NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG SỐNG VỚI NHỮNG NGƯỜI ÔNKILÔN
Sáng hôm sau, các nhà du hành ngạc nhiên khi biết đã có một trận động đất trong đêm và hồ lại đầy nước. Hiện tượng thứ hai có thể được giải thích bằng hiện tượng thứ nhất, nhưng tại sao họ lại không cảm thấy? Hóa ra chỉ có hai người già ở lại nhà Amnunđac sau khi các chiến sĩ ra đi, mới cảm thấy. Họ đang ngủ và có một chấn động khá mạnh làm họ bừng tỉnh, chạy ra ngoài, nhưng thấy mọi việc vẫn bình yên và đất chỉ rung nhẹ nên họ trở vào nhà ngay bởi vì có sương giá.
- Tại sao chúng ta lại không cảm thấy gì nhỉ? - Gôriunôp muốn biết. - Có thể những người già ấy đã nằm mơ chăng? Trong ngôi nhà trát bùn của chúng ta, có nhiều người nhưng không ai nhận thấy có động đất.
- Động đất có thể xảy ra được khi căn nhà trát bùn của chúng ta rung bởi những người đàn bà nhảy múa không? - Oocđin kêu lên.
- Có thể lắm, lúc đó một chấn động nếu không mạnh quá, thì có thể dễ dàng không nhận thấy.
- Tuy nhiên nó khôi phục mối liên hệ của hồ linh thiêng với... - Oocđin ấp úng.
- Với cái gì?
- Tôi muốn nói là với biển, nhưng nhớ lại rằng hồ có một chỗ thông ra biển trước đây và khô cạn đi không phải vì cái lỗ thông đã bị bít lại mà vì có sự giảm lượng nước từ thung lũng chảy vào trong hồ.
- Chúng ta phải khám phá điều đó. Điều này rất quan trọng để xác định tại sao nước lại xuất hiện. Những người Ônkilôn nói rằng nó chảy lên từ miệng núi lửa.
- Nếu chúng ta đến đấy mà nước lại biến đi thì chúng ta lại sẽ bị buộc tội và khó khăn sẽ đến với chúng ta. Không, tốt hơn hết là chúng ta hãy chờ và cùng đến đó với Amnunđac, - Côxtiacôp nói.
Các nhà du hành biết thêm được điều gì đã xảy ra đêm ấy. Người ta bảo rằng tên Vampu bị bắt đã cởi dây trói và trốn thoát được trong khi chiến sĩ canh hắn ngủ gật bên ngọn lửa. Tin tức này do Annuia mang về. Cô là người đầu tiên quay về sau buổi vắt sữa sáng.
- Người Ônkilôn biết được có nước ở trong hồ và thấy nó dâng lên vào lúc nào? - Oocđin ngạc nhiên hỏi.
- Họ hành lễ bên hồ linh thiêng lúc ban đêm. Amnunđac, ông thầy cúng và tất cả các chiến sĩ đều đến đây. Họ hiến tế một con tuần lộc trắng và nước bây giờ đã dâng lên, - Annuia nói và vui vẻ nhìn, rõ ràng cô ta tin vào hiệu quả của nghi lễ và hiến tế.
- Hiến tế! - Gôriunôp nói, giọng lè nhè, rồi im lặng. - Anh ta liên hệ việc hiến tế bí mật trong đêm với việc tất cả đàn bà và trẻ con bị đuổi ra khỏi nhà thủ lĩnh cùng việc tên tù binh trốn thoát và nghi ngờ các sự việc đã xảy ra.
Sau đó, lợi dụng lúc tất cả những người đàn bà và Gôrôkhôp vắng mặt, anh ta trao đổi với hai người bạn về sự nghi ngờ của mình.
- Chúng ta phải khám phá xem điều chúng ta nghĩ có đúng không, - anh ta kết luận. - Bởi vì nếu họ đã bắt đầu bằng việc hiến tế người sống tức là tên Vampu thì sau đó họ có thể hiến tế chúng ta, nếu những điều bất hạnh của họ vẫn tiếp diễn.
Nhưng không thể biết được điều gì cả. Các chiến sĩ nhiệt tình bảo họ rằng ban đêm trong khi khấn thần linh, ông thầy cúng đã được lệnh hiến vật hiến tế thông thường, một con tuần lộc trắng bên hồ linh thiêng, do đó nước đã chảy ra ngoài miệng núi lửa và tràn vào đầy hồ. Họ phủ nhận có một trận động đất. Dĩ nhiên là họ không nhận thấy nó trên đường đến hồ hoặc trong khi hành lễ bên hồ.
