← Quay lại trang sách

HÒN ĐÁ LINH THIÊNG

Sau khi những người Ônkilôn đã ngớt bàn tán một cách vui vẻ và huyên náo về việc những người khách lạ bằng lòng sống với họ, thì cánh đàn bà đốt lửa lên, Amnunđac quay sang khách:

- Các ông nói rằng các ông muốn xem đất nước của chúng tôi. Nhưng các ông không biết như thế rất nguy hiểm vì rừng đầy dã thú ư?

- Chúng tôi không sợ, chúng tôi sẽ giết bất kỳ con vật nào trước khi nó có thể xông vào chúng tôi, - ông ta được trả lời như vậy.

- Ngoài thú dữ, còn những người dã man nguy hiểm hơn dã thú.

- Điều đó thật thú vị, - Oocđin nói với bạn trong khi Gôriunôp hỏi:

- Họ cũng là những người Ônkilôn ư? Tại sao họ lại nguy hiểm?

- Không, họ không phải là người Ônkilôn. Họ là người dã man và chúng tôi luôn luôn phải đánh nhau với họ. Họ rất khỏe và chúng tôi không thể đánh họ một mình. Chúng tôi gọi họ là “Vampu”, có nghĩa là “những người trần truồng”.

- Thể họ sống ở đâu?

- Họ ở mãi tít tận phía đông của đất nước chúng tôi. Họ nấp trong rừng và đôi khi tấn công vào nhà chúng tôi khi các chiến sĩ đi săn vắng. Họ giết người già và trẻ con, bắt phụ nữ. Chúng tôi rất sợ họ. Thậm chí các ông cũng không thể địch nổi họ nếu họ tấn công các ông bằng gậy, giáo và dao.

- Họ có đông không?

- Chúng tôi không biết họ có bao nhiêu người, khi tổ tiên chúng tôi đến đây thì khắp trên vùng đất này đã có người dã man ở. Tổ tiên chúng tôi đánh nhau với họ khá lâu, cuối cùng đuổi được họ về phía đông.

- Họ có sống trong những nhà như của ông không?

- Không, về mùa đông họ sống trong hang. Về mùa hè, họ làm tổ trên cây như chim.

- Đúng là dấu vết của họ mà chúng ta trông thấy trong lần tham quan vừa rồi, - Gôriunôp nhận xét.

- Họ thờ vị thần sống, to lớn và độc ác, - Amnunđac nói tiếp. - Họ dâng lễ vật cho thần.

- Vị thần đó là gì?

- Ông có thấy ở đất nước chúng tôi có một con vật lớn có sừng trên mõm không?

- À, con tê giác. Vâng, chúng tôi có thấy.

- Thần của họ còn to hơn nhưng đáng lẽ có sừng thì chúng lại có thêm chân thứ năm hoặc tay thứ năm dài và dẻo ở trên đầu. Dùng cái chân ấy, con vật bẻ cây, vồ người và ném họ xuống đất rồi xéo chết họ bằng những chân kia.

- Đấy con vật như vậy đấy! - Gôrôkhôp ngạc nhiên nói.

- Nó cũng có hai cái răng trắng, to như răng nanh của một con gấu và chìa ra khỏi mồm, có điều là chúng dài và dày hơn nhiều.

- Hình như con voi thì phải, - Gôriunôp nói.

- Có lẽ là con ma-mút, - Oocđin gợi ý. - Không có voi ở phương bắc. Có lông không? - anh ta hỏi người thủ lĩnh thông qua Gôrôkhôp.

- Có lông đỏ và bờm xờm.

- Ma-mút có lông đỏ không nhỉ? – Côxtiacôp nhìn, vẻ bối rối. - Ở những bức tranh mà tôi đã thấy, tôi cho rằng lông chúng đen.

- Ồ, anh nhầm rồi, - Oocđin nói. - Trên xác thú tìm được ở Xibiri, lông có màu nâu, hơi đỏ hoặc hoe hoe. Nhưng tôi muốn biết tất cả những con ma-mút ấy có phải đã được người Vampu thuần hóa hay không?

