THUNG LŨNG MỘT NGHÌN LÀN KHÓI
Bữa ăn sáng, họ ăn trong một màn sương mù dày đặc. Các nhà du hành và các chiến sĩ thảo luận mang theo những con chó sói cái như thế nào. Một vài chiến sĩ nói rằng họ sẽ thay phiên vác chúng trên vai, một số khác đề nghị dùng da con bò đã giết làm cáng. Giải pháp tốt nhất là bắt chúng chạy bằng chân của chúng, nhưng không có dây xích hoặc dây thép làm dây buộc để cho răng sắc của chúng không thể cắn được dây.
Cuối cùng, họ đành phải làm những dây da buộc cổ và buộc mõm. Những vòng cổ được buộc bằng cái thông nòng súng của Gôrôkhôp và gắn một miếng chì, những con chó sói lại phải đi cạnh nhau giống như những con bò bị buộc ách. Một chiến sĩ kéo chúng đi và một chiến sĩ nữa đi sau. Đầu tiên, những con vật không chịu bước và lăn kềnh ra đất. Nhưng khi những con chó nhảy cắn vào sườn chúng thì chúng mới chịu đi; đuôi cụp giữa khe hai chân.
Khi sương mù giảm dần họ đi về hướng bắc. Cây cối ngày càng cằn cỗi. Họ đi qua khe rừng già toàn những cây còi cọc. Trong khu rừng thưa có những mảnh đất thưa cỏ xen lẫn với những vùng đá ba-dan trơ trọi bị mưa gió bào mòn. Cách đấy một vài cây số, các nhà du hành đi qua một cái khe có khói nhẹ bốc lên,
Oocđin cúi xuống, đặt tay lên rồi rụt lại ngay. Không khí bốc từ đó ra rất nóng. Họ càng đi xa càng gặp nhiều cái khe như thế. Không khí ngày càng nóng và các nhà du hành cảm thấy hình như đang ở trong một cái nhà tắm nóng nực. Hơi nước bốc lên ở vùng xung quanh giống một màn sương mù nhẹ làm cho cảm giác đó càng sâu sắc thêm. Những người Ônkilôn đã cởi áo ấm và cả các nhà du hành cũng không chịu được nóng nên cũng làm theo. Cuối cùng, Annuia cũng tụt áo quần ngoài ra để lại có cái khố và bối rối nói rằng nóng chẳng khác gì trong nhà có lửa đang cháy hừng hực.
Vùng sương mù dày nhất làm cho các nhà du hành chú ý. Ở đây từ một vài chỗ nứt, những đám hơi nước đang thoát ra và có tiếng xì xì hoặc giống như tiếng thở dài.
- Này, đây là những lỗ phun hơi rồi, - Oocđin nói. - Càng đi xa, họ càng tìm thấy trên các bề mặt trần trụi lồi lõm của nhiều phún thạch đen có những cái lỗ như vậy. Dường như đất được nung từ dưới sâu và có khói, hơi ấm dưới chân có cảm giác như xuyên qua giầy.
Khi đã đi được một hai cây số, họ dừng lại để nghỉ và nhìn xung quanh. Quang cảnh thật kỳ lạ. Khắp bốn phía, từ nhiều nơi khác nhau có những cột khói bốc lên và quay tròn trong không khí yên tĩnh. Những cầu vồng nhỏ lóe ra trong những tia mặt trời chiếu xiên. Người ta có thể nghĩ rằng đó là khói bốc lên từ ống khói của một thành phố không trông thấy được vào một buổi sáng đẹp trời và có băng giá. Những vách đá đồ sộ trên bờ thung lũng, chỉ cách khoảng năm hoặc sáu cây số hiện ra lù lù qua những chỗ trống giữa những cột trắng ở phía bắc, phía đông và phía tây. Đây đó, các nhà du hành thấy những đỉnh nhọn hoắt có những dải tuyết lấp lánh trong ánh nắng mặt trời. Tuyết, những cột khói trắng cùng với vách đá và đất đen là một sự kết hợp hiếm có của hai màu sắc khác nhau.
