← Quay lại trang sách

NGHĨA ĐỊA CỦA NGƯỜI ÔNKILÔN

Các chiến sĩ ngồi quanh đồng lúa, trao đổi với nhau và với những người phụ nữ về tiến trình và các giai đoạn của cuộc chiến đấu, ca ngợi sấm và chớp của người da trắng. Nhờ có sự giúp đỡ của các nhà du hành, họ có thể tiêu diệt trại Vampu mà tổn thất rất ít. Cứ mười tên Vampu chết thì mất một người Ônkilôn và lấy lại được hầu hết những cái đã bị cướp đi. Trong những trận đánh trước đây, một người Ônkilôn chỉ đổi được hai hoặc nhiều lắm là ba người Vampu, lần này người Vampu đã được một bài học phải nhớ đời.

Các nhà du hành cùng với Amnunđac, Annuia và người đàn bà được cứu, ngồi riêng quanh đống lửa. Gôrôkhôp tả lại cho Annuia về trận đánh.

Gôriunôp hỏi chuyện người đàn bà bị bắt. Khi bị bắt, bà ta đã học được một ít ngôn ngữ của người Vampu và hiểu đôi chút về đời sống của người dã man. Bà ta nói rằng người Vampu sống thành một gia đình và không có quan hệ cá nhân lâu dài giữa nam và nữ, tất cả những người đàn bà thuộc về tất cả những người đàn ông và những đứa trẻ đều là con chung. Đôi khi có người đàn ông trốn đi cùng với một người đàn bà và sống riêng biệt với nhau trong rừng, nhưng những người khác không bao giờ lại chấp thuận một trường hợp như vậy và cuối cùng, người đàn ông bị giết và người đàn bà phải quay về hang. Cuộc sống của đàn ông, chủ yếu là săn bắn, ăn uống và làm vũ khí: gậy, giáo, đồ dùng để nạo. Những người đàn bà thì nhặt củi, nạo da, bện thừng, nhưng họ có nhiều thì giờ nghỉ ngơi. Họ ngồi uể oải quanh đống lửa, hoặc tắm nắng hay ngủ gà ngủ gật hàng giờ. Thường thường, người Vampu ăn thịt sống hoặc chỉ nướng qua quýt và cứ sau một cuộc săn bắn có kết quả thì họ ăn uống thỏa thuê. Khi không còn thịt để ăn thì họ nhịn đói liền mấy ngày hoặc đào rễ cây hay bắt ốc sên, bọ cánh cứng và nhái để ăn. Họ ngủ cạnh nhau, chân để gần lửa, đặt lên tấm da hoặc chỉ để trên mặt đất và gối đầu bằng một hòn đá. Sau một cuộc săn bắn và một bữa cỗ thịnh soạn, họ nhảy múa quanh ngọn lửa cho đến khi kiệt sức hoặc cho đến khi đánh lộn nhau chỉ vì một chuyện nhỏ nhặt. Tin có thần đá, thần rừng và thần nước, họ không bao giờ dám mạo hiểm ra khỏi hang một mình vào ban đêm. Thần của họ là gấu và con vật lớn có cái chân thứ năm trên đầu và có những cái ngà lớn, người đàn bà hay hái nấm và đào rễ cây cho nó.

Sau bữa cơm chiều, các chiến sĩ đi ngủ, những người đàn bà lễ những người chết, thi hài họ được xếp thành hàng gần đống lửa, hai bên tay đặt giáo và cung, che hai đầu gối là một cái khiên. Những người đàn bà xõa tóc, cởi những vòng cổ và dây đeo tay, lấy tay úp lên mặt, lầm rầm kể lể về những chiến công hiển hách của những chiến sĩ đã chết. Trong khi than vãn, họ ngồi ở phía trên đầu người chết và lắc lư nhè nhẹ. Con Cơrốt và con Belukha sủa vang làm cho những người đàn bà ngạc nhiên. Họ cho rằng những con vật khôn ngoan này cũng đồng cảm với họ. Các nhà du hành bắt chó im, rồi đi ngủ, bên tai còn văng vẳng bài truy điệu.

