← Quay lại trang sách

HIẾN TẾ

Ngày hôm sau, các nhà du hành đã qua được trại cuối cùng, về nhà rất sớm. Gần nhà Amnunđac, người Ônkilôn đang vây quanh vài chiến sĩ của một trại gần đây, những chiến sĩ này mới đến và mang theo một tên Vampu vừa bị bắt.

Họ nói rằng sáng nay khi đi săn, họ gặp năm tên Vampu. Rõ ràng chúng là bọn trinh sát đang rình mò để ăn trộm một vài con tuần lộc nếu có thể được. Những người Ônkilôn tóm được chúng gần chỗ bầy tuần lộc; cuộc xô sát xảy ra, hai tên bị giết, còn hai tên trốn thoát, tên thứ năm bị thương và bị bắt làm tù binh để đem đến biếu các nhà du hành. Các chiến sĩ biết họ đang sưu tập da và sọ não của dã thú, và trong khi đến thung lũng Một nghìn làn khói, họ đã mang theo sọ não và xương của một tên Vampu bị chó sói ăn thịt. Người Ônkilôn nghĩ rằng một tên Vampu còn sống có lẽ có ích hơn đối với người da trắng. Tên tù binh đang đứng, tay bị trói quặt ra sau lưng. Mình mẩy hắn đầy máu, máu chảy ròng ròng từ nhiều chỗ giáo đâm và tên bắn. Hắn loạng choạng không đứng vững. Nhiều đàn bà và trẻ con vây quanh hắn. Họ ít có dịp nhìn sát mặt một tên Vampu, cho nên bây giờ, họ có thể tha hồ nhìn một người dã man bằng xương bằng thịt.

Trong khi các nhà du hành tuyên bố rằng họ rất lấy làm thú vị khi tên Vampu còn sống, Amnunđac ra lệnh cho các chiến sĩ trói nó vào gốc cây. Gôriunôp và các bạn của anh ta quyết định nhanh chóng đo kích thước và chụp ảnh rồi bảo Amnunđac thả nó ra.

Tên tù binh còn rất trẻ và cũng khỏe mạnh như mọi tên Vampu khác. Khó lòng đo được đầu nó, bởi vì tóc nó dính bết những bùn vì cáu bẩn đã lâu. Gôriunôp quyết định cắt tóc cho nó ngay. Anh ta bước đến, tay cầm một cái kéo sáng loáng. Tên này nghĩ rằng anh ta sắp giết nó, nên đã hoảng hốt kêu la. Tất cả những người Ônkilôn đều nhìn cái kéo trong tay Gôriunôp. Trước đây chưa bao giờ họ thấy những ai làm như vậy, cái kéo cũng làm họ chú ý. Tên tù binh cho rằng hắn sắp bị hành hình nên định cắn vào tay Gôriunôp. Răng hắn rất khỏe. Kết quả là hắn bị bịt ngay mồm lại. Cái thước đo sọ não sáng loáng làm hắn run bắn lên. Hắn mường tượng rằng việc đo đạc bằng thứ dụng cụ này và cái thước dây đang quàng vào người hắn là một thứ phù phép làm cho hắn chết một cách thảm khốc. Khi các nhà du hành mang đến một vật đen đen và đặt nó lên một cái giá bóng nhoáng, hắn nghe thấy những tiếng kêu lách cách nên vội nhắm nghiền mắt lại và chờ một tiếng sét đánh ngã gục. Thành thử hắn rất ngạc nhiên khi thấy mình không bị sát hại mà vẫn được yên thân.

Người Ônkilôn nhìn mọi động tác một cách thích thú.

Họ đã thấy người ta do đầu và thân thể lần trước, Đầu tiên là đàn bà, sau đó đến một vài chiến sĩ, trẻ con cũng được đo và cuối cùng, họ nghe thấy tiếng lách cách phát ra tử trong cái hộp đen đặt trên giá, nhưng họ không hiểu dùng làm gì.

Khi mọi việc đã xong xuôi, Gôriunôp đề nghị người thủ lĩnh thả tên tù binh ra, nhưng ông ta đã dứt khoát từ chối.