Sự im lặng thường bị phá tan khi thì do tiếng xì xì, khi thì do tiếng ùng ục trong các lỗ có hơi.
- Một sa mạc đen đang bốc khói, - Gôriunôp kêu lên.
- Thung lũng Một nghìn làn khói đây rồi, - Oocđin nói.
- Chỗ ở của ma quỷ, - người cao tuổi trong số các chiến sĩ nói. Khói từ lửa ở những hang bên dưới bốc lên.
Với nhiều cảm giác khác nhau, họ ngắm nghía cảnh tượng không bình thường này. Các nhà du hành ngắm một cách thú vị, còn người Ônkilôn thì sợ hãi, đầy vẻ mê tín. Trước mặt, họ thấy một cột hơi nước dày đặc và khi đến nơi thì họ thấy nó bốc lên từ một cái ao chỉ khoảng độ sáu mét đường kính, nước sôi sùng sục như trong một cái nồi lớn.
Gôriunôp lấy một miếng thịt sống trong ba-lô của mình ra và buộc nó vào đầu một cái dây dòng xuống ao. Bị dòng nước tung lên, miếng thịt quay tròn và chìm xuống, chỉ trong vài phút đã chín.
- Nơi này mà cắm trại thì thật là tuyệt! - Oocđin nhận xét. – Không có củi, thì có sẵn một cái nồi để nấu cơm và đun nước sôi pha trà.
Xa xa về phía bắc, họ thấy một vài cái ao nữa cũng đang sôi. Cái ao nhỏ nhất có đường kính dài một hay hai thước, sôi một cách bình lặng, thoát ra nhiều bong bóng nhỏ. Trong những ao lớn hơn, thì cả mặt ao đều sôi và sủi bọt. Các nhà du hành nhận thấy trên những gờ nhô lơ lửng trên mặt nước và xung quanh ao, đôi chỗ có những lớp trắng bao phủ trong như tuyết. Điều này quả là vô lý, vì nước ao đang sôi. Họ lấy một nắm tuyết và thấy đó là một loại muối mặn chát.
- Nhưng nếu nước có muối, thì phải mặn và không thể uống trà được, - Gôriunôp nhận xét.
Họ nếm nước. Nước hơi mặn nhưng vẫn có thể uống được.
Họ đi giữa những cái ao đang sôi và những cái lỗ đang bốc khói cách rìa thung lũng không xa, họ dừng lại trước một cái hốc lớn. Cái hốc có khoảng hai trăm bước đường kính và sâu từ mười lăm đến hai mươi mét.
Đáy lõm uốn cong và toàn bộ giống như một cái chén lớn, nhưng lại không có nước. Nhìn qua màn sương mỏng bay lượn trên mặt đáy, họ nhận thấy những ngọn lửa xanh nhỏ phụt ra khỏi khe đất. Oocđin muốn nhìn gần hơn và bắt đầu đi xuống hốc. Anh ta chỉ xuống được vài bước thì quay ngay lại, tay bịt chặt lấy mũi và mồm. Anh ta nói rằng anh ta cảm thấy ngạt thở vì khí lưu huỳnh và clo bốc lên nóng sực như trong một cái lò.
Dùng ống nhòm có thể thấy được những lớp lắng đọng dày, màu vàng và trắng của lưu huỳnh và muối amôniắc, nằm trong những kẽ hở và trên những nốt đen lấm chấm trên mặt đất.
- Được rồi, Paven Nhicôlaêvich ạ, - Oocđin nói với Côxtiacôp sau khi lấy lại được hơi thở. - Bây giờ thì anh không thể phủ nhận rằng Vùng đất Xannhicôp là miệng một núi lửa khổng lồ chưa hoàn toàn tắt.