- Với hai cái răng ấy, - người thủ lĩnh nói tiếp, - con vật đào rễ cây để ăn, về mùa đông nó bới tuyết để tìm cỏ. Chúng tôi rất cần những cái răng đó, răng của chúng dùng làm dao, giáo và tên rất tốt. Nhưng chúng tôi ít khi giết được con vật này vì người dã man canh giữ thần của họ rất nghiêm ngặt.

- Thật thú vị nếu làm quen được với người Vampu và những con voi ma-mút được thuần hóa của họ, - Gôriunôp thốt lên.

- Tôi đã nói với các ông hết mọi nhẽ, - Amnunđac kết luận. - Bây giờ, các ông đã biết không thể đến chỗ người dã man một mình được. Họ sẽ giết và ăn thịt các ông và điều bất hạnh sẽ trút xuống đầu người Ônkilôn. Chúng tôi sẽ bảo vệ các ông. Tất cả các chiến sĩ của chúng tôi sẽ đến chỗ người dã man với các ông. Chúng tôi sẽ đánh nhau với họ thật ác liệt và tiêu diệt họ. Chớp của các ông sẽ giúp chúng tôi giết bọn Vampu và thần của chúng.

- Một cuộc thám hiểm có tính chất thanh trừng! - Oocđin cười. - Và chúng ta là những tên đao phủ, không hay ho gì, tôi nói thật đấy.

Nhưng các chiến sĩ rất khoái khi nghe thủ lĩnh nói. Rõ ràng là họ có đủ lý do để căm thù bọn Vampu. Những kẻ láng giềng hung ác như vậy không thể được một bộ lạc yêu chuộng hòa bình đã rời lục địa chỉ vì chiến tranh đón tiếp niềm nở.

Khi đề tài về người Vampu đã cạn, Amnunđac bảo đã đến lúc phải chuẩn bị cho các nhà du hành một chỗ nghỉ. Trên phần xiên của căn nhà, đối diện với cửa ra vào, đó là chỗ ở của thủ lĩnh và gia đình. Những người phụ nữ dọn dẹp một nửa và trải các tấm da gấu, da nai trên đất rồi mang đến những tấm gối – những cái bao bằng da hình trụ nhồi bằng lông tuần lộc. Nửa còn lại dành cho gia đình thủ lĩnh, phụ nữ để một dãy hòm đựng đồ dùng nấu ăn làm biên giới, Amnunđac mời khách đi nằm nghỉ. Ở hai phía cạnh còn lại của một phần căn nhà trát bùn những người Ônkilôn đã sắp xếp; những người đàn ông cởi quần áo trần truồng, để quần áo gối đầu và vũ khí để nằm dọc theo người. Một anh chiến sĩ ở lại canh gác lối ra vào, ba người khác không cởi quần áo, nằm ngủ gần đống lửa và cạnh lối ra vào để thay gác theo thứ tự. Người gác giữ ngọn lửa cháy sưởi ấm căn nhà, chốc chốc lại đi ra ngoài lấy củi. Các chiến sĩ canh bầy tuần lộc ở đồng cỏ cũng thay phiên nhau, và người ta nghe họ gọi nhau.

Đêm qua đi một cách bình yên. Những người Ônkilôn thức dậy lúc bình minh. Các bà dậy trước. Một số người cho thêm củi vào lửa và bắt đầu nướng thịt, đốt nóng những hòn đá dùng để nấu cháo. Một số khác vắt sữa tuần lộc, họ mặc quần áo vì bên ngoài trời lạnh, Quần áo của họ chỉ là một bộ lông bằng da. Quần liền với áo, áo khoét rộng ở ngực. Thoạt đầu, những người phụ nữ mặc quần vào, sau đó quấn nhanh áo quanh mình rồi xỏ tay vào ống tay ngắn. Khi quay về, họ cởi áo ra khỏi vai rất nhanh nhẹn, sau đó cả bộ quần áo tụt xuống chân. Các nhà du hành tò mò quan sát, thấy họ mặc và cởi quần áo rất dễ và nhanh; gần như trần truồng, họ nói chuyện ồn ào quanh bếp lửa. Ánh lửa chiếu lên thân hình đen thẫm của họ. Họ chẳng hề ngượng nghịu trước nhiều cặp mắt đàn ông.

