CUỘC SĂN TÊ GIÁC
Sáng hôm sau, với sự giúp đỡ của nhiều chiến sĩ thuộc những trại khác, căn nhà mới làm xong trong mười lăm phút sau.
Để cho các bà lợp cỏ và dọn dẹp bên trong, tất cả các chiến sĩ, được Amnunđac và các nhà du hành dẫn đầu, lên đường đi sâu về phía đông, cách đây một vài cây số có một gia đình tê giác đã bị phát hiện mấy hôm trước. Các chiến sĩ gồm hơn một trăm người vội vàng đi dọc theo bìa rừng một cách lặng lẽ. Họ bao vây khoảng trống có những con vật đang ăn cỏ. Người thủ lĩnh và khách du hành đứng gần con đường mòn, nơi con tê giác sẽ bị xua đuổi. Khi mọi người đã đứng ở vị trí của mình, Amnunđac ra hiệu lệnh, các chiến sĩ bắt đầu dùng gậy gõ vào thân cây và hô lên thật to. Bị phục kích bất ngờ, những con tê giác chạy quanh giữa quãng trống tìm đường tẩu thoát, nhưng ở đâu chúng cũng bị chặn lại bằng tiếng thét dữ dội của những kẻ thù mà chúng không thể thấy. Cuối cùng, chúng đến gần chỗ các thợ săn. Bốn phát súng nổ rền. Con tê giác đực ngã khuỵu xuống, nó lại vọt lên, chạy về phía bìa rừng và ngã vật xuống đất. Con cái cùng với con con chạy theo hướng ngược lại và gặp đám người Ônkilôn đã nhô ra khỏi rừng khi nghe thấy tiếng súng. Bây giờ thấy được kẻ thù, không đếm xỉa đến những tiếng reo hò vang động, những mũi giáo và những mũi tên tua tủa, nó chạy thốc qua vòng người, húc đầu vào một chiến sĩ, làm anh này bắn tung lên rồi biến vào rừng. Con tê giác bé mới sinh được ít lâu, không thể chạy kịp mẹ nó nên đã bị chó chặn lại. Chúng cắn vào lớp da hai bên sườn nó. Nhưng các con chó có thể bị con tê giác làm hại, nếu những người Ônkilôn không chạy tới dùng giáo để kết liễu đời con vật.
Toàn bộ cuộc săn kéo dài mười lăm phút nhưng chỉ bị một tổn thất: người chiến sĩ bị con tê giác cái húc bị gãy chân khi rơi xuống. Tuy nhiên điều này không làm cho những người thợ săn mất vui. Người bị thương được đặt lên một cái cáng làm bằng da con tê giác con rồi được đưa đến chỗ ông thầy cúng, ông này cũng là thầy thuốc của người Ônkilôn. Những người ở lại lột da con tê giác và chỉ trong nửa tiếng đồng hồ, chẳng còn gì ngoài bộ xương, ruột và dạ dày, phần còn lại người ta cắt ra thành khúc và chở về trại.
Khi các nhà du hành trở về để ăn bữa trưa, họ thấy ngôi nhà đã làm xong, chỉ còn thiếu da để lót chỗ ngủ và thiếu các bà nội trợ. Da thì Amnunđac có thể lấy trong kho cung cấp được, nhưng vợ thì phải đợi chọn trong hội mùa xuân, tổ chức trong ba ngày. Các nhà du hành quyết định dùng thời gian từ đây đến ngày hội để thăm căn cứ của họ, thăm Nhikiphôrôp, đồng thời đi lấy một số đồ dùng. Nhưng họ đã thỏa mãn sau cuộc thương lượng kéo dài nhằm thuyết phục Amnunđac cho phép họ đi thăm, không cần có đơn vị lớn mà chỉ cần hai chiến sĩ hộ tống.
Sáng hôm sau, các nhà du hành ra đi. Họ chọn một con đường dọc theo rìa phía tây thung lũng nhằm nghiên cứu kỹ hơn. Họ đi dọc theo bìa một khu rừng nhỏ có những cây bạch dương Bắc cực và thấy nhiều dấu chân tuần lộc. Ở đây, họ thấy bầy tuần lộc của bộ lạc Amnunđac có người canh giữ đang gặm cỏ trên cánh đồng rêu kéo dài giữa các tảng đá và các bụi cây nhỏ.
Tuần lộc là những con vật duy nhất được nuôi trong nhà người Ônkilôn. Chúng cung cấp cho họ sữa, thịt và da. Thứ săn được như chim, thú và cá trong hồ là thứ bổ sung cho các sản phẩm chăn nuôi; còn củ ấu trụi và củ mac-ta-gon phụ nữ lấy trong hồ hoặc hái ngoài đồng, làm rau ăn cho bộ lạc ưa chuộng hòa bình này, chỉ có người Vampu láng giềng là hay gây chiến với họ. Người Vampu sống bằng săn bắn là chủ yếu và không giống người Ônkilôn. Họ giết nhiều dã thú. Vì thế nên những con thú phần nhiều đi về phía nam thung lũng. Ở đây chúng bị săn ít hơn, còn người Vampu thì cướp phá lãnh thổ của người Ônkilôn, giết cả những con tuần lộc họ nuôi. Đó là lý do chính của mỗi hiềm khích giữa người Ônkilôn và người Vampu, những người này buộc họ phải phát triển lối sống thời chiến. Ngoài ra, mỗi khi có dịp, người Vampu lại bắt cóc đàn bà con gái, những người này nếu không thoát được thì sẽ chóng chết vì bị đối xử tàn tệ, vì những điều kiện khó khăn của đời sống nguyên thủy. Dĩ nhiên trường hợp này không làm cho người Ônkilôn và người Vampu sống hòa bình, họ không bao giờ ngừng xung đột.