- Đêm nay chúng tôi lại cầu nguyện và quỷ thần sẽ nói với thầy cúng tên Vampu này có phải chết hay không, - Amnunđac nói. - Trước đây chưa bao giờ chúng tôi thả tù binh.

Hoàng hôn đã xuống và các nhà du hành đã mệt mỏi sau một cuộc đi chơi xa và làm việc với tên tù binh; họ khoan khoái trở về nhà sạch sẽ của họ và ngồi bên ngọn lửa bập bùng. Sương mù bao phủ dày đặc và trời đã trở rét. Gôrôkhôp nói với họ rằng ngày hôm đó cũng như ngày hôm trước sương mù vẫn còn kéo dài cho đến trưa. Trong suốt hai ngày liền, mặc dầu người ta thấy mặt trời, trời vẫn lạnh như ở Cadatria vào lúc này trong năm). Ngày hôm ấy người ta nhận thấy những con chim sa yến bắt đầu bay về phương nam, còn ngỗng và vịt bị lạnh cũng sắp bay đi báo hiệu trời trở rét. Sau hai đêm băng giá cỏ ngoài bãi đã quắt đi và nằm rạp xuống, những lá trên cây không kịp vàng úa mà đã bị rụng. Người Ônkilôn lấy làm ngạc nhiên nói rằng họ thường bị sương mù và sương giá như vậy chậm hơn một tháng và những con chim cũng đã bay về phương nam sớm hơn thường lệ. Vì lạnh, cho nên nghi lễ sẽ cử hành tối hôm ấy.

Khi trời tối, Gôrôkhôp đi xem thử ông thầy cúng đã đến chưa và xem người da trắng có được phép dự lễ không. Anh ta quay về và báo tin chỉ có các chiến sĩ được dự lễ, còn tất cả đàn bà trẻ con phải đi ra khỏi nhà. Vì trời rét, Amnunđac đề nghị các nhà du hành để đàn bà và trẻ con ở trong ngôi nhà trát bùn của họ trong khi lễ cử hành.

- Tôi cho rằng họ đang ngấm ngầm mưu tính một điều gì không hay, - Oocđin nói khi Gôrôkhôp ngừng giọng. - Họ đã đuổi những người đàn bà đi để chúng ta không thể biết gì hết qua những người đàn bà này.

- Có thể lắm, - Gôriunôp trả lời. - Nhưng chúng ta không thể làm gì để ngăn họ lại và tốt hơn hết là chúng ta hãy thận trọng. Anh hỏi Annuia xem trước đây đàn bà có bao giờ bị cấm dự lễ không?

Annuia nói cho họ biết những lễ nghi như thế có trước khi bộ lạc bắt đầu đánh nhau với bọn Vampu.

Phút chốc, ngôi nhà trát bùn đầy đàn bà và trẻ con, nhiều người trước đây đã đến ngôi nhà người da trắng, đặc biệt những khi họ vắng nhà. Nhưng bây giờ, tất cả cánh đàn bà ở đây nên họ hoàn toàn thoải mái, họ mang thịt và bánh kếp đến nấu bữa chiều. Ngôi nhà rộn rã tiếng cười nói, tiếng kêu thét của trẻ con và tiếng khóc của những đứa bé mới sinh. Nhìn đám người vui vẻ và vô tư này - những người mới đây đã muốn đuổi người da trắng và buộc tội họ gây ra những điều bất hạnh thì giờ đây đang tán gẫu và nói đùa với họ, những con người xa lạ - các nhà du hành không thể không nghĩ đến những điều họ đã thấy hôm trước trên miền hoang dã đen và đến mối hiểm họa bị tiêu diệt đối với bộ lạc thời đồ đá này nếu tình thế không thay đổi.

- Tôi đã suy nghĩ tất cả và không thể quyết định, - Gôriunôp nói với Oocđin khi theo anh ta đến góc căn nhà, khi tiếng cười nói của những người đàn bà bắt đầu làm họ buồn bã, - về việc chúng ta có cần phải nói với người Ônkilôn nguy cơ đang lơ lửng trên đầu họ và gợi ý với họ đi về phương nam với chúng ta hay không.

