CUỘC SĂN ĐUỔI NHỮNG NGƯỜI ĐI SĂN
Các nhà du hành ở hơn một tuần trong nhà để nghỉ ngơi sau chuyến đi thám hiểm người Vampu và học tiếng Ônkilôn. Nói chuyện với những người đàn bà thì việc đó không khó khăn lắm. Quanh ngọn lửa hồng, họ vừa uống trà, hút thuốc, vừa học tiếng một cách vui vẻ, thỉnh thoảng lại pha trò và cười rộ lên. Những người đàn bà cũng học tiếng Nga và chỉ cuối tuần là cả hai bên đều có thể hiểu nhau. Nghe những tiếng cười hấp dẫn từ ngôi nhà trát bùn, thỉnh thoảng Amnunđac lại đến thăm những người da trắng, nhưng khi ông ta đến, những người đàn bà xử sự một cách đứng đắn và các nhà du hành giữ vẻ trang nghiêm.
Bây giờ đã là đầu tháng sáu và mặt trời không biến mất bên kia chân trời mà đứng lơ lửng ở ngoại vi phía bắc vào lúc nửa đêm. Trong vòng một hai giờ, nó khuất sau một cái màn giống như những đám mây trắng hay màn sương dày đặc, trời mờ mờ tối. Các nhà du hành thường ngủ vào giờ này. Nhưng một hôm, Gôriunôp ra ngoài và nhận thấy hiện tượng này, anh gọi các bạn.
Những người đàn bà bảo với họ rằng, họ rất quen với hiện tượng này và giải thích rằng ở phía đó “rất nhiều hơi nước bốc lên như từ một cái nồi xúp de đang sôi hoặc từ một cái ấm to”. Điều này làm cho các nhà du hành thích thú, họ quyết định đi sâu vào địa phận người Vampu và phát hiện nguyên nhân.
Nhưng trước hết họ phải đi thăm Nhikiphôrôp. Mọi người cùng đi, trừ Annuen phải trông nhà. Nhikiphôrôp không buồn chán về nỗi hiu quạnh của mình. Ngoài việc trông coi bầy chó, cho chúng ăn, anh ta còn dự trữ củi và thịt cho mùa đông, khi trời nắng, anh ta thái thịt thành miếng để phơi và treo thịt lên những dây da, nhưng phải canh không cho chim và chó tha đi. Bầy chó được anh ta cho chạy rông suốt ngày. Thỉnh thoảng anh chàng Côdac ấy lại giải trí bằng cách bắn một con đại bàng to gan dám cắp đi một miếng thịt, rồi treo con chim lên, con đại bàng trở thành thức ăn ngon lành của bầy chó. Các đống tuyết đã thấp đi rõ ràng, một lớp băng cứng được tạo ra trên mặt, thành thử muốn trèo lên thì trước hết phải làm những bậc thang trên mặt băng. Nhikiphôrôp cặm cụi làm việc này và thỉnh thoảng anh ta trèo lên quan sát mặt biển. Biển đã thay đổi rất nhiều trong tháng các nhà du hành sống trên vùng đất Xannhicôp. Dải nước không đóng băng đã mở rộng và khá gần nên có thể nhìn thấy được rất rõ. Thường có một đám sương mù nằm lơ lửng bên trên, nhưng trong những ngày sáng trời hoặc có gió thì sương mù tản ra và đảo Côtennưi có thể hiện ra ở chân trời, trên đảo vẫn còn tuyết và đây đó tuyết đang tan.
Khi trèo lên đỉnh các đống tuyết thì những người đàn bà chưa bao giờ trông thấy vùng phụ cận của vùng đất họ đang ở, họ vô cùng khiếp sợ, họ thấy sa mạc của băng tuyết trước mặt họ với tất cả vẻ uy nghi của nó và cảm thấy thương những người da trắng đã phải sống giữa tuyết gần suốt cả năm.
- Cho nên da các anh mới trắng như vậy, - họ nghĩ.
- Annuia, em nói với anh đi, em có muốn đi theo anh về phía nam, khi anh rời vùng đất này không? - Oocđin hỏi.
Annuia lắc đầu một cách cương quyết.