Các nhà du hành chú ý tới một điều là những người phụ nữ trẻ tuổi và các cô thiếu nữ rất dễ phân biệt ở chỗ nhìn bốn cái bím tóc của họ, các cô đó thỉnh thoảng tụm lại nhìn họ, rỉ tai nhau và cười khúc khích. Họ đang bàn tán kẻ nào trong bọn sẽ được chọn làm vợ những người khách lạ.

Gôrôkhôp nghe họ nói rằng những bộ ria mép dày và nước da sáng của các bạn làm cho họ thích thú hơn cả.

Người Ônkilôn hầu như không có râu, chỉ những người già mới để ria mép thưa và lún phún ít râu. Vốn là người Iacut, Gôrôkhôp giống người Ônkilôn về mặt này và có nước da sạm và vì vậy không hấp dẫn các cô gái.

Trong khi những người đàn bà hối hả thì những người đàn ông thong thả mặc quần áo và kiểm tra vũ khí. Tiếng trẻ con và đôi khi cả tiếng khóc của một đứa trẻ nào đó vọng đến, một người đàn bà trả lời đứa trẻ và vội vàng cho nó bú.

Phút chốc, toàn bộ lạc có mặt đầy đủ và ngồi ăn bữa sáng. Món ăn không thay đổi: thịt nướng và thịt nấu. Chí khác là đáng lẽ uống sữa lạnh trong bình bằng da thì họ dùng một loại sữa nóng pha nước có trộn bột củ ấu trụi và một vài miếng tóp mỡ nổi lềnh bềnh trên mặt. Cháo khá ngon.

Trong bữa ăn, các nhà du hành hỏi người thủ lĩnh người Ônkilôn đã sống ở vùng đất Xannhicôp từ bao lâu. Họ biết dân tộc này không có chữ viết và những điều liên quan đến đời sống của tổ tiên họ được truyền khấu từ thế hệ này sang thế hệ khác và có biến đổi chút ít. Tuy nhiên vẫn có một sử ký biên niên nguyên thủy.

- Hơn bốn trăm năm, - Amnunđac trả lời sau khi suy nghĩ một lát. - Nếu các ông muốn biết một cách chính xác thì chúng ta có thể đến chỗ ông thầy cúng. Gần nhà ông ta có một hòn đá được đánh dấu từng năm một.

Sau bữa ăn sáng, cùng đi với người thủ lĩnh và mười chiến sĩ, các nhà du hành bắt đầu đi dọc theo một con đường rộng hướng về phía tây qua khu rừng. Trên đường đi, Amnunđac chỉ cho họ một cái bẫy đặt rất khéo, đó là một cái hố vuông sâu hơn hai mét, đào trong đường hẻm và được phủ lên bằng những cái sào mỏng manh, cành cây và lá rụng. Thường thường, bò, ngựa và cả tê giác nữa vẫn rơi vào bẫy và bị người Ônkilôn dùng giáo và tên giết chết.

- Chúng tôi có đặt khá nhiều bẫy dọc theo lối đi của thú và các ông có thể rơi vào bẫy nếu không có người dẫn đường. – Người thủ lĩnh báo cho họ biết.

- Chúng tôi luôn luôn có một con chó chạy đằng trước, - Gôriunôp nói. - Nó khôn hơn một con tê giác hoặc một con bò. Nó sẽ dừng lại trước một cái bẫy và cho chúng tôi biết là có bẫy.

