← Quay lại trang sách

HỒ LINH THIÊNG

Ông thầy cúng nói với Amnunđac rằng cần phải hiến tế ở hồ linh thiêng để đánh dấu sự trở về an toàn của các nhà du hành đã không bỏ người Ônkilôn trong giờ phút thử thách của họ. Biết rằng tất cả nước của thung lũng chảy vào hồ này, các nhà du hành rất vui sướng được dịp thăm hồ và biết rõ nước chảy vào đâu. Lễ tạ vào ngày thứ hai sau khi họ về.

Tất cả các chiến sĩ của thị tộc do Amnunđac và các nhà du hành dẫn đầu ra đi từ sáng sớm. Họ đi về phía tây-nam. Ông thầy cúng và người học trò của ông ta đánh trống lục lạc và đọc lời cầu nguyện, đi hai bên một con tuần lộc trắng, con này đi sau đám rước. Trong khoảng hai giờ đi qua mấy cánh đồng cỏ và khu rừng, đám rước đến một cái hồ nhỏ ở ngay trên rìa thung lũng, từ hai phía bờ hồ có những hòn đá ba-dan den, hình thù khác nhau, bên dưới người ta có thể nghe thấy tiếng nước chảy róc rách từ mặt đất đầy đá cuội vào hồ. Trên hai phía còn lại, có những vách đá ba-dan thoai thoải cao một vài trăm mét và soi bóng xuống mặt nước trong vắt cùng với một mảnh trời xanh. Thậm chí về mùa hè, cái hồ sâu này cũng chỉ được ánh mặt trời soi sáng trong hai hoặc ba giờ vào lúc sáng sớm, khi mặt trời nằm chếch ở tây-bắc: thời gian còn lại, hồ bị bao phủ trong bóng tối dày đặc. Những vách đá đen cao vút, những tảng đá đen trên bờ và mặt nước đen cùng với nhau tạo thành một bức tranh ảm đạm và người ta có lý do khi nghĩ rằng hồ có ma quỷ ở.

Một hòn đá phẳng rất lớn nổi bật trên những hòn đá khác bên bờ hồ dùng làm bàn thờ; ông thầy cúng và người học trò trèo lên và kéo con tuần lộc lên theo. Amnunđac, các nhà du hành và các chiến sĩ đứng nửa vòng quanh hòn đá. Ông thầy cúng giơ trống lục lạc lên và đánh một cách thong thả, tiếng trống vọng đi vọng lại trên những vách đá cheo leo bên kia hồ. Không biết tiếng vọng như thế nào nên người Ônkilôn cho rằng ma quỷ khắp nơi đang trả lời tiếng trống. Khi ông thầy cúng thôi không khấn nguyện nữa thì ông rút một con dao ngắn, nhọn, sắc bằng canxeđôn ở thắt lưng ra, trông giống một con dao găm, nó có một cái cán bằng xương và chỉ để dùng trong các buổi hiến tế. Người học trò nắm lấy sừng con tuần lộc và kéo đầu nó xuống đất, còn ông thầy cúng đâm mạnh vào gáy con vật một vết tử thương. Trên mình con tuần lộc đã chết lại thêm những cú đâm mới, đồng thời hai chiến sĩ mang một cái bè làm bằng bốn thanh gỗ mỏng, rồi thả xuống hồ, chỗ cuối hòn đá. Nhờ sự giúp đỡ của họ, người học trò thả con tuần lộc lên bè và đẩy nó ra xa. Ông thầy cúng tiếp tục đánh trống. Môi ông ta mấp máy hình như đang cầu khấn, nhưng người ta không nghe rõ, bởi vì nói chuyện trên hồ linh thiêng là một điều xúc phạm.

Bị một dòng nước vô hình cuốn đi, cái bè chầm chậm trôi ra giữa hồ. Cuối cùng nó đến gần chân vách đá và bắt đầu quay tròn tại chỗ. Người thủ lĩnh và các chiến sĩ theo dõi cái bè với một vẻ yên lặng kính cận. Một tiếng ầm ầm vọng lên từ mặt nước đen ngòm, mặt hồ gợn sóng và một cái lỗ bắt đầu được tạo thành, dường như có một con quái vật to lớn nào đấy nấp dưới sâu đang hút nước vào mồm. Cái lỗ sâu dần xuống, tiếng ầm ầm tăng dần, người ta nghe thấy tiếng kêu vo vo và cái bè bị làn nước xoáy hút xuống, người đứng xem nhìn những khúc gỗ và bộ sừng tuần lộc chìm dần xuống, chỉ còn thấy đôi chút. Rồi 1, 2 phút sau nó chìm nghỉm ở chỗ này không còn trông thấy gì nữa, mặt nước lại phẳng lặng như gương và trong vắt như trước.