- Không, ở đó lạnh lắm, chỉ có tuyết và băng thôi. Anh nhìn xem, trên đất nước em đang là mùa hè ấm áp, nhưng ở đây lại là mùa đông.
- Vậy thì anh sẽ đi một mình và em sẽ trở thành góa bụa.
- Không, anh chẳng đi đâu, các anh sẽ sống ở đây như Amnunđac nói. Các anh đã hứa rồi cơ mà.
Phút chốc họ đã xuống đến chân đống tuyết, cơn gió mát từ cánh đồng băng thổi đến làm cho những người đàn bà cảm thấy rất lạnh vì ăn mặc quá phong phanh, và họ đều vui vẻ khi đến gần đống lửa nơi họ ngủ đêm. Vì đã tham gia cuộc thám hiểm này nên những người phụ nữ được thưởng gương và những chuỗi hạt do các nhà du hành lục tìm được trong đống đồ dự trữ ở căn cứ.
Lần này các nhà du hành lấy tất cả những thứ quà tặng mà họ mang theo để phòng khi gặp người Ônkilôn. Họ muốn tặng những thứ ấy cho những người ở trại Amnunđac. Những thứ họ mang đi bao gồm chuỗi hạt, gương, kim, khuy, băng tươi màu, nhẫn bằng đồng, hoa tai gắn kim cương giả, một vòng đeo cổ bằng san hô cho vợ Amnunđac, thứ này họ chắc sẽ làm cho những người đàn bà Ônkilôn phải mê; một vài con dao, một cái rìu và một cái cưa tay để lấy lòng cánh đàn ông và khiến Amnunđac phải cho họ một đoàn hộ tống mạnh trong chuyến đi sâu vào lãnh địa của người Vampu.
Về đến nhà được ba ngày và đến ngày thứ ba, họ nói chuyện rất lâu với Amnunđac để ông ta đồng ý cho họ đi lên phía bắc thung lũng.
- Chớp của các ông, - Amnunđac nói - sẽ giết chim, thú và người, nhưng bọn Vampu khôn ranh có thể tấn công các ông từ chỗ mai phục hoặc vào ban đêm khi có sương mù. Cho nên, tôi sẽ cho các ông mười hai chiến sĩ trẻ tuổi, dũng cảm nhất cùng đi, họ sẽ canh giấc ngủ cho các ông, mang hành lý cho các ông và tìm những con đường an toàn nhất.
Ngày hôm sau, một toán mười bảy người vũ khí đầy đủ cùng rời trại với một người đàn bà. Annuia nói khéo với Oocđin cho mình cùng đi và cũng mang theo một cái giáo, một cái cung và một bao tên, không chú ý rằng cánh đàn ông đang cười mình, và cánh đàn bà thì đe dọa. Cô ta muốn đi xem những chỗ mới, còn Oocđin thì muốn luyện cho cô ta quen với những chuyến đi để sau này cô ta về đất liền, anh rất thích cô ta và Annuia cũng thích anh.
Ngày thứ nhất, đoàn người đến khu trại đã bị bọn Vampu cướp phá. Ngôi nhà đã được xây lại và cuộc sống lại tươi vui như cũ, những người đàn bà đang bận rộn làm bếp còn bọn trẻ con chơi đùa vui vẻ, chỉ vắng ông bà già vì đã bị bọn Vampu tiêu diệt. Ngủ đêm ở đây, rồi họ đi xa hơn về phía bắc. Những cánh đồng cỏ có hồ xen với rừng cây ngày càng thưa và có ít thú dữ hơn. Đêm họ dừng lại trong một đồng cỏ trên bờ một cái hồ, trung tâm hồ có một cái bong bóng lớn cứ mười phút lại phồng lên một lần. Nước ấm đến nỗi các nhà du hành quyết định tắm. Trong khi các chiến sĩ đốt lửa và cắt thịt để ăn chiều thì các nhà du hành rời khỏi trại một quãng, nhanh nhẹn cởi quần áo và nhào xuống hồ. Tiếng nước làm các chiến sĩ chú ý, họ sợ hãi nhảy phắt ra xa. Họ không đến nỗi sợ nước như những người Mông Cổ không bao giờ tắm, mà như những dân tộc ở phương bắc là nơi nước rất lạnh, không quen tắm, vì thế họ nghĩ rằng, các ông phù thủy da trắng mà họ có nhiệm vụ chăm sóc định rời vùng đất của người Ônkilôn, và để làm việc ấy họ đã biến thành cá hoặc hải cẩu.