Cũng như mọi ngày, buổi sáng lại bắt đầu trong màn sương mù dày đặc, qua đó, những ngọn lửa chỉ mờ mờ. Những người đàn bà thôi không cầu nguyện nữa, họ đang nấu bữa ăn sáng. Mười con tuần lộc đã bị làm thịt để cung cấp thức ăn cho khách. Khi sương mù bắt đầu dâng cao và mặt trời ló ra thì ông thầy cúng và học trò của ông ta tìm đến. Người chết được đặt trên những cái cáng và đoàn chiến sĩ lặng lẽ băng qua khu rừng đi về phía tây. Đám tang lặng lẽ, chỉ nghe thấy tiếng trống diễu hành ngân vang trên đồng cỏ như để báo tin cho tất cả các trại. Đàn bà và trẻ con không có mặt trong đám tang.

Cách trại khoảng mười cây số, đi về hướng tây của rìa thung lũng, nơi giữa những tảng đá lớn là nghĩa địa chính của người Ônkilôn. Trong nghĩa địa có nhiều ngôi mộ nhỏ làm bằng đá có cắm giáo trên mộ, ngọn giáo chĩa lên trời. Ở những ngôi mộ cũ hơn thì thi hài đã rữa nát và ngọn giáo đã nghiêng đi hoặc đổ xuống. Trên những nấm mộ xa nhất, thậm chí người ta không còn thấy dấu vết gì nữa, những hòn đá đều phủ đầy rêu.

Thi hài người chết được đặt trên mặt đất, các chiến sĩ bắt đầu chuẩn bị chôn; họ vất đá về một bên để làm thành cái hố sâu khoảng một mét. Khi huyệt đã đào xong, tử sĩ được đặt xuống huyệt, chân duỗi về phương nam, hai tay đặt xuôi hai bên sườn, cái cung được đặt một bên, còn bên kia đặt bao đựng tên, mặt anh ta phủ một tấm da, giáo của anh ta đặt trên đầu và mộ được lấp đầy đá. Sọ và xương của những đứa trẻ mang từ hang người Vampu về được đặt vào một huyệt chung không được trang hoàng.

Vừa lúc ấy, ông thầy cúng trèo lên tảng đá lớn ở trung tâm nghĩa địa, đánh trống lục lạc và lâm râm khấn để đuổi ma quỷ ra khỏi cái huyệt mới đào, người chết được yên giấc nghìn thu. Các chiến sĩ không phải đào huyệt thì quây quần lại để xem. Họ tựa người vào cây giáo của họ. Khi huyệt đã lập xong, tất cả các chiến sĩ trăm người như một đều giơ tay lên rồi lại hạ tay xuống, che lấp mặt và lầm rầm khấn vái, giọng kéo dài, rất quen thuộc đối với các nhà du hành, nhưng ở đây, vang lên từ 500 cổ họng và sau đó các vách đá dội lại, nó tạo nên một ấn tượng sâu sắc. Họ khấn ba lần, sau đó rời nghĩa địa đến bìa rừng và ngồi xuống để nghỉ.