- Tôi đã nghĩ đến điều đó, - Oocđin trả lời. - Ý kiến của tôi là nói gì bây giờ cũng đều quá sớm. Biển chưa đóng băng và họ không có thuyền. Hơn nữa, không ai có thể nói chắc điều sợ hãi của tôi có được xác minh hay không và sự việc sẽ diễn biến như thế nào nếu lò cung cấp nhiệt được khôi phục bằng cách nào đó, có lẽ mọi việc sẽ thay đổi tốt hơn trong vài chục năm sau.

- Nếu nó không được khôi phục và nếu mùa đông đến ngay với chúng ta thì sao?

- Ngay cả khi đó, chúng ta cũng phải giữ bí mật. Làm thế nào mà họ có thể vượt băng trong đêm Bắc cực tối như bưng trong khi không có đầy đủ quần áo ấm, củi đốt, hoặc tuần lộc, bởi chúng sẽ chết đói trong mấy ngày đầu tiên của cuộc hành trình. Không, dù sao họ cũng phải sống qua mùa đông này và đến mùa xuân, khi thấy tuyết không còn tan nữa, khi tất cả những con vật đã chết thì họ sẽ hiểu rằng hy vọng duy nhất có thể sống sót được là rời vùng đất này.

- Tôi cho rằng anh đúng. Đến mùa xuân chúng ta có thể quay về với một đoàn thám hiểm lớn mà Viện hàn lâm sẽ trang bị để nghiên cứu vùng đất này cùng với cư dân của nó trước khi nó hoàn toàn bị tuyết chôn vùi, rồi ta sẽ thu xếp cho người Ônkilôn đi một cách dễ dàng, bởi vì lúc ấy họ sẽ thấy cần phải đi.

- Còn bây giờ họ chỉ yêu cầu chúng ta ngăn chặn tai họa!

Theo đề nghị của Gôrôkhôp, những người đàn bà đã nhảy múa sau bữa cơm chiều. Họ cho trẻ con và người đàn bà già ngồi dọc theo tường, cởi quần áo ra, nắm tay nhau và bắt đầu nhảy quanh ngọn lửa. Họ nhảy, thỉnh thoảng lại giơ chân phải và chân trái lên, lúc thì giơ tay, cúi nghiêng mình về các phía quay tròn theo một giai điệu đơn giản mà họ hát. Với những vũ khúc này, họ vui với những người đàn ông trong đêm dài Bắc cực mỗi khi họ cảm thấy chán vì phải ngồi ru rú trong nhà. Thoạt đầu, tiếng hát và nhịp nhảy chậm chạp, dường như người múa một cách miễn cưỡng, nhưng rồi vũ điệu dần dần sinh động hẳn lên cho đến khi những người đàn bà quay tít, đến nỗi làm người xem phải chóng mặt và ù tai vì tiếng dậm chân, tiếng vỗ tay và tiếng reo inh tai nhức óc. Những thân hình đen thui uốn éo trong một vũ khúc điên cuồng, những bím tóc quay tròn trong không khí, những cái vòng đeo cổ nhảy nhót trên gò ngực, cổ tay múa may phía trước, phía sau. Mắt họ long lanh, môi họ hé mở để lộ những hàm răng trắng như ngọc. Cuối cùng mệt nhoài, họ ngồi phịch xuống đất và duỗi chân quanh ngọn lửa, mỗi người một tư thế khác nhau, họ thở hổn hển và sửa lại khố. Những vết xăm đen xanh đặc biệt nổi rõ trên những thân hình nhễ nhại mồ hôi: những hình thù kỳ cục, như hoa lá, mặt trời và đầu động vật được vẽ ra bằng tất cả sự tưởng tượng của những họa sĩ nguyên thủy. Các họa sĩ này là những người đàn bà đã già, giữa đêm dài Bắc cực họ nhuộm mình cho các cô gái và cố vượt người khác về những hình vẽ nguệch ngoạc này. Chúng tôi đã miêu tả những dấu vết trên mình người vợ hai Amnunđac, người đàn bà có trổ rắn trên mình. Nhưng ở Annuia thì khác: phần trước cơ thể cô ta vẽ đầy lá và hoa, có những hình dáng khác nhau, còn giữa bả vai cô ta có hình mặt trời đang mọc. Ánh mặt trời chiếu tỏa lên cổ, lên vai và xuống lưng. Bên dưới có hình hai mảnh trăng lưỡi liềm giáp bên nhau. Ở Racu thì lại là những đường chữ chi trước ngực và đường lượn sóng trên lưng, phía trên xương bả vai và phía dưới là những đường có hình xoắn ốc. Các cô gái rất tự hào về những hình trổ rối tinh rối mù trên cơ thể mình và phô ra một cách kiêu hãnh. Khi các cô ra mắt, những hình vẽ này làm cho các chiến sĩ trẻ chú ý để chọn vợ.