- Annuia, nhìn kìa, chồng cô và những ông phù thủy khác sắp biến mất, họ đã chui xuống hồ, - một chiến sĩ nói to.
Annuia đang bận nấu ăn, nàng bật dậy và chạy ra phía bờ. Các chiến sĩ chạy theo. Các nhà du hành đang bơi và chỉ có đầu họ lấp ló trên mặt nước.
- Kia kìa, kia kìa, họ đã biến thành hải cẩu, - các chiến sĩ kêu lên.
Nhưng Annuia có chút ít văn minh, cô biết rõ sau phút lo âu đầu tiên cô ta nhận ra Oocđin và cười những người Ônkilôn. Không ngờ họ càng ngạc nhiên hơn, khi thấy các nhà du hành trèo lên bờ và xoa vào thân thể, đầu tóc một thứ gì trắng như tuyết. Các chiến sĩ chưa bao giờ thấy xà phòng nên họ đều ngạc nhiên.
- Nhìn kìa, nước đang đóng băng trên người những ông phù thủy và đang biến thành tuyết! - họ nói với nhau.
Annuia cũng đã biết xà phòng là gì nên lần này cô làm cho họ an tâm và giải thích rằng các nhà du hành đang xoa xà phòng, nhưng các chiến sĩ chỉ bớt sợ khi những nhà du hành mặc quần áo và quay về chỗ đám lửa. Tất cả các chiến sĩ đều liếc nhìn họ, xem có sự thay hình đổi dạng nào không.
Trong khi cánh đàn ông ăn thì Annuia lấy bánh xà phòng và chạy ra hồ chọn một nơi riêng biệt. Không biết bơi, cô ta không dám ra xa và chỉ tắm gần bờ. Khi cô ta quay về, các chiến sĩ cười cô ta.
- Cô cũng xoa tuyết để trở thành da trắng như chồng cô à? Cô không sợ rơi xuống nước, ở đây thủy thần có thể tóm lấy chân cô và kéo cô xuống ư? Nhưng cô vẫn đen như trước! - các chiến sĩ chế giễu cô ta.
Về sau, Annuia thú thật với Oocđin rằng cô ta hết sức sợ hãi. Trong suốt thời gian ngâm mình trong nước, cô ta đã nghĩ rằng có kẻ nào muốn nắm lấy chân cô ta và kéo xuống. Giống như tất cả những người Ônkilôn, cô tin có ma quỷ sống trong nước, trong rừng, trong hang động và hoàn toàn tin rằng sương mù và bão tuyết cũng do ma quỷ gây ra. Nhưng cô muốn bắt chước chồng, nên mới đánh bạo lội xuống nước.
- Lần sau, em sẽ cùng tắm với anh, nhưng anh phải chi cho em thấy rằng anh làm thế nào để bơi được như một con hải cẩu, - cô ta nói.
Suốt đêm, có hai chiến sĩ cùng canh với Cơrốt và Belukha. Bầy chó đã quen với những người Ônkilôn, họ cho chúng những khúc xương ăn dở và những mẫu thịt thừa. Các chiến sĩ đánh giá cao sự tinh khôn của bầy chó và tiếc rằng tổ tiên họ đã không mang về một vài con như thế này ở vùng người Tructri.
- Tại sao họ không thể bắt và thuần hóa những con chó sói con nhỉ? - Gôrôkhôp hỏi.
- Chó sói không bao giờ bị thuần hóa, - Gôriunôp giải thích. - Điều duy nhất mà tôi có thể bảo đảm là có thể cho một con chó sói cái lai giống với bầy chó của chúng ta. Rủi thay, chúng ta lại không mang theo con chó cái nào.
Tuy người Ônkilôn không tin rằng việc đó có thể làm được, nhưng họ nói rằng bắt một con chó sói không khó.
