← Quay lại trang sách

SĂN CHIM THAY LÔNG

Đầu tháng bảy, khi những con chim non sống trong hồ hoặc gần hồ đã khôn lớn và có thể tự đi kiếm ăn, ngỗng và vịt bắt đầu thay lông. Ở thời kỳ này, chúng không bay được nữa và nấp trong các bụi lau sậy. Tất cả những dân tộc ở phương bắc lợi dụng cơ hội này để bắt hàng đàn chim, và những người Ônkilôn cũng thế. Mỗi thị tộc có hai hoặc ba hồ dành riêng cho mình. Người ta làm những hàng rào vây lấy hồ. Những hàng rào này làm bằng những cái sào cắm xuống đất, khoảng cách giữa các sào rất nhỏ để con vịt không thể chui lọt. Cách đấy 100 bước, ngay sát mặt hồ, những chấn song tạo thành một lối đi hẹp dẫn tới một cái sân hình vuông, có hàng rào làm bằng những cái sào chắc hơn bao quanh.

Đúng ngày đã định, toàn thị tộc, chỉ trừ những đứa bé, những trẻ sơ sinh, đều cầm gậy, vây quanh hồ từ sáng sớm, xua những con chim ra khỏi bụi. Họ kêu hét thật to và khua gậy:

- Vịt và ngỗng ơi, - một đứa kêu lên. - Hãy chui ra khỏi chỗ nấp. Đã đến lúc chúng mày cần tắm.

- Chui ra đi, những con chim lười biếng! - một đứa khác hét lên. - Sâu và cá đang chờ chúng mày ở dưới nước.

- Gậy của chúng ta cũng đang chờ, - một đứa khác cũng la lớn.

Tiếng gõ, tiếng reo hò và những tiếng kêu náo động của những đứa trẻ, đối với chúng, đây là một ngày hội, các tiếng động hòa hợp với nhau, inh tai nhức óc. Những đứa trẻ chạy lăng xăng trên cỏ như những con chó, chúng khua gậy về bên phải, về bên trái. Những con chim hốt hoảng chạy về hồ cách những người đánh chim một vài bước, cỏ lay động khắp nơi, chứng tỏ ở đây vịt và ngỗng đang chạy trốn trong cỏ. Một vài con định bay, nhưng lại rơi xuống, chúng đập cánh. Tiếng vịt kêu, tiếng ngỗng gọi xen với tiếng gõ và tiếng nói ầm ĩ của người đánh chim. Chim dẽ giun, chim dẽ, chim dẽ mào và những loại chim khác đã thay lông sớm hơn những con chim sống ở dưới nước, bay riêng hoặc thành từng đàn nhỏ qua hồ và đồng cỏ với những tiếng kêu the thé, xé làn sương mù mỏng vẫn còn lơ lửng trên mặt nước. Hồ đầy vịt và ngỗng lúc những người đánh chim đến cạnh bờ hồ. Chỉ ở những khoảng trống giữa hai hàng rào mới không có người. Trong những chỗ lầy lội, những người đánh chim đi những đôi giầy chống tuyết làm bằng da căng trên một khung gỗ, có lông ở bên dưới. Mặc dầu dùng cho mùa đông, đôi giầy này có thể giúp cho người đánh chim đi trên đất lầy mà không bị lún.

Sau khi bao vây hồ, người Ônkilôn khiêng ra bốn cái xuồng bằng vỏ cây bạch dương mà họ đã đem ra từ trước và thả xuống phía đối diện hàng rào. Hai người xuống xuồng, một người cầm chèo, còn người kia cầm một cái mõ để đuổi chim và một cái thừng. Những cái xuồng nhanh chóng tách ra và những cái thừng họ kéo trên mặt nước căng dài ra giữa các xuồng. Người chèo xuồng chèo thong thả và người kia dùng thừng té nước lên, làm cho đàn chim hốt hoảng và dồn dần dần chúng lại phía hàng rào. Trên bờ, những người đánh chim vẫn la hò ầm ĩ. Và người chèo thuyền vừa té nước, vừa kêu. Những con chim không biết chạy đâu. Một vài con quay trở lại khi dây thừng chìm trong nước, một số con cố gắng bò lên bờ, nhưng khi chúng đến quá gần, thì những người săn chim bắn chúng bằng tên; những con chim bị ngã nhào trên mặt nước càng làm cho bầy chim thêm hoảng sợ.

Dần dần, hàng trăm con chim bị xua xuống cuối hồ. Những người đánh chim trên bờ đi theo xuồng, một số đã tới chỗ hàng rào, nhưng đến đây, họ thôi không reo ầm ĩ và nấp vào trong cỏ. Khi đã đến gần cuối hồ thì những người trong xuồng lại ráng sức bơi, vì bây giờ cuộc săn thành công hay không là do ở họ, những con chim được tập trung trong một khu vực nhỏ. Điều chủ yếu là phải luôn luôn dùng thừng quất nước lên. Nếu không, bầy chim có thể quay trở lại và mọi việc phải làm lại từ đầu.