Sau khi nghỉ ngơi một lúc, cánh đàn bà ngồi thành hình bán nguyệt đối diện với các nhà du hành và bắt đầu một trò chơi. Người đàn bà ngồi xa nhất phía bên phải dùng tay trái vỗ lên vai người ngồi cạnh và kêu: “thứ nhất”, người ấy lại vỗ vào người bên cạnh và kêu: “thứ hai”, rồi cứ thế tiếp tục cho đến người đàn bà xa nhất ngồi bên trái. Nếu người nào quên số đếm thì người bên phải và bên trái cùng vỗ và cười ầm lên. Từ chỗ xa nhất bên trái, tiếng vỗ tay truyền ngược lại; lần này là tay phải. Họ lại đếm bắt đầu từ người thứ nhất, nhưng đến giữa, họ lại quay sang vỗ từ bên phải. Như vậy người chơi dễ quên số đếm và thường gây ra cãi lộn, làm cho mọi người khoái chí. Khi những người đàn bà đã mệt vì trò chơi này, họ lại bắt đầu trò chơi khác. Từ chỗ ngồi xổm, họ vươn tay ra đằng trước, cùng một lúc hất chân phải về phía ngọn lửa rồi co lại rất nhanh và hất chân trái lên, nếu có người nào hất nhầm chân hoặc là hất chậm thì bị những người ngồi bên cạnh đẩy, cô ta sẽ ngã lộn nhào, chổng vó lên trời, mọi người lấy làm khoái chí, Họ bị kích thích đến cao độ và những người đàn bà bắt đầu xô nhau chẳng vì lý do gì cả, cuối cùng tất cả ngã sóng soài, chân quay về phía ngọn lửa và tiếng cười nổi lên như sấm.

- Những điệu nhảy và những trò chơi này, - Gôriunôp nhận xét - là những bài thể dục tuyệt vời giúp cho những người đàn bà vượt qua nỗi bứt rứt bồn chồn khi phải ngồi lâu trong mùa đông.

- Phải, những người đàn ông có nhiều hoạt động thú vị như săn bắn, chăn tuần lộc hoặc đốn củi, nhưng những người đàn bà ngồi ru rú trong nhà, chẳng có việc gì làm ngoài một số việc vặt trong nhà, Oocđin nói.

- Trò vui thứ nhất được gọi là “chuỗi hạt”. Trò vui thứ hai được gọi là “nhái”. Có một trò vui nữa mà họ gọi là “thử thách”, đó là một cuộc vui không ồn ào, - Gôrôkhôp nói với các nhà du hành. Quay về phía những người đàn bà, anh ta nói:

- Các chị chơi trò “thử thách” đi.

Những người đàn bà ngồi xổm dậy.

- Trong chúng ta ai là người nhẫn nại nhất trong mùa đông trước? - một người hỏi. - Chị phải không, Annuen?

- Phải, - Annuen đáp, giọng dứt khoát.

- Và tôi chính là người nhẫn nại nhất trong thị tộc, - Annuia tuyên bố.

- Ở đây chúng tôi không biết chị và phải xem là chị nói có đúng không. Vậy chị nằm xuống trước đi, - người đàn bà quyết định.