Suốt ngày, đoàn người đi về phía bắc, khu rừng rất thưa, cây thấp, trên đồng cỏ chỉ có một lớp cỏ lơ thơ. Người ta thấy mấy con bò và mấy con ngựa rất cảnh giác, vì bị người Vampu săn đuổi, chúng đã biết cách trốn. Mặt khác, các nhà du hành thấy nhiều tê giác, tê giác đã làm cho người Vampu hoảng sợ, vì chúng không sợ giáo và gậy.
Trước lúc xế chiều, khi đến gần một cái bãi những người đi thám thính có chó dẫn đường đã ngăn đoàn người lại và báo tin rằng có tên Vampu. Các nhà du hành và các chiến sĩ nấp vào bụi cây để quan sát bọn Vampu.
Trên đồng cỏ có vài con bò đang ăn, có một con đứng cách xa hơn rõ ràng đang lim dim ngủ và miệng đang nhai lại. Năm hoặc sáu người Vampu đang bò lại gần nó từ phía sau bãi cỏ.
Khi người Vampu cách con bò khoảng hai mươi bước thì hắn rướn người lên phóng hai ngọn giáo, những người khác cũng đứng bật dậy, chạy đến nấp bên hông con bò, vung giáo lên và chuẩn bị phóng. Một trong những ngọn giáo phóng trúng con vật. Con bò rống lên vì sợ hãi và đau đớn. Thấy kẻ thù, nó liền xông vào, đầu cúi xuống, đôi sừng to lớn chĩa về phía trước. Bọn Vampu nhảy rạt ra một bên và con vật chạy vụt qua trước mắt chúng. Nó bị thêm hai mũi giáo nữa ở hai cạnh sườn. Nhưng giáo đều bằng đá lửa nên không cắm sâu được vào lớp da dày của nó, giáo rơi xuống đất. Con bò thở một cách giận dữ và quay tròn, bất ngờ nó xông tới một người đi săn và húc anh ta bắn lên trời, nhưng những người Vampu khác lại múa giáo vù vù làm cho con vật phải chú ý. Thấy mình bị tấn công tứ phía, con bò liền chạy trốn và phóng nhanh qua bãi cỏ để theo bầy, những người Vampu chạy đuổi theo, mặc dầu họ chạy nhanh nhưng vẫn tụt lại đằng sau và giáo của họ không có tác dụng gì đối với con vật đang chạy trốn.
- Bọn chúng săn không nổi đâu! - Gôriunôp nói. - Bây giờ chúng ta sẽ bắn con vật, tất nhiên không phải bắn giúp chúng.
Con bò đã chạy cách các nhà du hành khoảng hai trăm bước và bốn người Vampu chạy cách nó ba chục bước, người thứ năm vẫn nằm tại chỗ. Bọn Vampu chạy, bước rất dài. Mình cúi về phía trước, tóc rối bời bay phần phật trong gió, mỗi tên chỉ còn một cái giáo. Chúng hy vọng con bò sẽ yếu đi vì mất máu và chúng sẽ đuổi kịp. Bỗng con bò không chạy được nữa và lăn quay ra chết. Trong khi mải đuổi, bọn Vampu hoặc không nghe thấy tiếng súng hoặc không hiểu việc gì đã xảy ra. Chúng reo hò đắc thắng và chạy đến chỗ con vật, bắt đầu nhảy múa xung quanh nó để ăn mừng.
- Chúng ta cần phải xua chúng đi, - Oocđin nói. - Nếu không, chúng ta sẽ mất hết thịt bò.
- Phải, ngoài ra chúng ta phải mở một con đường đi về phía bắc và buộc những người dã man ở lì trong hang.
Gôrôkhôp giương súng lên bắn. Ban đầu, bọn Vampu đứng đờ dẫn tại chỗ, nhưng lát sau chúng kinh hoàng kêu lên và chạy lùi qua bãi cỏ. Tên Vampu bị con bò húc cũng khập khiễng trườn theo vết đồng bọn. Ngay lúc đó, những người Ônkilôn xuất hiện trên bãi cỏ và hò hét vang trời, để gây ấn tượng là tiếng súng nổ và những tiếng hò la này được kết hợp lại trong cùng một sự kiện.
- Chúng ta sẽ ngủ lại ở đây, - Gôriunôp nói. - Chúng ta có nhiều thức ăn và bọn Vampu sẽ không dám quay lại.