Cuối cùng, bầy chim đi đầu bị xua đuổi dạt vào bờ, trèo lên cỏ và chạy về phía trước. Những con chim còn lại đi theo sau và một đàn gồm những vịt và ngỗng dày đặc đang lao sâu vào hàng rào, kêu loạn xạ. Những con chim cuối cùng vừa lên khỏi mặt nước thì người chèo xuồng trườn lên bờ và những người đánh chim đi theo sát, họ tiếp tục đuổi và reo hò ầm ĩ. Cuối cùng, toàn bộ đàn chim tập trung vào cái sân hình vuông. Ở đây, cỏ đã bị dẫm nát. Người đánh chim chờ quanh sân, cũng như những người đã theo sau, bây giờ họ nhảy xổ vào đàn chim từ bốn phía, hàng chục cái gậy đập xuống đầu những con chim bất hạnh, tiếng reo phấn khởi của những người đi săn, tiếng gậy đập chim, tiếng vỗ cánh, tiếng kêu điên cuồng của bầy vịt và ngỗng tạo thành một sự hỗn độn, man rợ. Những cái gậy vấy máu vung lên đập xuống và số chim bị giết và bị thương tăng lên rất nhanh, chỉ có một vài con tìm lối thoát qua khe chân của những người đánh chim hoặc qua những lỗ hổng của hàng rào, quay về hồ hay đồng cỏ.

Cuối cùng, tất cả bầy chim đều bị giết trừ số ít thoát được. Xác chủng nằm ngổn ngang từng đống trong sân. Tiếng động ngừng, người ta dỡ hàng rào đi và bắt đầu thu thập thành quả. Những con chim bị buộc chân thành từng đôi và treo lủng lẳng trên những cái gậy mà họ đã dùng để giết chim. Những người đánh chim cứ hai người một, khiêng hai cái gậy có treo từ 30 đến 40 đôi vịt hoặc từ 15 đến 20 đôi ngỗng. Những đứa trẻ cũng giúp họ, chúng khiêng nhẹ hơn người lớn.

Ở trại, những con chim bị vất xuống đất thành đống và tất cả những thành viên của thị tộc bắt đầu làm lông và làm lòng; lông tơ được tập trung trong cái bị bằng da, còn ruột thì chất thành đống trên vỏ cây. Người ta nhóm lửa lên và những hòn đá được đốt nóng. Tất cả những bình bằng gỗ được lau chùi, cả thị tộc chuẩn bị ăn một bữa cháo ruột chim. Tiếng trẻ con cười nói xôn xao, chúng sẵn sàng giúp một tay vào việc nấu bếp. Những người chèo thuyền quay về cũng ôm đầy chim họ đã lấy được trên hồ. Đó là những con chim bị người đánh chim bắn bằng tên từ bờ hồ.

Đến chiều, những người Ônkilôn bắt đầu thui hun, đó là cách duy nhất để giữ thịt được lâu vì họ không có muối hay những dụng cụ cần thiết. Những căn lều bằng vỏ cây được dựng lên và những con chim làm lông sạch sẽ được treo trên những cái sào dưới mái lều. Người ta đốt lửa trong lều, khói bay lên, lửa cháy trong một vài ngày. Công việc và bữa cháo chim kết thúc lúc trời sẩm tối. Ngày hôm sau, người ta cũng đi săn như hôm trước trên một cái hồ thứ hai, và sáng ngày thứ ba, trên một cái hồ thứ ba, không bỏ phí thời gian. Những con chim mọc cánh nhanh chóng dù còn kém nhưng chúng vẫn có thể bay được. Lúc đó, những hàng rào sẽ trở thành vô ích.

Gôriunôp và bạn của anh ta cũng tham gia cuộc săn, nhưng họ chẳng thú vị gì lắm; họ cũng cần thức ăn dự trữ về mùa đông. Các bà vợ của họ sẵn sàng giúp đỡ họ. Nhưng đối với những nhà du hành, ba ngày hôm nay giống như một cơn ác mộng; tiếng ồn, tiếng động, cuộc tàn sát bừa bãi những sinh vật không tự vệ được, đống chim bị chết, những đám lửa, sự háu ăn của những người dự tiệc, lòng tham và sự hăng hái của họ muốn giết càng nhiều càng tốt, làm cho các nhà du hành chán ngán khi thấy cảnh tượng ấy và họ vui vẻ khi thấy mọi việc đã xong.

Trong những cuộc săn này, người ta không chú ý đến những con thú lớn hơn, chúng thỉnh thoảng mới ló ra, đến lượt chúng cũng sẽ bị giết. Một số lợn lòi sống trong các bụi cây bên cạnh hồ bị những người đánh chim thúc ép, chúng tập hợp lại đằng sau một con lợn già trông dữ tợn, rồi xông vào những người đi săn. Chúng chạy được và chỉ có một con lợn non tụt lại sau những con lợn lớn hoặc lạc đàn bị đâm chết, hay bị đánh chết. Những con vật này bị săn vào cuối mùa thu là lúc mà chúng đang béo, khi những bụi cây đã héo đi và rụng hết lá vì sương giá và các đầm lầy phủ băng. Lúc đó những con lợn lòi trở nên béo hơn và đi lang thang trên những đồng cỏ trong rừng; bị lùa khỏi các bụi cây nhỏ, chúng bị đâm chết và bị đánh chết. Người đi săn tìm một chỗ kín để tránh chúng húc phải. Trời lạnh làm cho những người Ônkilôn giữ được thịt lợn. Thịt được treo trên cây để ướp lạnh. Sau khi tuyết rơi lần thứ nhất, những người Ônkilôn săn thỏ; thỏ rất nhiều trên đồng cỏ và trong rừng