- Bây giờ không ai phủ nhận điều đó. Những vách đá ba-dan nằm khắp nơi, những suối nước nóng và những hồ phun bọt ở phương nam, những cái ao đang sôi và những cái lỗ thoát hơi ở phương bắc, cái hốc có chất độc này, tất cả không còn chút nào nghi ngờ được nữa, - Gôriunôp xác định.
- Nhưng những người Ônkilôn, - Côxtiacôp tranh luận, - đã sống trên đảo này từ bốn trăm năm nay, còn người Vampu và những động vật thì đã ở đây lâu hơn. Cây cỏ sum suê ở nửa phương nam, điều đó chứng tỏ núi lửa đã không hoạt động từ lâu.
- Không nghi ngờ gì nữa, điều đó cho thấy núi lửa không hoạt động dần từ nam đến bắc, dấu hiệu ở đây rõ nét hơn nhiều. Có lẽ, khi người Vampu đầu tiên đặt chân lên phía nam của đảo thì phún thạch vẫn còn chảy ra ở phía bắc.
- Sự hoạt động này đã ngừng lại khi người Ônkilôn đến - Oocđin nói thêm. - Tất cả những điều họ có thể nói với chúng ta: khói là công trình của ma quỷ dưới đất.
- Có thể vào một ngày nào đó núi lửa sẽ thức dậy sau giấc ngủ dài và gây nhiều rắc rối phải không? - Gôriunôp hỏi.
- Rất có thể. Chỉ khi núi lửa không hoạt động từ những thời kỳ địa chất và ít nhiều đã bị tiêu diệt thì mới có thể gọi là đã tắt. Không ai dám chắc là chúng không thức dậy và nói đúng ra là chúng đã ngủ thì chúng có thể thức dậy. Chúng ta biết những trường hợp núi lửa được coi là đã tắt nhưng bất thình lình lại phun. Thí dụ như Vexuviuyt. Nó có cả một khu rừng rậm trong miệng nó và Xpactaquyt, người cầm đầu trong cuộc khởi nghĩa của người nô lệ, đã tìm chỗ ẩn nấp ở đây. Không người nào lại nghĩ rằng ngọn núi này là núi lửa, thậm chí những truyền thuyết cũng không nói gì về nó. Tuy nhiên, nó đã phun lửa vào năm 79 sau công nguyên và đã chôn vùi hai thành phố Ecquilanum và Pompeia, từ đó đến nay nó vẫn hoạt động.
- Vậy thì có núi Lưzaia ở Mactinich không? - Gôriunôp nhớ lại. – Nó ngủ cho đến giữa thế kỷ 18 và những người thổ dân không biết gì về quá khứ của nó. Rồi nó bắt đầu tỉnh dậy, nó tỉnh dậy trong 150 năm, hầu như không có dấu hiệu gì về đời sống của nó. Mãi đến đầu thế kỷ 20 mới có một cuộc phun lửa dữ dội. Thành phố Xanh Pierơ cùng ba mươi nghìn người bị tiêu diệt trong một vài phút.
- Có nhiều trường hợp tương tự ở cả bắc và nam Mỹ, ở quần đảo Xôngđơ, Camtrătca, - Oocdin nói thêm.
- Sự thức tỉnh của núi lửa, - Côxtiacôp nhận xét, - sẽ là một tai họa cho những người Ônkilôn.
- Cái đó còn tùy thuộc ở chỗ nó hoạt động trở lại thế nào và ở đâu. Nếu sự phun lửa yếu và bị giới hạn ở phía bắc thung lũng, một nơi nay cũng cằn cỗi và không có dân cư thì người Ônkilôn sẽ tiếp tục sống hòa bình gần núi lửa. Nhưng nếu sự phun lửa bắt đầu ở phía nam thì người ta có thể đón chờ một điều tai hại nhất.
- Theo tôi thì hình như, - Oocđin nói, - sự phong phú của các lỗ phun hơi, suối nước nóng và những ao đang sôi chứng tỏ có thể núi lửa lại hoạt động trở lại nay mai. Nói tóm lại là bất cứ lúc nào, mặc dù, theo người Ônkilôn, điều kiện này kéo dài hàng trăm năm, nhưng bây giờ họ ít đến vùng này, sự xác nhận của họ không thể tin được, cần phải có sự quan sát chính xác.