Họ mang đến một tấm da và trải trên mặt đất giữa hình bán nguyệt, gần ngọn lửa và Annuia nằm ngửa ra. Annuen lấy một cái cốc, đổ nước đẩy và đặt nó lên bụng Annuia. Rồi cô ta ngồi xuống cạnh chân và bắt đầu cù vào gan bàn chân. Những người đàn bà khác bắt đầu đếm, người đàn bà chịu thử thách phải nằm yên để không làm sóng một giọt nước cho đến khi đếm hết số mười. Muốn làm được như vậy, cô ta phải nín thở. Mặc dầu chân đàn bà chai lại vì phải đi chân không, nhưng chỉ có một vài người có thể chịu được thử thách. Nhiều người không chịu được vì người xem cố ý đếm chậm. Người đàn bà chịu thử thách được mệnh danh là nhẫn nại và có quyền cù chân những người thua cuộc.

Lần này Annuia không chịu đựng được, cô ta đã cười phá lên khi người ta đếm đến chín; quả là tình địch của cô ta đã cù rất có nghệ thuật.

- Như vậy là chị nói dối, - Annuen tuyên bố, vẻ hằn học. - Chị chưa bao giờ chịu đựng được.

- Chị thì có, - Annuia hăng máu cãi lại.

- Người khác sẽ bảo cho chị rõ! Nếu không tin, chị có thể thử em, em không sợ một cuộc thử thách lớn, - Annuen nói, vẻ kiêu căng.

- Chị ta cũng có thể làm như vậy được, - những người khác xen vào.

- Annuen, làm cho các anh xem đi, - Oocdin nói.

Annuen nằm vào chỗ Annuia trên tấm da. Annuia lại đổ nước đầy cốc, đặt nó trên bụng cao hơn, gần phía ngực và bắt đầu cù quanh rốn là nơi nhạy cảm nhất trong cơ thể. Nhưng Annuen vẫn nằm trơ như một khúc gỗ và chịu đựng.

- Chị cố mà chịu đựng nhé! - cô ta vừa nói một cách mỉa mai, vừa đứng bật dậy và ném cốc nước đầy vào mặt Annuia. Đó là đặc quyền của người vượt qua được thử thách lớn. Annuia lẳng lặng lau má và chịu bẽ mặt rút lui.

Những người đàn bà lần lượt nằm xuống để chịu thử thách và Annuen làm cho tất cả mọi người hoặc sớm hoặc muộn đều phải cười, và vẩy nước vào người họ trước khi họ đứng dậy, làm cho mọi người càng cười thích thú.

Những người đàn bà đến hơ khô tay bên ngọn lửa và cười khi thấy một người khác lại bị vẩy nước như thế. Chỉ có một người đàn bà khác chịu được sự thử thách. Và khi mọi người đã chơi hết lượt, Annuia nói rằng cô ta muốn được thử lần nữa, nhưng với điều kiện là người đàn bà vừa thành công cù cô ta. Annuen phản đối, nhưng biết họ ghen nhau, những người khác lập luận rằng vì trước đây Annuia được công nhận là người nhẫn nại nên cô ta có quyền được thử lần thứ hai. Thậm chí Annuia đồng ý chịu đựng một cuộc thử thách lớn và cô ta đã can đảm chịu đựng được, nhưng cô ta không dùng quyền lực của mình để đổ nước vào người cũ mình. Ồ, nếu người đó là Annuen, cô ta sẽ đổ tất cả nước trong cốc vào mặt ngay.

- Hay quá! Bây giờ anh đã có được hai vị hôn thê chịu đựng rất giỏi, - Gôriunôp chúc mừng Oocđin.

- Và còn ghen nhau nữa chứ, - Côxtiacôp đế thêm.

- Đúng là phải như vậy, - Oocđin cười. - Anh ta vui vẻ vì thấy Annuia đã gỡ lại được danh dự của mình,

Họ ngồi nói chuyện phiếm bên bếp lửa nữa, nhưng ngay sau đó, một ông già xuất hiện và nói với những người đàn bà rằng họ có thể quay về nhà của Amnunđac. Nghi lễ đã xong.

- Ông thầy cúng nói gì vậy? Thần linh đã bộc lộ gì với ông ta? Cái gì sắp xảy ra cho chúng ta? - người ta hỏi ông già như vậy.

- Ngày mai các bà sẽ biết mọi chuyện, nhưng bây giờ các bà hãy quay về nhà và đi ngủ – ông già thoái thác và đi ra.