Một vài ngày trôi qua, bây giờ chỉ mới đầu tháng tám, nhưng dường như đã là cuối thu. Đêm lạnh, có mây mù và sương muối, lá rụng từ trên cây xuống mà không úa vàng, cỏ đã úa và héo đi. Những con chim di cư đã bay đi và hồ vắng tanh; lúc này băng giá hoàn toàn về ban đêm và hầu như tan đi về buổi chiều. Nhiều khi mặt trời nấp sau những đám mây thấp và hầu như không đem lại một chút hơi ấm nào. Những người đàn bà lấy quần áo mùa đông trong bao ra và vội vàng vá víu lại. Những người đàn ông dùng tất cả thì giờ để nhặt củi. Một lần nữa, các nhà du hành lại nhận thấy những cái nhìn thù địch hướng về mình và những người đàn bà lại bắt đầu bỏ nhà đến ở tại nhà Amnunđac, trừ Annuia. Theo lời khuyên của Oocđin, Annuia cũng bắt đầu đi ra khỏi nhà cùng với họ, để không lộ ra sự thủy chung của mình với người khách lạ và dễ dàng biết được ý định của người Ônkilôn.
Từ sáng ngày 15-8, một cơn gió bấc mạnh bốc lên và một cơn bão tuyết thực sự xảy ra. Tuyết xuống rất nhiều và nhiệt độ xuống đến một vài độ dưới không. Gần trưa, tuyết ngừng rơi và khi các nhà du hành ló ra khỏi ngôi nhà trát bùn thì họ thấy Vùng đất Xannhicôp trong chiếc áo mùa đông đẹp đẽ. Đồng cỏ nằm dưới một cái chăn bằng tuyết rất dày và cây cối trong rừng trụi lá, đầy tuyết phủ. Những người Ônkilôn cũng ra khỏi nhà và nhìn quanh, vợ của các nhà du hành cũng nhập vào bọn họ.
Lúc hoàng hôn, Amnunđac đến thăm các nhà du hành. Từ hôm động đất, nhà bị đổ, ông ta chưa đến thăm họ. Ông ta ngồi bên ngọn lửa, hơ tay, nhìn chằm chằm vào ngọn lửa, nói:
- Cái gì đang xảy ra cho chúng tôi, hở các ông da trắng? Mùa đông đến sớm hơn thường lệ một tháng. Cây đã bị sương giá trước khi úa vàng. Chim đã bay xa. Trời lạnh. Nếu tuyết tiếp tục rơi, tất cả những con tuần lộc của chúng tôi sẽ chết đói. Bò, ngựa, tê giác cũng sẽ chết. Và những người Ônkilôn đến lúc đó sẽ ăn gì?
Các nhà du hành im lặng lắng nghe, họ biết lý do tại sao có sương giá và biết trong khi các sông ngầm dưới đất sưởi ấm thung lũng đã bị tắc nghẽn thì không hy vọng tốt hơn được. Nhưng ai có thể nói bao giờ thì những con sông ngầm này không bị tắc nữa và họ có thể nói gì để làm cho Amnunđac hy vọng.
Thấy các nhà du hành không trả lời, người thủ lĩnh đứng dậy, giơ tay đe dọa nói:
- Các ông sẽ phải chịu hết trách nhiệm về những điều đó. Các ông từ xứ sở đầy tuyết, đầy sương giá đến đây và mang theo những thứ đó. Bởi vì các ông thích sống trên vùng đất trắng xóa. Các ông da trắng ạ, các ông muốn giết tất cả người Ônkilôn để chiếm đất của chúng tôi. Người Tructri đã làm tổ tiên chúng tôi phải đến đây và các ông phù thủy da trắng có quyền lực cũng muốn giết tất cả chúng tôi!
Nói xong, ông ta quay ngoắt lại và bước ra khỏi nhà. Các nhà du hành nhìn nhau bối rối. Khi người thủ lĩnh đã đi khỏi, Gôriunôp nói:
- Chúng ta không thể chần chừ được nữa. Ngày mai chúng ta phải đi sớm; có một cơn gió bấc, hồ đóng băng và không có mây mù, còn tuyết thì không dày.
- Phải, nếu tuyết lại rơi thì chúng ta sẽ khó khăn vì không có ván trượt tuyết, - Côxtiacôp nói thêm.
- Và chúng ta cũng không có quần áo mùa đông. Mọi cái đều để ở căn cứ, - Oocđin phụ họa.