- Chúng ta hãy hy vọng như vậy, - Gôriunôp nói, - không có gì xảy ra trong khi chúng ta ở đây và ở Vùng đất Xannhicôp, những vật hóa thạch sống động của nó còn có thể sống được nhiều thế kỷ.
Đi vòng quanh cái hốc ngạt thở này, chẳng bao lâu các nhà du hành đã đến địa đầu phía bắc của thung lũng và thấy những vách đá ba-dan có bậc thang nhô ra như những chỗ khác. Họ ước lượng những vách đá này ít nhất cao một nghìn mét. Cây cối ở đây hoàn toàn không có, thậm chí cả rêu. Cảnh hoang vu lại càng làm nổi bật sự hoang tàn của nó. Nhưng khi nhìn bao quát thì người quan sát thấy trước mắt còn là một bức tranh đầy sự kinh ngạc. Cách một khoảng không xa kể từ chân vách đá đen, có bức tường trắng của thung lũng Một nghìn làn khói, và từ xa, người ta đã thấy những cột hơi nước bốc lên từ đây. Bức tường không đứng im. Nó tung lên và quay tròn. Giữa những tia mặt trời xuống thấp có một sự pha trộn về màu sắc giống như sắc cầu vồng, đỉnh tường đang cuộn lên.
Có một dải trắng chạy dài dọc dưới chân một vách đá thu hút sự chú ý của các nhà du hành.
- Thật kỳ lạ, có thể có tuyết rơi xuống từ trên đây chăng? - Gôriunôp nói.
- Không, không phải tuyết, - Oocđin nói với anh ta, - và nhìn vào ống nhòm của mình. Đó là sự lắng đọng của một vài hòn đá trắng và lỗ chỗ như bị gặm. Tôi nghĩ bụng có phải người Vampu đã lấy đá lửa của họ ở đây không?
Họ đi nhanh đến địa điểm và thấy đá ba-dan nằm trên những đá cẩm thạch màu trắng, nhô ra ba bốn mét phía trên như những cái gai kéo dài khoảng hai hoặc ba trăm mét trên nền thung lũng. Những mạch đá lửa đen, xám và trắng nhờ nhờ nằm trong đá cẩm thạch, tạo thành từng chùm hoặc thành từng lớp. Mặt đá có hình răng cưa chứng tỏ rằng người Vampu đã dùng đầu giáo và nạo để lấy đá ở đây.
- Đó chính là sự phát hiện mà chúng ta cần đến để xác định tuổi của núi lửa, - Oocđin nói khi quan sát tảng đá.
- Tôi tìm được một vài vật hóa thạch, tuy không rõ nhưng cũng chứng tỏ lớp đá này thuộc thời tiền kỷ phấn trắng. Do đó, núi lửa này ra đời sớm nhất là vào đệ tam kỷ, khi đá ba-dan chảy trên nhiều miền ở bắc Xibiri, Nhưng, chúng ta phải tìm một cái gì tốt hơn để làm căn cứ.
Nói xong, Oocđin trèo lên một trong số những cái hốc trên vách đá và bắt đầu làm việc với cái búa của mình. Những người khác thì tìm kiếm trong những đống cát trắng trên mặt đất. Thậm chí cả người Ônkilôn cũng đi theo họ khi họ thấy một cái vỏ sò do Oocđin tìm được và đưa cho họ xem, nói cho họ biết đó là gì. Tiếng búa ngừng và Oocđin nhảy ngay xuống đất nói:
- Có một cái bếp địa ngục nằm sâu dưới đất. Hãy yên lặng áp tai vào vách đá, rồi lắng nghe. Các ông có thể nghe rõ hơn qua cái hốc ở trên kia.