- Những con chó rất có ích cho người Ônkilôn, - Oocđin nhận xét, - để săn bắn, để giữ nhà và để chiến đấu với người dã man.

- Chó của các ông sẽ được nhân lên và trong một vài năm, chúng tôi sẽ có nó để giữ nhà, - Amnunđac nói, giọng đầy tin tưởng, các nhà du hành chỉ mỉm cười với nhau.

Bây giờ họ rời khỏi con đường hẻm và trên một đồng cỏ nhỏ thấy nhà ông thầy cúng. Ngôi nhà này giống ngôi nhà của thủ lĩnh nhưng nhỏ hơn vì ông thầy cúng chỉ sống với một học trò và một bà già nấu ăn.

Ông thầy cúng đã biết trước có khách, ông đang chờ ở bực cửa để đưa khách đến chỗ ngồi danh dự đối diện với cửa ra vào. Trong nhà, trông giống như một viện bảo tàng giải phẫu học, trên bốn cột, trên xà ngang và dưới những bức tường xiên có những cái sọ trắng của những con tuần lộc, bò và ngựa bị hiến tế, trong khi trên chỗ ngồi danh dự lủng lẳng cái sọ của một con tê giác có sừng rất to.

Các vị khách vừa ngồi xuống thì bà già đã mang thức ăn đến, gồm có não, lưỡi và mõm của con tuần lộc bị hiến tế do những nhà du hành đã bắn hôm trước. Những miếng ngon nhất của con vật bị hiến tế thường dành cho bầy tôi của các thiên thần. Biết nguyện vọng của khách do Amnunđac nói lại là muốn xem hòn đá có ghi số năm người Ônkilôn sống ở Vùng đất Xannhicôp, sau bữa cơm, ông thầy cúng dẫn họ về phía tây. Con đường nhỏ phút chốc dẫn họ đến rìa thung lũng. Ở đây cũng có một bức tường cao không vượt qua được bằng đá ba-dan, đỉnh đồi bị che lấp dưới những đám mây thấp. Đá tảng mọc rêu, rơi từ trên cao xuống vung vãi dưới chân vách đá cũng như ở những chỗ khác. Giữa những tảng đá ấy có một tảng đá rất lớn, nặng một vài trăm tấn. Xung quanh bằng phẳng không có đá, tạo thành một vùng đất rộng. Ở đây người Ônkilôn tập hợp để tế lễ và hiến tế cho các vị thần của họ. Xương của những con vật bị hiến tế nằm thành một dẫy màu trắng bao quanh hòn đá tảng đen trông thật ảm đạm.

- Hòn đá này, - Amnunđac giải thích, - rơi từ trên trời xuống vào năm tổ tiên chúng tôi đến vùng đất này. Do đó, chúng tôi tôn thờ và coi nó là của các thần ban cho. Hằng năm, khi mặt trời xuất hiện lần đầu tiên sau một đêm đông, chúng tôi đến đây để làm đại lễ và hiến tế. Nhân dịp này ông thầy cúng đánh dấu vết trên hòn đá và do đó các ông có thể đếm chúng tôi sống ở đây được bao nhiêu năm.

Ông ta đưa các nhà du hành đến sườn phía nam của tảng đá, ở đây mặt đá bằng phẳng và có những đường nhỏ thẳng đứng khắc bằng một dụng cụ cứng, cứ đến vạch thứ mười thì dài hơn những vạch kia một ít để làm cho người ta dễ tính. Các nhà du hành thấy người Ônkilôn đã sống ở vùng đất Xannhicôp bốn trăm hai mươi bốn năm.

- Khi Amnunđac nói với chúng tôi tảng đá này rơi từ trên trời xuống, - Oocđin nói khẽ, - tôi nghĩ bụng đó là một mảnh sao băng lớn và lấy làm thú vị. Bây giờ tôi thấy đó chỉ là một hòn đá ba-dan và rõ ràng là rơi từ trên vách đá xuống.