Trong khi các chiến sĩ làm thịt bò, các nhà du hành dạo quanh bãi cỏ và phát hiện ra một cái hồ nhỏ, một cái ao tù thì đúng hơn. Nước trong ao ấm và bờ ao dốc làm cho người ta có cảm tưởng ao rất sâu. Đoàn người cắm trại ở đây, các chiến sĩ mang đi những miếng thịt lớn, để phần còn lại cho những con đại bàng và chó sói. Ngọn lửa trại đang reo và mọi người nấu bữa ăn chiều. Oocđin đi đến cái hồ nhỏ và mang theo một cái nồi, nước rất cạn nên múc một ít nước mà anh ta cũng phải nằm rạp trên mặt đất. Anh ta có cảm giác nước đang lên: anh ta chầm chậm kéo nồi lên và nước dâng lên theo như bị nam châm hút. Nó vẫn dâng lên cho đến khi ngang với mặt đất.
- Nước hồ đang tràn dâng, - Oocđin nói to với các bạn và nhảy lên.
Tiếng kêu của anh ta làm cho mọi người chạy tới hồ, họ há mồm nhìn mặt nước.
- Chúng ta phải thu nhặt đồ đạc và chuồn khỏi nơi này, - Côxtiacôp nói.
Những người Ônkilôn xì xào bàn tán và nhìn mặt nước với vẻ sợ hãi đầy mê tín. Họ chờ một con quái vật ló đầu lên. Vẻ mặt Annuia vừa lo vừa mừng vì khi nhìn Oocđin, cô ta thấy anh đang mỉm cười. Cô ta đi đến kết luận là người da trắng biết được mọi việc, làm được mọi việc và không sợ một cái gì.
Nhưng trước khi người Ônkilôn quyết định chạy trốn thì nước bắt đầu rút xuống và trong một vài phút lại trở về mức cũ. Gôrôkhôp thở dài nhẹ nhõm.
- Ma quỷ đã rút lui, chúng ta đã làm cho nó sợ, - anh ta lẩm bẩm.
Oocdin, Gôriunôp, Côxtiacôp cười phá lên. Họ đã hiểu rằng đó là một loại hồ mới có một con suối ngầm. Rõ ràng dưới đáy hồ có một cái hốc sâu chứa đầy nước. Thỉnh thoảng hơi nước và chất khí làm cho nước dâng lên và thoát ra qua vài cái khe bên cạnh, chứ không phải từ mặt nước dâng lên như trong những cái hồ khác, rồi lại làm cho nước hạ xuống. Bây giờ họ chỉ cần xem sự phán đoán của mình có chắc chắn hay không bằng cách tính thời gian tần số của hiện tượng này, Oocđin lấy đồng hồ ra.
- Bây giờ tôi hiểu những con vật uống nước ở cái hồ này như thế nào, - Gôriunôp nói. - Chúng đợi cho đến khi nước dâng lên bờ.
- Phải, và tôi bối rối khi thấy bờ dốc và không có gì để chứng tỏ rằng những con vật đã bước xuống nước như thế nào, - Oocđin nói.
- Hãy tưởng tượng rằng một vài con vật cảm thấy như thế nào khi nước rút ngay dưới mũi của chúng trước khi chúng có thể uống nước no nê. Chúng đành phải đợi.
Đợi khá lâu mà nước vẫn chưa dâng lên. Người ta đã nấu cơm ăn và khi ăn xong nước mới bắt đầu dâng lên. Khoảng cách kéo dài gần một giờ.
Mặt trời vừa khuất sau màn hơi nước bốc lên từ cuối thung lũng phía bắc thì một làn sương mù dày đặc dâng lên từ hướng này và trời tối sầm lại ngay. Tuy nhiên, các nhà du hành đã chất khá nhiều củi để dùng cho buổi tối, quanh bếp lửa sáng và ấm. Cuộc trò chuyện xoay quanh những cái hồ trong vùng đất kỳ lạ này, sự bốc hơi theo chu kỳ mà những người Ônkilôn giải thích là trò chơi của thủy thần. Họ nói rằng ở phương bắc có một chỗ gọi là thung lũng “Một nghìn làn khói”, ở đó khói bốc ra khỏi mặt đất và đất nóng đến nỗi nó làm cho da bị xước cả khi người ta mang giầy. Họ chưa bao giờ ở đấy nhưng đã nghe những người già cả nói chuyện về nó. Những người này thời trẻ đã tham gia một cuộc tiễu trừ lớn chống lại người Vampu do ông nội Amnunđac tổ chức.
