Khi các đồ dùng đã được cất đi thì người ta gạt than ra một bên cho khu trung tâm quang đãng để làm lễ. Bóng tối bắt đầu trùm xuống căn nhà, chỉ còn le lói ánh than hồng đang âm ỉ cháy.

Trong bữa ăn, Amnunđac kể với ông thầy cúng là người da trắng đã xuất hiện như thế nào trên xứ sở của người Ônkilôn, họ là ai, họ làm gì, họ đã giết tuần lộc như thế nào, Ông thầy cúng yên lặng gật đầu và thỉnh thoảng lại hỏi một vài câu. Sau bữa ăn, trước khi bắt đầu nghi lễ, ông ta yêu cầu đưa chó ra khỏi nhà. Khi sửa soạn xong, ông ta ngồi giữa khu đất trống không. Người xem đứng chật ních vòng trong vòng ngoài. Ông ta lấy ít bột trắng trong cái bọc bằng da buộc ở thắt lưng ra, rắc lên lòng bàn tay và dùng lưỡi liếm. Gôrôkhôp cho các nhà du hành biết loại bột này làm bằng nấm đại hồng nhung mà những người Camtrađan, Côriăc và một vài dân tộc khác dùng làm thuốc mê đặc biệt.

Ngồi yên lặng một lúc lâu, mắt ông thầy cúng nhìn chằm chằm vào đống than hồng đỏ rực. Ông ta đưa trống lục lạc lên và khua tay qua mặt trống, bỗng ngay lúc ấy vang lên những âm thanh bởi những ngón tay của ông ta gõ trên mặt da. Tiếng trống to dần, ông ta lầm rầm khấn, ban đầu chậm sau nhanh hơn, cho đến khi tiếng khấn và tiếng trống hòa vào nhau thành một âm thanh náo động dồn dập, qua đó nghe rõ từng lời than vãn thống thiết. Ban đầu, ông ta ngồi lắc lư, và nhìn chằm chằm vào đống than, nhưng sau trở nên mê loạn, ông ta nhảy như choi choi và quay tròn tại chỗ, mỗi lúc một nhanh, vừa tiếp tục đánh trống vừa than vãn. Cái áo dài của ông ta và những chuỗi dây đeo quanh người làm thành một cái đai khi ông ta quay tròn, và cuối cùng tạo thành ba hình chóp chồng lên nhau và chóp cao nhất là cái mũ của ông ta. Tay ông ta giữ trống, giơ lên trên mũ và luôn cử động; cái trống nghiêng ngả, múa may, quay cuồng, tiếng trống liên hồi, vang động.

Bỗng tiếng khấn ngừng lại và một tiếng thét man rợ nổi lên, ông thầy cúng ngã vật xuống đất, cánh tay dang ra và buông cái trống xuống, dường như ông ta ngất đi và không ai dám đến gần. Mồm ông ta sùi bọt, chảy xuống đôi má hóp. Tất cả người xem đều đứng yên, trong nhà im lặng như tờ. Chỉ một lát trước đây, căn nhà còn ồn ào như chợ vỡ, cả những con chó buộc bên ngoài cũng thỉnh thoảng sủa vang khi nghe ông thầy cúng khấn bây giờ cũng yên lặng. Khoảng năm phút trôi qua, ông thầy cúng đứng vụt dậy, uống một cốc sữa và lầm rầm nói, làm cho người nghe xì xào náo động. Người thủ lĩnh lặp lại từng lời của ông ta. Ông ta nói to, Gôrôkhôp phiên dịch:

- Trời đã mách ông thầy cúng rằng những nỗi bất hạnh lớn đang dành sẵn cho người Ônkilôn.

Amnunđac giơ hai tay lên trời, nhưng ông thầy cúng ra hiệu cho ông ta dừng lại và nói thêm một vài lời nữa. Tiếng xì xào vui vẻ lan đi trong đám người đứng xem, người thủ lĩnh buông tay xuống nói:

- Ông thầy cúng nói: những nỗi bất hạnh sẽ không còn nữa khi những người lạ mặt sống trên đất của người Ônkilôn. Đó là ý trời.

Ông thầy cúng chậm chạp đứng dậy cúi chào người thủ lĩnh và những nhà du hành rồi đi ra, hai chiến sĩ mang vũ khí đi kèm. Sau khi ông ta đi, người ta bàn tán xôn xao. Các nhà du hành cũng xì xào bàn tán. Những điều thần linh phán bảo thật là bất ngờ. Mặc dầu họ được an toàn và có thể trông cậy vào sự giúp đỡ của người Ônkilôn trong mọi việc, họ biết rằng từ nay họ gắn bó với những người này trong một thời gian dài để bảo đảm cho họ tránh khỏi những điều bất hạnh. Kế hoạch của họ chỉ nghỉ đông ở Vùng đất Xannhicôp cho đến đầu mùa xuân năm sau. Liệu lúc ấy người Ônkilôn có để cho họ đi không?