Ở phía này, xung quanh thung lũng có những vách đá ba-dan cao và không vượt qua được. Những lớp đá ba-dan xốp hoặc thậm chí giống than xỉ nằm xen kẽ giữa những tảng đá vững chắc có hình thù giống những cái trụ lục giác, độ dày và độ dài cũng thay đổi. Đây đó, những hang hốc há miệng đen ngòm. Bầy sơn dương hoang tìm chỗ ẩn nấp ở đây, Rõ ràng, núi lửa khổng lồ đã từng xuất hiện ở Vùng đất Xannhicôp và đã hoạt động rất lâu, tung các dòng phún thạch ra khắp nơi trước khi lòng núi lửa sâu xuống và tạo thành một cái lòng chào sâu hoắm, có những dòng suối nước nóng, dấu hiệu cuối cùng của hoạt động núi lửa. Phún thạch lắng đọng và chứa đựng nhiều canxeđôn, mã não, xacđônich và đá có nửa ôpan. Các chiến sĩ đi cùng với các nhà du hành nói rằng từ những chất lắng đọng này, nhân dân họ có được những hòn đá màu dùng để trang sức cho phụ nữ. Những miếng đá màu lớn hơn được dùng làm đầu tên, đầu giáo, mặc dầu họ thích xương hơn vì dễ làm.
Sau chuyến đi mệt mỏi và may mà mặt trời xuống rất chậm, ngày dài ra, các nhà du hành đã đến căn cứ. Ở đây, họ thấy Nhikiphôrôp nướng thịt trên ngọn lửa. Người Côdắc kinh ngạc nhìn hai chiến sĩ đã cùng đến với bạn mình. Và đến lượt họ, người Ônkilôn lại ngạc nhiên khi nhìn cái lều làm trong tuyết, họ lấy làm lạ không hiểu sao người ta lại thích sống trên tuyết hơn là trong rừng. Họ cũng chú ý cả những hang chó, nhưng người ta không cho họ xem xe trượt tuyết và xuồng. Các nhà du hành không muốn để lộ phương tiện chuyên chở qua băng nên người Ônkilôn tin rằng người da trắng sống trong một xứ sở đầy tuyết, mà vật chuyên chở của họ là chó.
Đêm ấy các chiến sĩ nghỉ lại ở ven rừng, họ tránh chỗ có tuyết. Còn các nhà du hành thì ngủ trong lều. Trước lúc trời sáng, những con chó ngủ ở lối ra vào bỗng sủa ầm ĩ, phá tan cảnh yên lặng của đêm khuya. Nhikiphôrôp nhìn ra ngoài lều và thấy bóng dáng một con gấu lớn. Nó dùng chân sau để đuổi ba con chó đang quấy rối nó và dùng móng để cào những tảng băng chất đầy lối vào buồng chứa đồ, ở đây có da, sọ và thịt thú vật. Người Côdắc đánh thức bạn dậy và cầm súng chạy ra ngoài. Như thường lệ, sương mù dày đặc thung lũng, các nhà du hành phải gọi chó ra để tránh bắn phải chúng. Nghe tiếng người, con gấu liền dựng hai chân sau lên và tiến về phía họ. Trong bóng đêm và sương giá, trông nó to lớn, lớn hơn cả người. Nó chỉ còn cách lều hai hoặc ba bước, hai phát súng bắn đúng vào ngực con gấu. Con gấu lảo đảo, rống lên một tiếng và ngã xuống lối vào hang.
Lúc ấy, Nhikiphôrôp nhảy tránh ra một bên, còn Gôriunôp thì quay vào lều. Ở đó, Gôrôkhôp và Oocđin đang sờ soạng tìm súng trong bóng tối. Con gấu giãy giụa rung rung móng và làm tảng băng rơi lả tả. Có tiếng chó sủa, từ trong hang gần 30 con chó khác cùng sủa theo. Tình thế trong lều đã trở nên gay go. Con gấu đã nhoài về phía người được một chút và những nhà du hành túm tụm với nhau, cách móng con gấu không xa. Họ không thể trốn vào đâu được. May thay, Nhikiphôrôp giữ được bình tĩnh: nạp đạn nổ vào súng, thừa cơ bắn liền một loạt. Con gấu giãy giụa một lúc rồi nằm im.
Trong lúc này tiếng động và tiếng súng làm cho người Ônkilôn chú ý. Họ chạy đến, tay cầm những bó đuốc. Cả bảy người cùng kéo con gấu ra khỏi lối ra vào. Gấu nặng đến nỗi ngay những người Ônkilôn cũng phải ngạc nhiên. Khi săn gấu, người Ônkilôn phải tập hợp rất đông và ít khi trong cuộc săn không có một hoặc hai chiến sĩ bị chết hoặc bị thương nặng. Vì lẽ đó, họ cho rằng răng gấu rất có giá trị và ít chiến sĩ đã đeo răng gấu vào vòng cổ.
Trời đã bắt đầu sáng, mọi người không ngủ được nữa, họ cùng lột da và làm thịt gấu. Nhikiphôrôp lấy một phần thịt lớn cho chó, còn da thì các nhà du hành quyết định dùng để trang hoàng căn nhà của họ. Họ nói khéo với các chiến sĩ mang da về trại của thủ lĩnh và hứa sẽ đi theo các chiến sĩ. Bằng cách này, họ tránh không cho các chiến sĩ đi theo họ trong ngày hôm ấy, vì họ dự định vào lãnh địa của bọn Vampu để quan sát bọn người dã man này trước lúc cùng đi chiến đấu với người Ônkilôn như Amnunđac đã đề xuất.