Xưa kia người Vampu nghỉ đông trong thung lũng này.
Cuộc nói chuyện bị cắt quãng vì có tiếng rú kéo dài từ khu rừng vẳng đến. Cơrốt và Belukha sủa một cách điên cuồng để trả lời.
- Chó sói, - Gôrôkhôp nói, - chúng đã đánh hơi thấy xác chết.
- Đây là dịp chúng ta có thể bắt một hay hai con chó sói cái, - Goriunôp nói.
Các chiến sĩ tuyên bố rằng việc này dễ thực hiện. Về mùa đông, họ săn chó sói, chúng quấy nhiễu đàn tuần lộc. Họ dùng đuốc để săn đuổi chó sói. May mắn thay, các chiến sĩ lại có một cái lưới để bắt những con chó sói cái. Lưới được dệt bằng những dây da mỏng và được dùng để bắt ngỗng thay lông. Họ bắt đầu chuẩn bị cuộc săn. Họ chọn ở đống củi, dành để đêm đốt, những thanh củi có nhựa đã khô, bẻ thành những đoạn dài độ nửa mét, bó thành từng bó đuốc. Họ làm những bó đuốc như thế cho tất cả mọi người và châm lửa. Trong lúc đó, bầy sói đang gầm gừ quanh xác con bò bị hạ sát và họ nghe chúng gặm xương rau ráu, bầy sói đang ăn tiệc trong bóng tối.
Khi những bó đuốc đốt lên, những người Ônkilôn và các nhà du hành, một tay cầm đuốc một tay cầm giáo hoặc súng, nhanh chóng bao vây bầy chó sói. Họ đặt đuốc sát mặt đất, rồi lại vung đuốc từ bên phải sang bên trái và tiến gần vào giữa nơi mà có chó sói, tạo thành một vòng lửa loang loáng. Phút chốc, qua màn sương mù, họ nhận ra bầy thú xám đang xúm xít quanh xác con bò. Đuôi cụp giữa khe hai chân, chúng nhe răng và đứng lúng túng không thể nào thoát ra khỏi vòng lửa đang rung động và tiến gần lại. Những con sói rú và chạy lung tung, chúng xô vào nhau và cuối cùng hai ba con chạy theo những hướng khác nhau,
Nhưng rất ít con trốn thoát. Những người Ônkilôn khôn khéo dùng giáo đâm chúng, hoặc dùng đuốc đốt mõm chúng và buộc chúng phải quay lại. Người chiến sĩ có lưới bèn giăng lưới bắt một con chó sói cái, Con này định chạy qua vòng vây nhưng nó bị sa lưới và ngã kềnh ra. Những con chó sói còn lại quay về chỗ có xác con bò, chúng xô vào nhau, răng cắn chặt, run như cầy sấy; chúng không dám chạy nữa. Một vài viên đạn đã kết liễu đời chúng. Giơ đuốc lên, các chiến sĩ giết nốt những con chó sói bị giáo đâm đang nằm trên đất. Trong số những con bị thương, họ thấy có một con chó sói cái khác, họ lấy một cái áo trùm lên đầu nó, buộc chân nó lại và dùng cán giáo khiêng đi. Những con chó sói chết, tất cả mười một con, được nhặt lên và mang về chỗ đống lửa để lột da.
Sau đó họ cắm sáu cái cọc, ba cái cọc dành cho một con chó sói cái. Họ buộc hai chân trước, hai chân sau vào hai cọc rồi buộc đầu vào cọc thứ ba, làm như thế chúng không thể cắn dây được. Sau cuộc đi săn đặc biệt này, mọi người nằm ngủ quanh đồng lúa. Như thường lệ, họ để cho những chiến sĩ canh và thấy rằng những con chó sói cái không bị Cơrốt và Belukha tấn công. Phải mất một thời gian lâu mới làm cho những con chó vốn có khát vọng trừng trị kẻ thù khác loài, trở lại ổn định được.