- Thật khó mà đoán được, - Gôriunôp nói, - tại sao ông thầy cúng láu lỉnh ấy lại nghĩ đến việc bổ sung vào lời tiên tri, lời tiên tri này là một biến thể của truyền thuyết mà thủ lĩnh nói với chúng ta. Lão già hiểu rằng những người điều khiển được sấm và chớp rất có ích cho những người Ônkilôn nếu họ là bạn, và rất nguy hiểm nếu họ là thù.

- Và nếu họ để chúng ta đi, - Oocđin nói thêm, - sau khi biết vùng đất kỳ lạ này, chúng ta sẽ quay lại rất đông và đuổi họ đi như người Tructri đã từng đuổi họ.

- Anh nói rất đúng, - Côxtiacôp nhận xét. - Bởi vì đã bị cắt lìa khỏi thế giới hàng thế kỷ nay, những người này không biết ngày nay xảy ra những gì mà chỉ sống bằng kỷ niệm của quá khứ.

- Dù thế nào thì bây giờ chúng ta cũng không nên nói cho họ biết ý định ra đi của chúng ta, - Gôriunôp nói.

- Phải, nếu chúng ta nói thì họ có thể nhốt chúng ta lại và bắt chúng ta làm tù binh, - Oocđin nói thêm.

- Hoặc ít nhất họ sẽ giám sát chúng ta và hạn chế những hoạt động của chúng ta, - Côxtiacôp nêu ý kiến.

- Chúng ta sẽ sống ở đây một thời gian nữa để biết họ rõ hơn, dần dần ta sẽ thuyết phục họ là điều tiên tri này rất vô nghĩa, không có gì đe dọa họ cả.

Người thủ lĩnh nghe khách lạ nói chuyện thì đứng dậy nói to. Người Ônkilôn đều im lặng.

- Những người Ônkilôn, các chiến sĩ và các bà! Các người đã nghe thiên thần nói với ông thầy cúng. Trong khi những người khách lạ sống với chúng ta, sẽ không có sự rủi ro nào đến với chúng ta cả. Do đó, chúng ta mời họ ở lại.

- Phải, phải! - những người Ônkilôn kêu lên.

Người thủ lĩnh quay về phía khách, cúi đầu và nói:

- Những người da trắng, sứ giả của nhà trời, người Ônkilôn mời các vị sống với họ. Các vị sẽ cứu chúng tôi khỏi những điều bất hạnh. Chúng tôi sẽ cho các vị mọi thứ cần thiết, nhà ở tốt nhất, thức ăn, quần áo ấm và những người đàn bà đẹp nhất, các vị sẽ không thiếu thốn một thứ gì. Các vị sẽ sống như thủ lĩnh của chúng tôi.

- Các vị muốn lấy gì cũng được miễn là ở lại với chúng tôi! - tiếng đàn ông và đàn bà vang lên tứ phía và họ chìa tay về phía khách với những cử chỉ khẩn cầu.

Gôriunôp đứng dậy và trả lời:

- Được, chúng tôi đồng ý ở lại để làm khách quý của các vị cho đến khi các vị cho chúng tôi đi. Nhưng chúng tôi muốn các vị cho chúng tôi biết đất nước của các vị và các vị phải chỉ cho chúng tôi xem.

Gôrôkhôp phiên dịch lại. Những tiếng reo sung sướng vang lên khắp nhà. Người thủ lĩnh lại cúi chào khách và bắt tay họ, đầu tiên ông ta sờ trán và ngực, mãi sau này các nhà du hành mới hiểu cử chỉ đó có nghĩa là “từ đáy lòng tôi và không có ý định xấu”. Rồi ông ta nói:

- Chẳng bao lâu chúng tôi sẽ tổ chức hội mùa xuân. Tất cả đàn bà con gái của bộ lạc sẽ đến dự hội và các ông sẽ chọn vợ nếu các ông thích. Vợ các ông ở xa, - ông ta chỉ tay về phía nam, - còn đàn ông sống mà không có đàn bà thì buồn tẻ lắm!

- Đấy, chúng ta thành các chàng rể rồi đấy, - Gôrôkhôp cười.

- Nhưng tự do của chúng ta sẽ bị bóp nghẹt, - Gôriunôp nói.

- Ồ, được, tất cả sẽ rõ thôi, - Oocđin kết luận một cách triết lý.