- Ông ta nói gì vậy? - ông thầy cúng hỏi.

Gôrôkhôp nói là người da trắng nghĩ rằng hòn đá tảng rơi từ trên núi chứ không phải từ trên trời xuống. Ông thầy cúng lắc đầu, vẻ bực dọc và nói:

- Ông thầy cúng tài ba dẫn tổ tiên chúng tôi đến vùng đất này đã thấy hòn đá này từ trên trời rơi xuống và là người đầu tiên cúi chào nó.

- Chỉ có những hòn đá nhỏ mới từ trên núi rơi xuống, - Amnunđac nói thêm. - Hòn đá này còn lớn hơn ngôi nhà của chúng tôi. Dưới chân nó có năm con tuần lộc bị đè bẹp và đó là lễ vật đầu tiên của những người mới đến vùng đất này dâng cho các thần. Từ đó, chúng tôi đã hiến tế ở đây. Đó là dấu hiệu của Trời.

Khi họ nói chuyện dưới chân hòn đá linh thiêng thì Côxtiacôp đi ra ngoài và lén chụp một bức ảnh của hòn đá cùng với những người đứng gần đó.

Amnunđac dẫn các nhà du hành đến rìa một vách đá cheo leo và chỉ cho họ một hang lớn người Vampu đã sống. Ngày hôm trước khi hòn đá rơi xuống đã có một trận chiến đấu ác liệt dưới chân vách đá. Ở đây, người Ônkilôn đã thắng người Vampu trận đầu tiên và buộc họ phải rút về phía đông. Sự kiện này cũng gắn liền với tảng đá.

Vẫn còn rải rác quanh hang nào gậy đã mục, nào giáo gãy có mũi giáo bằng đá lửa và những mảnh da thú vật đã mốc cùng một bếp lửa và một số đống xương gãy hoặc đã cháy thành than.

Nhìn chung, cái hang với những khúc xương, một bức tường đen ảm đạm cao vút cùng tảng đá đen lớn bị bao phủ bởi những đống xương giữa những đá hòn, đá tảng nằm vương vãi kia, tạo nên một cảnh tượng ghê sợ. Vì thế các nhà du hành vui vẻ quay về rừng xanh trên đường đi về nhà.

Trong đồng cỏ trước nhà Amnunđac, họ thấy người Ônkilôn đang rộn rã xây nhà cho các vị khách, các chiến sĩ và phụ nữ cùng tham gia, một số đào hố để cắm bốn cột, một số đang xẻ và đẽo gỗ, còn một số thì đang chở gỗ từ rừng về. Trong rừng, người ta nghe thấy tiếng rìu vang lên. Phụ nữ đang đào những vầng đất có cỏ để đắp lên mái nhà. Mặc dầu họ tích cực, công việc vẫn tiến chậm bởi vì họ dùng rìu bằng đá, dao bằng xương và những cái xẻng bằng đá lửa không đẽo được gỗ.

Thấy họ xẻ một thanh gỗ dày để làm cột mất nhiều thời gian, Gôriunôp nói với các bạn mình:

- Chúng ta hãy chứng tỏ cho họ biết những người da trắng có thể làm được những gì?

- Phải, - Gôrôkhôp đồng ý.

Bốn người tìm rìu của mình và bắt đầu làm việc. Gỗ mảnh bay rào rào sau mỗi nhát rìu, rìu cắm sâu vào gỗ, và người Ônkilôn làm mất nửa ngày bằng rìu đá thì rìu sắt chỉ làm mất mười lăm phút.

Khi tiếng rìu của người da trắng bắt đầu bổ chan chát vào những khúc gỗ thì những người Ônkilôn dừng tay và đứng xúm xít xung quanh. Mắt họ đầy vẻ thán phục, họ chép miệng và ngạc nhiên kêu lên về sự nhanh chóng của công việc. Lúc đó những người đàn bà đã đào được bốn hố không sâu. May mà đất mềm nên họ đào đất bằng dao và lấy tay bới, cùng thời gian ấy bốn cột và những cái kèo đã được làm xong.