Nhân cơ hội này, các nhà du hành quan sát quanh thung lũng. Sương mù đã tan và mặt trời buổi sáng đã tỏa ánh nắng rực rỡ trên những vách đá và trên những mô đất đen cao cao. Các nhà du hành có thể thấy những đỉnh núi nhọn hoắt phủ tuyết trắng xóa, có một vài thác nước nhỏ chảy từ trên các vách đá xuống. Thỉnh thoảng một mảng tuyết tan trượt từ trên vách núi xuống và rơi lả tả trên mặt đất. Một đôi đại bàng đang bay trên bầu trời xanh, lượn qua vách đá để rình bắt một con cừu non dại dột hoặc một con tuần lộc con lạc mẹ. Một không khí yên lặng, chết chóc đang ngự trị, nhiều nấm mộ với những hòn đá phủ rêu xanh, vàng hoặc hoe đỏ ở giữa bức tường đen khổng lồ với những diềm mấp mô trắng và một dải rừng xanh dưới bầu trời quang đãng, tạo ra một cảnh tượng uy nghi. Những người chết đã rời bỏ những khu rừng và đồng cỏ xanh tốt, nơi mà họ đã sống, đã yêu đương và chiến đấu để nằm dưới vách đá đen ngòm trên đó người ta mơ ước được vẽ lên cho mình một cách bất đắc dĩ dòng chữ kiêu hãnh: “Đây là vương quốc của hòa bình vĩnh cửu”.

Dưới chân vách đá, đối diện với nghĩa địa, các nhà du hành thấy một cái hang lớn, cửa hang bị một bức tường đá chắn ngang. Amnunđac nói rằng có lần cái hang này là sào huyệt của một bầy Vampu đông đúc, một trận chiến đấu ác liệt mà nhiều người Ônkilôn bị giết đã diễn ra ở đây. Bây giờ bọn Vampu đã bị tiêu diệt không còn một mống, nhưng chiến trường đã trở thành nghĩa địa của các chiến sĩ, bởi vì những người Ônkilôn sống sót chỉ có thể mang đi những người bị thương. Từ đó, tất cả các chiến sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu với bọn Vampu đều được chôn ở nghĩa địa này.

- Người da trắng, các ông thấy đấy, - Amnunđac kết luận, và chỉ tay vào nhiều ngôi mộ, - có bao nhiêu chiến sĩ dũng cảm đã chết bởi bàn tay bọn Vampu. Bây giờ các ông có thể hiểu tại sao chúng tôi ghét chúng như vậy. Chúng tôi không thể sống yên ổn nếu còn một tên Vampu trên đất nước chúng tôi.

Trong hang, xương và sọ người đã gần mục nằm rải rác; gấu, chó sói và đại bàng đã ăn no sau khi những người Ônkilôn thắng trận đi khỏi, để lại xác người Vampu trong hang. Xét đặc điểm của xương, thì cuộc chiến đấu phải xảy ra một vài thế kỷ trước. Khi các nhà du hành sờ tay vào thấy nhiều xương đã mủn. Nhưng những ngọn giáo bằng đá lửa, những cái nạo, những con dao nằm la liệt khắp nơi vẫn được bảo vệ tốt. Các nhà du hành thu thập tất cả dụng cụ của thời nguyên thủy. Như vậy hang này là một nghĩa địa thứ hai, trong cảnh tranh tối tranh sáng, ẩm ướt, dưới những vòm đá lơ lửng trên cao, phủ đầy bồ hóng của những ngọn lửa đã cháy trong nhiều năm.

Nhìn quanh hang, các nhà du hành không thể không nghĩ rằng, cuộc sống mà những người tiền sử nửa người nửa thú này đã trải qua thật khốn khổ; họ đã chiến đấu cho sự tồn tại của họ bằng công cụ nguyên thủy, khi thì chết đói, khi thì ăn uống nhồi nhét như súc vật. Họ tránh rét trong những chỗ ẩn nấp tối tăm, tranh giành hang gấu dữ hoặc các hang loài linh cẩu. Suốt trong đêm dài Bắc cực, họ run rẩy trong những tấm da cứng và thô, giết thời gian bằng sự ăn uống, ngủ nghê hay đẽo đá để làm vũ khí. Rõ ràng là đời sống của những người Ônkilôn hạnh phúc và vui vẻ hơn nhiều. Họ cũng là dân tộc của thời đồ đá, nhưng họ có quần áo, đồ dùng, nghi lễ và hội hè, họ sống trong rừng và trong các đồng cỏ, họ có những nhà ở sáng hơn và ấm hơn. Họ biết thay đổi thức ăn, đẽo xương và mặc quần áo da, họ đã có những bầy tuần lộc nuôi trong nhà. So sánh về mặt hình thức thì thân hình của người Ônkilôn và người Vampu, đặc biệt là sọ thì đã chỉ ra rằng loài người đã đi xa trong sự phát triển của mình tới hàng chục ngàn năm. Thời kỳ đồ đá cũ trôi qua, thời kỳ đồ đá mới thay thế.