- Các anh muốn làm gì thì làm, nhưng tôi sẽ ở lại với người Ônkilôn, - Gôrôkhôp nói quả quyết. - Sương giá sẽ qua đi nhanh chóng và mọi việc sẽ trở lại bình thường. Tôi không nghĩ rằng các anh vượt được băng để đến Côtennưi đâu.
Ba người nói thế nào Gôrôkhôp cũng không thay đổi ý kiến. Anh ta vẫn khư khư cho rằng: ở Vùng đất Xannhicôp tốt hơn ở Cadatrie; thức ăn nhiều hơn, anh ta có vợ đẹp, có nhà cửa ấm áp và chẳng phải than phiền gì cả, anh ta nói như vậy.
- Nếu anh bị giết như tên Vampu thì sao? Nếu họ bắt anh làm vật hiến tế cho thần của họ để chấm dứt sương giá thì sao? - Gôriunôp hỏi.
- Các anh nói vu vơ, tên Vampu trốn thoát, những người Ônkilôn không giết người. Nếu họ giết thì họ đã khử chúng ta từ lâu, chứ không lên nói với chúng ta như Amnunđac vừa rồi. Họ sẽ đến cầu xin chúng ta, nhưng chắc chắn họ sẽ không nộp chúng ta cho thần của họ.
Im lặng, đầy đau khổ,
Lúc này, Gôrôkhôp đứng dậy và đi ra. Một vài phút sau, Annuia xuất hiện.
- Amnunđac vừa ở nhà các anh về và nói với chúng em rằng, các anh sẽ không được có vợ là người Ônkilôn nữa. Ông ta nói rằng, cho đến khi các anh chấm dứt được băng giá và tuyết thì chúng em sống trong ngôi nhà của Amnunđac và không được lên chỗ các anh, nếu không thì sẽ bị trừng phạt. Và tất cả những người đàn ông và đàn bà đều hét lên: “Đáng lẽ chúng ta phải làm như vậy từ lâu, phải làm cho họ sống không vợ, không sữa, không bánh”. Em đề nghị được phép đến lấy chăn lông thôi. Ông ta bảo: “Đi, nhưng phải trở về ngay!”.
Annuia lấy cái chăn lông của mình và rỉ tai Oocđin:
- Đêm nay, khi mọi người đã ngủ, em sẽ đến với anh và báo cho anh những gì em biết. Em cảm thấy gay go lắm.
Cô ta chạy đi và các nhà du hành cảm thấy bực tức.
- Ngày mai, chúng ta phải đi từ lúc rạng sáng, - Côxtiacôp nói, - Rõ ràng đó chỉ là phương sách đầu tiên trong một chuỗi sự bó buộc đang sáng ngời đối với chúng ta để ép ta làm sao cho mùa đông đến chậm.
- Và nếu chúng ta do dự thì chúng ta sẽ bị cầm tù. Khi đã có người gác cửa, lúc đó khó lòng trốn được, - Gôriunôp nói thêm.
- Chúng ta phải chuẩn bị mọi thứ trong khi Gôrôkhôp đi vắng, - Oocđin nói.
- Tuy vậy, cần chú ý xem hắn đi đâu, có phải hắn đến Amnunđac để nói với ông ta về kế hoạch của chúng ta không?
Gôrôkhôp và những người đàn bà không trở về. Chiều hôm ấy, các nhà du hành tự nấu bữa ăn chiều, pha chè và chuẩn bị ba-lô. Họ thức khuya để trao đổi tình hình. Hình như Gôrôkhôp ngủ lại ở nhà Annunđac.
Đến nửa đêm, Annuia đánh thức Oocđin dậy.
- Các anh phải đi càng nhanh càng tốt, - cô ta thì thào, - Các chiến sĩ nói rằng quỷ thần ở địa ngục chỉ làm nước hồ linh thiêng đầy trở lại sau khi một tên Vampu đã được hiến tế. Các thiên thần chỉ được dùng một con tuần lộc, nên họ tức giận tung sương giá và tuyết xuống vùng đất của người Ônkilôn. Họ phải dùng một vật hiến tế tốt hơn. Người ta không nói rõ là vật gì, nhưng em cho rằng họ muốn nói đến các anh.
- Nhikita có nghe thấy không?
- Không, điều đó xảy ra trước khi anh ta đến. Họ không nói gì cả khi có mặt anh ta. Anh ta đến và bảo họ rằng anh ta muốn trở thành người Ônkilôn và anh ta sẽ bỏ các anh để đến sống với họ. Anh ta nói rằng, anh ta không muốn làm điều gì phương hại đến người Ônkilôn. Suốt cả buổi đó, anh ta nói vùng đất của các anh xấu như thế nào, bây giờ người Ônkilôn biết tại sao các anh đến đây, các anh đi tìm một vùng đất tốt cho bộ lạc của các anh. Amnunđac nói: “Vậy thì họ là những tên do thám! Nhưng chúng ta sẽ không để họ đi, nếu không họ sẽ trở lại với một đoàn chiến binh lớn và dùng chớp đánh lại chúng ta. Nếu vậy, người Ônkilôn sẽ bị tiêu diệt hết!”.