Những người đàn bà mặc quần áo và đánh thức trẻ con đang ngủ trong góc nhà và tụ tập bên ngoài. Người ta nghe họ nói với nhau ở ngoài kia:

- Trời lại trở rét! Ôi, rét quá! Lại có sương mù nữa! Nắm lấy tay nhau, kẻo lạc đường!

Annuia cùng đi với họ để cố gắng biết kết quả của buổi lễ. Đến chỗ đó cô ta trở về và nói:

- Amnunđac và tất cả các chiến sĩ đã đi đâu hết, có lẽ là đưa ông thầy cúng. Không có ai ở trong nhà trừ hai ông già, một trong hai người ấy đã đi ngủ còn người thứ hai mắng tôi vì đã hỏi.

- Theo tôi hiểu, - Gôriunôp nói, - tốt hơn hết là đi ngủ. Muốn biết việc gì thì phải đợi đến mai.

Nếu các nhà du hành biết quỷ thần ra lệnh cho ông thầy cúng những gì và người Ônkilôn đi đâu thì họ không thể nằm ngủ yên lành.

Sau khi nghi lễ xong, tất cả các chiến sĩ có mặt trong nhà thủ lĩnh theo nhau đi về hướng tây-nam, bất chấp mây mù và sương giá. Đi đầu đám rước là những người cầm đuốc, sau đó là Amnunđac, ông thầy cúng, học trò ông thầy cúng và bốn người Ônkilôn. Họ mang người Vampu trên một cái cáng. Các chiến sĩ khác, vũ khí đầy đủ, lặng lẽ đi theo, Người ta chỉ nghe thấy tiếng chân bước nhẹ, tiếng tên chạm nhau trong bao và tiếng cáng kêu cót két. Đi giữa sương mủ mà họ không lạc đường. Những người cầm đuốc dẫn đám rước kỳ quặc này qua các khu rừng, đồng cỏ, đến hồ linh thiêng. Bên hồ, người tù binh tay chân bị trói chặt được đặt lên phiến đá dùng để hiến tế. Ông thầy cúng đứng trên đầu anh ta và người học trò đứng dưới chân. Amnunđac và các chiến sĩ đứng quanh phiến đá thành hình bán nguyệt, đối diện với hồ, đáy hồ vẫn khô. Tất cả các chiến sĩ đốt đuốc và giơ lên trên đầu; ông thầy cúng cầm trống lục lạc, bắt đầu cầu nguyện xong làm lễ hiến tế. Những ngọn đuốc hắt ánh sáng đỏ lung linh lên phiến đá đen, lên người đàn ông trần truồng đầy lông lá đang nằm dài trên phiến đá, lên ông thầy cúng trong bộ quần áo kỳ dị, tay giơ cái trống lục lạc lên cao làm vang ra những tiếng ầm ầm vang và lên nửa vòng người đầy vũ khí, gài lông đại bàng trên tóc. Những gương mặt nghiêm nghị ngẩng nhìn ông thầy cúng với vẻ kính trọng. Xung quanh, một màn sương mù dày đặc bay lơ lửng thỉnh thoảng lại bị xé toạc ra, làm hiện rõ những vách đá đen và đáy hồ rải đá miệng đen ngòm. Đối với người Ônkilôn cũng như bất cứ ai, nghi lễ long trọng trong hoàn cảnh như thế không thể không gây ấn tượng sâu sắc. Tất nhiên, tên tù binh đoán được điều gì sẽ xảy ra, hắn trợn tròn hai mắt và toàn thân dúm lại. Sau tiếng trống lục lạc báo hiệu lúc đầu nhằm kêu gọi và gợi sự chú ý của thần linh, ông thầy cúng buông tay xuống rồi ngẩng khuôn mặt nhăn nheo và hốc hác lên, nhìn chằm chằm vào màn sương mù đang đùn lên và bắt đầu khấn thần linh bằng một giọng ồm ồm:

- Ômmolông, Amnunghen, Iagani! - ông ta gọi, nhắc đi nhắc lại mãi những tên này.– Hỡi những vị thần linh cai quản địa ngục, tôi gọi tên các ngài. Chúng tôi đã mang cho các ngài một con người để hiến tế, một vật hiến tế có máu đỏ đang bốc khói. Xin các ngài hãy nhận lấy và đừng rung đất của chúng tôi nữa. Xin hãy khép những chỗ nứt lại, cho nước trở về hồ, Ômmolông, Amnunghen, lagani hãy nghe chúng tôi nói, chúng tôi đang cầu khấn các ngài!