Giống như di chứng của những con vật đã chết hoặc đã bị tiêu diệt ở nơi khác, người nguyên thủy sống sót trên Vùng đất Xannhicôp vì bị tách ra khỏi phần còn lại của thế giới, nơi mà tất cả đang biến đổi và hoàn thiện, bởi một hàng rào băng và do sự cách biệt đó mà sự phát triển của người nguyên thủy dừng lại ở một trình độ rất thấp. Người Vampu sống như tổ tiên của họ ở thời kỳ xa xưa khi nơi này tách ra khỏi đất liền và bị băng giá bao bọc; ở đây khí hậu không thay đổi và có nhiều thức ăn. Trước khi người Ônkilôn đến đây, không có động lực nào thúc đẩy để đời sống họ phát triển tốt hơn.

Nhờ Amnunđac mà các nhà du hành biết rằng người Vampu đã vay mượn một vài kỹ xảo của người Ônkilôn, xưa kia thậm chí họ cũng không biết đốt lửa, về mùa đông, họ sưởi gần những suối nước nóng, làm những chỗ trú ẩn bằng đá. Khi họ biết đốt lửa thì họ bắt đầu nghỉ đông trong hang. Hang che chở cho họ khỏi lạnh lẽo và tuyết tốt hơn suối nước nóng. Rồi họ bắt đầu nướng thịt, mặc dầu họ vẫn còn ăn thịt sống. Họ tập làm những chén bằng gỗ thô sơ, khâu chăn và áo choàng bằng da để qua mùa lạnh, họ cũng làm những mũi giáo bằng xương, nhưng vẫn thích dùng đá lửa, vì đá lửa chắc hơn.

Amnunđac không thể trả lời Oocđin khi anh ta hỏi người Vampu lấy đá lửa ở đâu. Những người Ônkilôn không biết việc này, ông ta nói rằng họ dùng xương hoặc những miếng canxeđôn, mã não hoặc xacđônich lấy từ đá ba-dan nằm dọc theo rìa thung lũng. Phải mất nhiều thời gian để làm các mũi giáo từ thứ nguyên liệu này và công việc đó được làm trong suốt đêm dài Bắc cực, dưới ánh sáng của một ngọn lửa trong nhà. Không có đá lửa trong ba-dan và các nhà du hành buộc phải tin rằng trong lãnh thổ của người Vampu, có một số đá khác, chẳng hạn đá vôi hoặc đá phấn thường chứa những chất lắng đọng của đá lửa. Điều này làm họ nghĩ đến một cuộc thám hiểm mới sâu vào lãnh thổ người Vampu.