Gôriunôp và Côxtiacôp trèo lên cái hốc cao và áp tai nghe. Người ta nghe thấy từ lòng đất tiếng đập khi thì dài khi thì ngắn, dường như những cái lò rèn khổng lồ dưới đất đang hoạt động ở đâu đây. Hình như búa to đang gõ mạnh vào kim loại cứng, đá rung chuyển nhè nhẹ và những tinh thể cẩm thạch được tạo thành thỉnh thoảng lại văng ra.
- Quỷ đang làm việc ở đây tốt thật, - Gôriunôp nói và chui ra khỏi hốc.
- Liệu đã đến lúc chúng ta cần phải ra khỏi đây chưa? - Côxtiacôp hỏi, giọng lo âu.
- Thế anh cho rằng đó là dấu hiệu của núi lửa sắp phun à? - Oocđin cười. - Nếu trước đây chúng ta đã ở đây và không nghe thấy những âm thanh này thì điều đó có nghĩa rằng dưới đất có sự hoạt động, nhưng cả điều đó cũng không phải là lý do để chúng ta sợ vì núi lửa có thể thức dậy hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng hay thậm chí hàng năm.
- Tôi muốn nói hàng thế kỷ như núi lửa Luxaia, - Gôriunôp nói thêm.
Biết những nhà du hành đang nói gì, người Ônkilôn lần lượt trèo vào hốc đá. Khi ra khỏi hốc, mặt họ có vẻ hoảng hốt. Bây giờ, hơn lúc nào hết, họ tin chắc ma quỷ đã sống dưới đất. Tiếng đập, đá rung, những ngọn lửa trong hốc, hàng nghìn ngọn khói, ao nước sôi, sự hoang vắng, tất cả những cái đó làm cho họ sợ hãi và họ nhắc đi nhắc lại rằng phải rời khỏi nơi hoang dã khủng khiếp này trước khi trời tối. Trời đã về chiều, mặt trời nấp sau những vách đá cao ở phía bắc, có bóng râm trải rộng. Hơn nữa, một đám mây lớn và đen đang từ phía tây là là bay đến và sương mù ở đây rất dày. Sương mù và bóng tối bao phủ thung lũng. Trong tình thế như vậy thì không nên đi lang thang trên đường, nếu không sẽ bị rơi vào khe hoặc rơi vào đầm nước sôi.
Quả vậy, khi họ chỉ cách vách đá một cây số thì trời bị mây phủ và mưa rơi lất phất, làm cho hơi nước bốc từ dưới đất lên dịu mát và bao phủ toàn bộ thung lũng, trời càng tối nên dù muốn hay không, đoàn người phải dừng lại nơi gần cái hốc đá ảm đạm, bên cạnh một đầm nước sôi. Ở đó, ít nhất họ có thể nấu cơm và lấy một ít nước nóng pha trà vì không nơi nào có củi đốt. Sự bình tĩnh của các nhà du hành đã ảnh hưởng đến người Ônkilôn, tất cả bọn họ đều nằm trên bờ. Họ xiên thịt vào ngọn giáo hoặc buộc vào dây rồi dòng xuống đầm, nhưng chỉ thì thầm với nhau. Gôrôkhôp nghĩ đến việc nấu xúp, anh ta để ít thịt vào một cái bình, cho thêm muối và gạo, đổ nước vào và nhúng nó đến nửa xuống đầm. Xúp ăn rất ngon, đặc biệt là thịt nấu trong nước mặn. Trà cũng ngon. Sau bữa ăn, các chiến sĩ cắt người canh gác rồi đi ngủ. Họ nằm sát bên nhau, những cái khiên dùng để che mưa. Các nhà du hành đã làm một cái lều bằng da bò, dùng giáo cắm lều xuống, nhưng vì muốn xem ánh sáng trong hốc đá lúc ban đêm nên họ lặng lẽ rời khỏi trại để không làm mất giấc ngủ của các chiến sĩ. Nhờ hơi ấm ở dưới sâu, trên hốc không có sương mù nên họ thấy được một lỗ đen ngòm, dưới đáy có những ngọn lửa xanh chạy ngoằn ngoèo không dứt. Ngọn lửa lập lòe một lúc rồi cháy bùng lên. Một cảnh tượng thật kỳ lạ và lý thú.