- Nikita có nói gì về việc chúng tôi muốn đi vào ngày mai không?
- Không, anh ta chỉ nói về anh ta thôi. Amnunđac khen ngợi anh ta và trả vợ cho anh ta, ông ta bảo các chiến sĩ gọi ông thầy cúng đến đây vào ngày mai. Họ sẽ làm lễ vào buổi tối và em nghĩ chắc lại xoay quanh chuyện các anh và chuyện tuyết đấy thôi.
- Phải, Annuia ạ, các anh sẽ ra đi vào lúc bình minh. Em sẽ làm gì? Em có đi với anh không?
- Anh đi đâu thì em đi đấy, nếu ở xứ sở của anh, em được làm vợ cả, - Annuia trả lời.
- Em không phải là vợ cả mà là vợ duy nhất của anh.
Họ nói chuyện một lúc lâu và khi đồng hồ của Oocđin chỉ gần sáng, họ đánh thức những người kia dậy và sau khi ăn sáng một cách vội vàng, họ rời căn nhà ấm cúng của họ để ra đi không bao giờ trở lại. Họ ghi mấy chữ cho Gôrôkhôp, bảo anh ta báo với Amnunđac rằng: họ đi lấy quần áo ấm và chỉ ngày hôm sau sẽ trở lại. Nếu anh ta muốn đuổi theo họ thì anh ta còn có đủ thì giờ vì họ chờ anh ta hai ngày bên rìa thung lũng. Họ báo với anh ta rằng mùa đông ở Xannhicôp rất khắc nghiệt và không tốt hơn ở Cadatrie. Họ viết cho anh ta rằng anh ta có thể đến muộn cùng với người Ônkilôn để lấy số thịt Nhikiphôrôp chuẩn bị, vì số thịt dùng cho cuộc hành trình của họ đã thừa.
Một ngọn lửa vẫn cháy trong ngôi nhà trát bùn, thành thử ít nhất trong một lát, khói sẽ làm cho người Ônkilôn bớt nghi kỵ. Họ đã khéo thu xếp giường chiếu để làm cho người nào, khi nhìn vào trong, cũng nghĩ rằng họ đang ngủ say. Chỉ mình Annuia đem theo chăn và tất cả quần áo.
Tuyết rơi ít nên vết chân của họ được xóa đi rất nhanh. Họ tin Nhikita bất cứ giá nào cũng sẽ ngăn không cho người Ônkilôn đuổi theo họ cho đến khi trời tối. Họ để lại cho anh ta con Pêxơtơrutca bằng cách khóa chặt con chó trong ngôi nhà trát bùn.
Khi trời rạng sáng, họ đã đến được cánh đồng cỏ lân cận mà họ khó nhận ra, cách trại một vài cây số. Mới bốn tháng mà vạn vật đã thay đổi. Hồi đó, họ có những ấn tượng mới lạ, có sự hứng thú đã khám phá ra được vùng đất đầy bí ẩn cần được giải thích và có niềm vui đã tìm ra một mùa xuân thiên nhiên với màu xanh mơn mởn. Nhưng bây giờ không còn gì nữa ngoài những khu rừng trơ trọi và những cánh đồng tuyết phủ. Họ đang chạy trốn một dân tộc ngu dốt. Trước mắt họ là cuộc hành trình dài, buồn tẻ và nguy hiếm tìm đến đất liền. Một người trong bọn họ đã từng chia bùi sẻ ngọt với họ bây giờ đã lừa dối họ. Nhưng họ lo cho số phận của anh ta. Và cuối cùng, cũng không kém phần quan trọng, có những người đàn bà họ đã yêu, nhưng buộc phải để những người này ở lại. Chỉ có Oocđin là hớn hở vì có Annuia đi bên cạnh, anh ta vui ra mặt. Vì anh ta mà nàng đã cắt đứt quan hệ với mọi người thân, với cuộc sống nàng đã được giáo dục, nuôi dưỡng, dạy dỗ, rời quê hương không thèm ngoái lại để đi đến một thế giới thật xa lạ và đáng sợ đối với nàng.