Cái bè vừa biến mất trong xoáy nước đen ngòm thì ông thầy cúng ngừng đánh trống lục lạc và bằng một giọng rất khẽ, ông ta tuyên bố:

- Hồ linh thiêng đã nhận lễ vật.

Vái hồ xong, ông ta từ trên hòn đá bước xuống. Cả đoàn quay về. Bây giờ các nhà du hành có thể trao đổi cảm nghĩ. Cái hồ chứng tỏ rõ ràng cho họ biết rằng nước trong thung lũng rút đi đâu. Nước tập trung trong hồ và cách một khoảng thời gian đều đặn lại bị một sông ngầm hút đi và từ đây nước chảy ra biển.

- Tại sao hồ lại linh thiêng? - Gôriunôp hỏi Amnunđac khi họ quay về trại.

- Ông thầy cúng đã dẫn tổ tiên chúng tôi đến vùng đất này và nói rằng đây là hổ thiêng. Ông ta phát hiện ra hổ và trên bờ hồ, ma quỷ nói chuyện với ông ta, cho ông ta biết về tương lai. Trước khi ông ta chết, ông ta ra lệnh cho nhân dân chôn ông ta trong hồ và từ đó trở thành nấm mồ của ông thầy cúng của chúng tôi,

- Họ chôn ông ta như thế nào?

- Ông thầy cúng chết được đặt lên một cái bè giống cái bè ông thấy, tay cầm một cái trống lục lạc, một cái chén có lễ vật được đặt dưới chân ông ta và đầu con tuần lộc bị hy sinh được đặt phía trên đầu. Thân hình ông ta được bọc da tuần lộc, ông thầy cúng mới đứng trên bệ và cầu nguyện trước mặt các chiến sĩ của toàn bộ lạc. Cái bè quay đi quay lại trên nước chứng tỏ ông thầy cúng đang từ biệt nhân dân mình. Rồi nước túm lấy ông ta và kéo ông ta xuống.

- Nước không bao giờ ném trả lại một vật gì chứ? Da, trống lục lạc hoặc có khúc gỗ nào nổi trên mặt nước không?

- Không, mọi thứ đều biến mất. Và nếu nước ném một vật gì trở lại thì điều đó có nghĩa rằng ông thầy cúng đã không làm vui lòng ma quỷ hoặc đã làm một điều gì xấu trong đời mình.

- Ông sẽ làm gì nếu một ông thầy cúng chết về mùa đông? Tôi giả định rằng hồ đóng băng.

- Hồ linh thiêng không bao giờ đóng băng. Tuyết rơi trên bờ nhưng mặt hồ không có băng.

Điều giải thích duy nhất Gôriunôp có thể nghĩ ra là khi nước bị con sông ngầm hút đi theo từng thời kỳ đều đặn thì lớp băng mỏng trên mặt hồ cũng bị hút đi theo.

Quay về trại, các nhà du hành ở lại gần một tháng tại căn cứ nhà trát đất, bởi vì Amnunđac không cho họ tiếp tục cuộc thám hiểm. Họ đành bằng lòng đi bộ đến những đồng cỏ và khu rừng gần đây, một vài chiến sĩ đi theo họ. Trong những cuộc đi bộ này, họ nghiên cứu cây cỏ và tập quán của các động vật, đi săn hoặc câu cá trong hồ để làm quen với các loài cá sống ở đây. Vả lại thời tiết cũng không thuận lợi để có thể đi chơi lâu. Trên Vùng đất Xannhicôp tháng hè đầu tiên mưa nhiều nhất, trời thường bị mây phủ và có mưa phùn làm người ta bực mình. Nhưng cả trong những ngày không đẹp trời, các nhà du hành cũng không có thì giờ để nghỉ. Năm người đàn bà trẻ trong căn nhà đất đều băn khoăn vì điều đó ; sự hiểu biết về ngôn ngữ Ônkilôn mà các nhà du hành thu nhận nhanh chóng trong khi không ngừng nói chuyện với những người đàn bà cho phép họ nói chuyện một cách thoải mái, và biết được nhiều phong tục tập quán, cách sống và tín ngưỡng của người Ônkilôn.