- Thật đáng tiếc, chúng ta không có một cái mũi khoan để khoan lỗ và đóng chốt, - Gôrôkhôp than phiền.

- Hoặc một cái đục để đục một cái lỗ trên cột cho kèo vào, - Gôriunôp nói thêm.

- Phải, đúng như vậy. Bởi vì nếu chúng ta bị một trận động đất nhẹ thì toàn bộ cơ cấu có thể trở nên ọp ẹp và kẹp chặt chúng ta như trong một cái bẫy, - Oocđin nói.

- Anh có nghĩ rằng có thể có một trận động đất không? - Côxtiacôp hỏi.

- Chắc chắn là tôi đã nghĩ đến. Đừng quên rằng chúng ta đang ở trên miệng một núi lửa chưa tắt hẳn như những suối nước nóng trong hồ đã chứng minh.

- Nhikita, xin anh hỏi hộ, liệu động đất có xảy ra ở đây không? - Gôriunôp nêu lên,

Câu trả lời đã được khẳng định: những người Ônkilôn qua nhiều thời gian thử thách động đất ở vùng đất này, phần lớn là nhẹ ít có tai họa. Những người già đã từng nhớ lại là trong thời thơ ấu của họ đã xảy ra trận động đất khá mạnh, phần lớn các nhà ở bị phá hoại, đã có tới hàng hai chục người bị đè chết vì không chạy kịp ra ngoài.

- Nào, chúng ta làm sao trong mọi trường hợp xà có bị gãy cũng không thể bị đè bẹp, - Oocđin đề xuất ý kiến.

Gần trưa, bốn cái cột đã được dựng lên và có kèo làm cho vững chắc. Sau bữa cơm trưa, các nhà du hành cùng với người Ônkilôn đi chặt những cây gỗ nhỏ dùng làm rầm, bởi vì công việc này cũng được tiến hành chậm. Một cây gỗ đường kính chỉ độ mười hay mười hai phần mà một người Ônkilôn phải mất hơn một giờ mới quật ngã nó, trong khi dùng một cái rìu sắt chỉ cần năm phút là đủ làm cho nó gục. Đến chiều, người ta đẵn được khá nhiều gỗ và chở về đồng cỏ.

Ngày hôm ấy, những tin tức ti mi về sự xuất hiện của người da trắng đã bay đi khắp trại của người Ônkilôn và đến chiều, những nhóm chiến sĩ ở gần nhất bắt đầu đến. Họ muốn xem những người khách lạ đã mệt mỏi sau một ngày làm việc và nghỉ lại trong nhà. Phút chốc, nhà chật ních người. Nhưng những người mới đến có vẻ trang nghiêm. Họ hỏi han dân chúng, nhìn các nhà du hành và trao đổi cảm tưởng. Theo yêu cầu của Amnunđac, rìu và dao được truyền tay để xem bởi vì mọi người chú ý đến công việc nhanh chóng của khách. Nhờ họ mà ngôi nhà bình thường phải mất một tuần lễ mới dựng xong thì nay đã gần dựng xong trong một ngày.

Những người mới đến ở lại trong nhà cho đến bữa ăn chiều. Cuối cùng, họ nghỉ đêm quanh những ngọn lửa trên đồng cỏ.

Amnunđac lợi dụng sự có mặt của phần lớn các chiến sĩ Ônkilôn để chuẩn bị một cuộc săn tê giác ngày hôm sau, họ hy vọng vào mấy cái chớp của người da trắng. Những con tê giác ít khi rơi xuống hố, giáo và tên của người Ônkilôn cũng không đâm thủng lần da dày của chúng. Loại da này được các chiến sĩ đánh giá rất cao vì đó là chất tốt nhất dùng làm khiên để đề phòng những cái lao của người Vampu.