Khi gọi tên các thần linh, ông thầy cúng gào to lên và những cái tên kỳ quặc này đập vào các vách đá quanh hồ, vang vọng, dường như quỷ thần ở địa ngục đang trả lời và lắp lại tên mình. Sau khi nói lời cuối cùng, bất thình lình, ông thầy cúng rút con dao bằng đá dùng để hiến tế ở thắt lưng ra và cúi xuống rất nhanh, đâm vào ngực tên Vampu, ngập đến tận cán. Người dã man rống lên một tiếng khủng khiếp và tiếng thét của anh ta cũng dội vào vách đá. Để con dao nằm tại chỗ, ông thầy cúng giẫm lên mặt người Vampu rồi đánh trống lục lạc.

Khi tên Vampu không còn giãy giụa nữa, ông thầy cúng rút dao ra, lau dao vào lớp da bằng lông lá của tên Vampu, rồi nói:

- Hãy mang vật hiến tế này ném nó xuống cửa địa ngục.

Sáu chiến sĩ thận trọng nâng xác nó lên và khiêng qua những hòn đá dốc và trơn đến một cái hố, còn một số chiến sĩ khác cầm đuốc soi đường đằng trước và hai bên. Gần hố, các chiến sĩ ngạc nhiên và vui sướng kêu lên:

- Nước, có nước!

Quả thật cái hố trước đây chỉ là một cái miệng há hốc đen ngòm ăn sâu vào lòng đất thì bây giờ đã có nước róc rách bên bờ.

- Quỷ thần ở địa ngục đã nhận vật hiến tế của chúng ta, - ông thầy cúng nói lớn. - Nhìn kìa! Nước đang quay về hồ linh thiêng. Nhanh lên, buộc một hòn đá vào chân vật hiến tế và ném nó xuống hố.

Đặt xác tên Vampu xuống hòn đá, các chiến sĩ cởi dây trói ở tay nó ra và lấy dây buộc một hòn đá lớn vào chân, nâng cái xác lên, đu đưa trong tay và lăng mạnh xuống hố, nước đã chảy tràn lên lòng hồ. Những gợn sóng đen phản chiếu ánh sáng đỏ lung linh của những ngọn đuốc, khép lại trên đầu người dã man.

- Mang một con tuần lộc hiến tế đến đây, - ông thầy cúng ra lệnh. - Chúng ta sẽ dâng lễ vật cho thần linh trên trời.

Hai chiến sĩ tách ra khỏi hàng của những người cầm đuốc, chạy đến và túm lấy sừng một con tuần lộc trắng, dẫn nó lại. Những cái sừng của tuần lộc này được trang điểm bằng những dải băng bằng da có màu sắc, lông nó cũng lấm tấm đất son. Thấy đuốc, con vật hoảng sợ, bước lùi lại và rống lên. Con vật bị kéo đến, nâng lên phiến đá và bị ngã gục dưới chân ông thầy cúng.

Một lần nữa, tiếng trống lục lạc lại vang lên và ông thầy cúng cầu nguyện thần linh trên trời, xin các thần làm cho thời tiết ấm lại, ngừng sương giá và bảo vệ các bầy tuần lộc. Một lần nữa con dao hiến tế lại lóe lên, chọc vào cổ con tuần lộc. Máu tươi vọt ra ngoài làm ố bộ lông của nó và con vật lăn ra bất động. Nó được để lên phiến đá, cái đầu bị cắt lại để biếu ông thầy cúng theo thường lệ.

Nước hồ dâng lên nhanh chóng và khi ông thầy cúng đã vái xong nước thần từ địa ngục trở về, bước xuống khỏi phiến đá thì phần sâu nhất của lòng hồ đã bị nước làm ngập. Theo tục lễ cũ, cái đầu của con tuần lộc được đặt trên cáng và toàn thể đám rước quay về đường cũ.