Bộ tộc không có chữ viết, nhưng có nhiều truyền thuyết và truyện cổ tích đáng được ghi lại. Khi cảm thấy đã biết khá nhiều từ ngữ, các nhà du hành mời những ông già bà cả ở những vùng lân cận đến với họ, hoặc họ đến thăm những người này. Họ cũng rất quan tâm đến chuyện tín ngưỡng của bộ lạc, và ông thầy cúng với tư cách là người canh bàn thờ có thể nói cho họ nhiều hơn người khác, nhưng ông ta đã từ chối, và nhìn chung, ông ta có ác cảm ngầm với các nhà du hành. Người dân thường chỉ có khái niệm rất mơ hồ và thậm chí mâu thuẫn, những khái niệm này dẫn đến chỗ tin rằng có thần linh trên trời, nói chung trong không khí, trên mây, trên những thiên thể, có ma quỷ sống trong nước và dưới đất.

Trong thời gian này, hai nhà du hành đến thăm Nhikiphôrôp một lần, anh ta vẫn sống như một nhà ẩn dật với bầy chó giữa sa mạc tuyết. Anh ta săn bắn, sấy thịt và kiếm củi dùng cho mùa đông. Để có thể trao đổi những thông điệp khẩn cấp, các nhà du hành để con Belukha lại cho Nhikiphôrôp và mang con Pêxơtơrutca đi. Trong trường hợp nguy hiểm, Nhikiphôrôp phải đốt ngọn lửa trên gò băng, trong trại của Amnunđac, người ta sẽ dễ nhận thấy khói và lửa.

Để nghỉ đông trên vùng đất Xannhicôp, các nhà du hành dĩ nhiên cần biết mùa đông ở đây như thế nào và hỏi những người Ônkilôn. Người ta bảo họ rằng bắt đầu từ tháng 9, mùa thu đến rất nhanh, ban ngày trong thung lũng chỉ có ánh sáng độ 6 hoặc 7 giờ, mặt trời hơi nhô lên khỏi đỉnh núi phía nam, lá cây vàng và rụng xuống, đó là lúc những người Ônkilôn đi kiếm củi. Thời tiết thường xấu đi và tuyết bắt đầu rơi. Đầu tháng 10, ánh mặt trời không còn chiếu xuống thung lũng nữa, nhưng vẫn còn sáng một vài giờ khoảng gần trưa. Những ngọn gió nam bắt đầu mang đến những cơn bão tuyết, nhưng khi gió từ phía bắc thổi xuống thì mưa rơi và sương mù dày đặc. Lúc này, những người Ônkilôn đang bận đi săn để cung cấp thức ăn cho mùa đông. Bắt đầu vào cuối tháng 10 không có ánh sáng ban ngày và chỉ có ánh hoàng hôn độ một hai giờ; thời tiết xấu thường xuyên làm cho người Ônkilôn phải ở trong nhà. Đêm Bắc cực bắt đầu vào tháng 11 và kéo dài cho đến cuối tháng giêng, đêm chỉ có ánh trăng khi bầu trời quang đãng và được bắc cực quang rọi lại, những người Ônkilôn cho đó là linh hồn của người chết. Trong những tháng này, gió nam có nghĩa là thời tiết lạnh và khô ráo, gió tây hoặc gió đông có nghĩa là bão tuyết, và gió bắc có nghĩa là tuyết tan và mưa. (Ghi xong, Gôriunôp viết thêm: rõ ràng về mùa đông, hơi ấm bốc ra từ những cái ao nước sôi và những lỗ thông hơi ở vùng bắc thung lũng. Vì vậy mà tuyết không thể tụ lại, những con tuần lộc và dã thú vẫn có thể tìm cỏ trong đồng cỏ.) Tuyết phần lớn chất đống dọc theo vùng ngoại vi bên dưới vách đá, ở đó, nó nằm lì cho đến mùa xuân năm sau. Những người Ônkilôn quan niệm 3 tháng này là những tháng buồn tẻ nhất bởi vì họ phải ở trong nhà suốt thời kỳ bão tuyết và mưa. Khi có một vùng trăng sáng trên bầu trời, họ đi săn, đặc biệt là săn chó sói, những con chó sói thường bắt tuần lộc.

Ánh sáng xuất hiện ở phương nam đầu tháng hai, nhưng mặt trời chỉ ló ra trong thung lũng vào đầu tháng ba. Ngày dài ra rất nhanh, thời tiết ấm hơn và gần cuối tháng, mùa xuân bắt đầu. Tuyết tan, cỏ bắt đầu mọc và vạn vật lại hồi sinh. Đến giữa tháng tư, rừng đâm chồi nảy lộc.