Để có thể nhìn rõ hơn, bốn người nằm dài ở cuối hốc. Thình lình, họ cảm thấy một chấn động mạnh, đất rung chuyển dưới chân họ.
- Một trận động đất! - Côxtiacôp kêu và nhảy lên. Anh ta lại phải nằm xuống, những chấn động làm anh ta đứng không vững. Người ta nghe có tiếng ầm ầm. Trong hốc đá, những ngọn lửa chấp chới, dâng lên rồi hạ xuống. Từ phía ngoại vi thung lũng có tiếng đá đổ ầm ầm trong bóng tối và sương mù, tạo nên một cảm giác rất ghê sợ.
Từ trại, cách khoảng 100 bước, họ nghe thấy những tiếng kêu tuyệt vọng và cả tiếng rên rỉ của Annuia. Nàng đã thức dậy, chẳng thấy Oocđin và những người da trắng đâu cả. Những người Ônkilôn cho rằng những ông phù thủy da trắng đã bỏ rơi họ trên lục địa khủng khiếp này và vĩnh viễn biến mất. Bầy chó và những con chó sói cái tru vang, hòa với tiếng kêu của những người Ônkilôn, tạo ra một âm thanh náo động như vọng từ địa ngục lên, những chiến sĩ mê tín khiếp sợ, không biết làm thế nào.
Khi những chấn động yếu đi và có thể đứng dậy được thì các nhà du hành quay về trại. Mặc dầu trời tối như mực, họ vẫn dễ dàng tìm nó nhờ những tiếng kêu. Sự xuất hiện của các nhà du hành làm cho những người Ônkilôn thêm vững dạ. Khi Gôriunôp giải thích họ đã ở đâu thì các chiến sĩ cảm thấy hơi xấu hổ. Annuia ôm lấy Oocđin và áp mặt vào ngực chồng, nước mắt giàn giụa. Không ai ngủ nữa, Gôriunôp lợi dụng cơ hội này hỏi các chiến sĩ xem trước đây có động đất hay không. Hóa ra hiện tượng này không xa lạ gì đối với người Ônkilôn. Thỉnh thoảng, họ cảm thấy đất hơi rung, nhà kêu răng rắc làm đất rơi xuống đầu họ.
- Đúng như vừa diễn ra, - Gôriunôp nói với họ.
- Không, không đúng như vậy, - các chiến sĩ nói. - Chúng tôi chưa bao giờ thấy đất rung chuyển nhiều đến nỗi không thể đứng được. Đó là điều làm chúng tôi sợ hãi và khi không thấy các ông chúng tôi nghĩ các ông bỏ chúng tôi lại ở nơi khủng khiếp này để ma quỷ từ lòng đất đang rung chuyển nhảy ra khỏi khe nứt, đưa chúng tôi về địa ngục.
Chấn động ngừng hẳn. Các nhà du hành quay về lều. Lều phải dựng lại. Lần rung chuyển đầu tiên đã xô những ngọn giáo về một góc, da đã rơi vào đầu Annuia, làm cô ta tỉnh dậy và hoảng sợ. Còn những người Ônkilôn thì không sao ngủ được. Họ không có lửa trại và điều này làm tăng thêm sự sợ hãi đầy mê tín của họ. Hơn nữa, một cơn dông, hiện tượng vốn hiếm có ở Vùng đất Xannhicôp, đã xảy ra ở phía nam thung lũng. Chớp lòe lên sáng rực, sấm nổ rền, vang vọng giữa những vách đá lớn cao. Ngồi sát vào nhau, các chiến sĩ vốn không hề sợ bất cứ kẻ thù nào, giờ đang lầm rầm cầu nguyện cho đến khi gió xua tan mây và sương mù, trời lại bắt đầu sáng. Khi đó họ mới ngủ được.