Sau khi đã quan sát hang, các nhà du hành và Amnunđac lại đến chỗ các chiến sĩ đang chờ. Người thủ lĩnh cho họ giải tán và một vài người có trại ở gần đây tản về nhà, còn một số khác ở phía nam thì cùng Amnunđac đi dọc theo rìa thung lũng. Điều này làm cho các nhà du hành có dịp thấy được những địa điểm mới. Nhìn chung, quang cảnh dọc đường đơn điệu nhưng thỉnh thoảng cũng có một vài nét đặc biệt: khi thì gặp những vách đá cao vút như tạo thành một bức tường hầu như dốc đứng dưới chân có những đống tuyết tan và thỉnh thoảng lại có tuyết lở, khi thì gặp những vách đá vỡ thành những đường gờ cao thấp khác nhau làm chỗ ẩn nấp cho những con cừu hoang màu nâu sơn dương lại hiện ra, khi thì gặp một khe nứt hẹp, tạo thành một hành lang giữa các vách đá lơ lửng. Những chỗ lồi ra có chóp nhọn hoắt và những tảng đá mà mưa gió đã tạo ra những hình thù quái dị giống con người hoặc con vật, chạy dài từ chân vách đá lên đến đỉnh. Nhưng những khe nứt này chỉ có bầy sơn dương mới leo lên được, không người nào dám mạo hiểm trèo lên. Đây đó, một mảng đá lớn có nước chảy xuống, phình ra ngoài giống như dạ dày một con quái vật. Ở độ cao hàng trăm thước, một thác nước lấp loáng do tuyết trên các đỉnh núi tan, từ một cái hốc trong bức tường dốc đứng chảy thành hình vòng cung và đổ xuống phía dưới. Khắp nơi chỉ có đá ba-dan. Đá rắn chắc, hoặc xốp và có hình thù của phún thạch, chỗ thì đen như than, chỗ thì có hình ngũ sắc mà người Ônkilôn rất thích, rất quý, dùng để làm đồ trang sức cho phụ nữ và làm vũ khí.

Gôrôkhôp thấy một con sơn dương hiện lên trước một hòn đá đen trên một cái gờ hẹp cách mặt đất hai trăm mét, con vật như cảm thấy bình yên, không sợ những sinh vật hai chân đang bò bên dưới.

- Trong số các chiến sĩ của ông, người nào có thể bắn rơi con cừu kia bằng cung nỏ? - Gôrôkhôp hỏi Amnunđac.

Người thủ lĩnh lắc đầu và nói:

- Xa quá, tên của chúng tôi không bay tới được.

- Thế mà chớp của chúng tôi có thể bắn được đấy. Chúng ta sẽ có một con sơn dương để ăn bữa chiều.

Amnunđac đo khoảng cách bằng mắt và lại lắc đầu.

- Này, Nhikita làm một phát để mở mày mở mặt với người Ônkilôn chứ! - Gôriunôp nói, giọng khuyến khích.

Gôrôkhôp lắp đạn, quỳ một bên gối xuống. Để ngắm cho chắc, anh ta đặt súng lên một chạc cây trong bụi. Con cừu trông chỉ như một chấm nâu, không rõ. Amnunđac và các chiến sĩ tập hợp xung quanh Gôrôkhôp và chờ. Anh chàng Iacut phải mất một thời gian lâu để ngắm. Cuối cùng, anh ta bắn. Tiếng súng vang vọng giữa các vách đá. Chấm nâu lảo đảo, lao tới; con sơn dương ngã xuống, sừng nó đập vào phần nhô ra của vách đá. Nó nảy lên như một quả bóng, cặp sừng to và bốn chân cong tung lên. Cuối cùng, con sơn dương đâm sầm xuống chân vách đá. Người Ônkilôn reo ầm lên và chạy đi tìm.

- Chớp của người da trắng phóng từ xa và không người nào có thể tránh được, - Amnunđac nói. - Nếu người Ônkilôn có mười cái chớp như vậy thì sẽ chẳng còn một tên Vampu nào trên đất chúng ta khi mặt trời trốn mất trong mùa đông.

Trên đường đi, hết nhóm người Ônkilôn này đến nhóm người Ônkilôn khác rẽ vào rừng, đi về phía trại của họ. Cuối cùng, nhóm người đi sau từ giã họ. Đi qua căn nhà trát bùn của ông thầy cúng và đưa cho ông ta đầu con sơn dương, các nhà du hành về đến khoảng đất trống gần nhà họ. Annuia từ nãy đến giờ vẫn đi với họ, giờ vội chạy về chỗ ngôi nhà trát bùn để được gặp chồng mình ngay trên ngưỡng cửa cùng những người đàn bà khác theo đúng phong tục của người Ônkilôn.