Họ đến căn cứ vào lúc sẩm tối và làm cho Nhikiphôrôp vui sướng vì đã lâu không được tin tức gì về họ. Ở căn cứ, mọi thứ đều được sắp xếp gọn gàng, có nhiều thịt và củi dự trữ. Bầy chó được ăn no và nhởn nhơ, chỉ có một con chó bị gấu đè chết trong lúc đi săn. Anh chàng Côdắc lấy làm ngạc nhiên khi người ta bảo rằng đoàn thám hiểm đang rời vùng đất phong phú này.
- Tôi vất vả mà không được cái gì cả! - anh ta buồn bã nói. Tôi cố gắng để làm gì: đi săn thú, kéo chúng về phơi và nướng. Tôi bắn nhiều thứ để làm gì, tôi đốn nhiều củi để làm gì? Mẹ kiếp, thành thử ra mọi thứ phải để lại cho bầy gấu!
- Capitôn, đừng ca cẩm nữa, người chứ không phải gấu sẽ ăn số thịt này. Gôrôkhôp cùng với người Ônkilôn sẽ mang thịt về trại của họ.
- Sao? Gôrôkhôp ở lại đây à? – người Côdắc ngạc nhiên hỏi.
- Phải, anh ta quyết định ở lại, anh ta đang yêu và nói rằng ở đây tốt hơn ở Cadatrie.
- Anh ta quyết định như vậy ư! Ôi! Quả thật là đồ chó chết. Anh ta có vợ ở Cadatrie, nhưng nói thật, vợ anh ta già và đanh đá.
- Trong khi cô vợ ở đây thì trẻ và tốt bụng. Anh ta chẳng khác gì một bá tước trên vùng đất này.
- Nhưng người này là ai? Có người tiễn anh phải không? – người Côdắc hỏi và chỉ Annuia.
- Không, đây là vợ tôi, - Oocđin trả lời, - cô ta về đất liền với chúng ta.
- Tôi hiểu, - Nhikiphôrôp kéo dài giọng và tò mò nhìn Annuia đang bối rối; cô ta không kịp hiểu những lời lẽ được trao đổi rất nhanh, nhưng cũng biết rằng cánh đàn ông đang nói về cô ta.
- Như thế là đáng lẽ là Nhikita thì lại là người đàn bà bộ lạc ấy đi với chúng ta. Tôi không biết làm thế nào để lo liệu cho những con chó, cô ta không thay thế Nhikita được và chắc rằng trước đây cô ta chưa bao giờ thấy chó. Đó là chưa nói đến việc biết điều khiển một cái xe trượt tuyết. Ôi thật là lôi thôi!
Cứ cái giọng ấy, Nhikiphôrôp tiếp tục thuyết lý một lúc, trong khi ngồi cạnh đống lửa, nơi các nhà du hành đang tụ tập. Annuia nấu thức ăn khéo đã phần nào làm cho anh ta nguội dần. Thậm chí đến gần tối, anh ta nói:
- Anh có một người vợ tốt, thật chăm chỉ, Xêmion Pêtrôvich ạ. Cô ta chắc phải yêu anh lắm nên mới quyết định rời bỏ dân tộc mình để đến một xứ sở xa lạ bên kia biển cả. Còn vợ các anh thì thế nào? – anh ta quay sang những người khác. - Họ không muốn đến hay sao?
- Không, - Gôriunôp nói. - Anh ta kể lại với người Côdắc một cách vắn tắt và bảo tại sao họ phải nhanh chóng rời khỏi vùng đất.
- Nếu mọi việc tốt lành thì chúng ta sẽ quay về vào mùa xuân năm sau.
Trong khi ăn, Nhikiphôrôp nói rằng không thể rời thung lũng ngay được bởi vì đống tuyết đã sụt xuống rất nhiều trong mùa hè và không đến đỉnh núi được mà chỉ có thể đi qua các gờ cao nhất, từ đó họ phải trèo lên các tảng đá cao khoảng mười lăm mét. Cần phải tạo một lối đi và xẻ các bậc thang trước khi những xe trượt tuyết chở phần còn lại của trang bị lên đỉnh gò. Đống tuyết cũng cần phải được chú ý, trên nó có một lớp băng dày và các bậc cần phải xẻ, phải làm những bậc thang dọc theo chiều dài của nó.
- Nhưng tôi không nghĩ rằng chúng ta có thể sắp xếp mọi việc trong một ngày, - anh ta kết luận.
- Chúng ta có hai ngày, - Gôriunôp nói. - Chúng tôi hứa với Nhikita rằng chúng ta sẽ chờ hai ngày, có lẽ anh ta sẽ thay đổi ý định và đi theo chúng ta.