LỜI NÓI CUỐI CÙNG CỦA ÔNG THẦY CÚNG
Gôrôkhôp đi sâu hơn vào trong một khu rừng rậm, anh ta hầu như tách xa hẳn những ngọn sóng ở đồng cỏ và con lạch. Buộc xuồng vào gốc cây, anh ta nằm dài trong xuồng, quấn chăn ngủ. Tiếng sóng vỗ rì rầm như tiếng ru nhè nhẹ.
Trời sáng một lúc lâu anh ta mới dậy, anh ta nghe thấy tiếng con Pêxơtơrutca rên ư ử. Mở choàng mắt, anh ta thấy nước đã dâng lên trong đêm và đã ép chiếc xuồng vào những cành cây, con chó bị ép chặt quá đến nỗi không cựa quậy được. Đế giải phóng cho nó, Gôrôkhôp phải lấy dao chặt đi một vài cành. Anh ta định đo nước, nhưng không thể chạm được đền đáy, còn như mái chèo và cánh tay anh dài hơn hai mét.
- Lụt thật sự rồi! - anh chàng Iacut nghĩ. - Bây giờ ta sẽ không gặp một con vật nào nữa, những con vật không trốn được thì đã bị chết đuối.
Con Pêxơtơrutca được gỡ ra khỏi các cành cây, nó hít hít cái ba-lô, vẫy vẫy đuôi và ngước lên nhìn chủ, mắt như muốn cầu khẩn một điều gì.
- Có lẽ con vật khốn khổ này đói, - Gôrôkhôp đoán. - Chắc là đã đến bữa ăn, có điều là thức ăn dự trữ của ta thì ít và ta không biết pha trà ở đâu. Thú săn cũng đã đi hết.
Anh ta moi trong ba-lô ra một cái bánh kếp và một con ngỗng thui mà anh ta đã lấy được trong số lương thực dự trữ treo dưới mái nhà và bắt đầu ăn, cho chó nhai những mẩu xương không gậm được và những miếng thịt thừa.
- Chúng ta đang ăn con ngỗng duy nhất của chúng ta, Pêxơtơrutca ạ, - anh ta nói với con chó. - Tất cả thức ăn dự trữ của chúng ta bây giờ đang ở dưới nước và bây giờ không có ai vớt chúng lên. Tiếc quá!
Nói đến đây anh ta lại nhớ tới Racu và nhớ tới sự chăm sóc của cô ta đối với anh. Anh ta trở nên tư lự. Anh ta nghĩ đến Cadatrie và người vợ già khó tính của mình. Do tính hay cáu gắt, mụ thường đuổi anh ta ra khỏi nhà và anh ta phải ngủ đêm với bạn bè hoặc thuê nhà trọ như người đánh xe cho bọn lái buôn khi phải đi những chuyến đi dài ngày. Anh ta chợt có ý nghĩ rằng có lẽ anh có thể thành công khi đưa Racu đi cùng. Người Ônkilôn chắc đã dừng lại trên đồng cỏ khô ráo đầu tiên mà họ tìm được, và đang ngủ say sau những sự kiện phiền toái lúc ban đêm. Anh ta có thể đi đến đấy, nấp bên bìa rừng, chờ Racu xuất hiện, gọi và đưa cô ta đi trốn bằng xuồng. Người Ônkilôn không thể đuổi theo anh ta trên mặt nước. Bạn anh ta sẽ chờ đến tối, nhưng ngay dù đã đi thì trong một ngày họ cũng không thể đi quá xa, chắc chắn anh ta có thể đuổi kịp họ một cách nhanh chóng bằng cách đi theo vết chân họ. Gôrôkhôp biết rằng đêm qua anh ta đi ba bốn cây số là cùng và điều đó có nghĩa là anh ta chưa đi xa lắm và còn có thể quay về ngôi nhà trát bùn.
Trong khi ăn, anh chàng Iacut suy nghĩ và quyết định tháo xuồng chèo về phía bắc. Mặt trời đã lên từ lâu và không khí rất ấm áp mỗi khi nó chui ra khỏi mây; ban ngày cảnh lụt lội không gây ấn tượng kinh hoàng như ban đêm. Nước lấp lánh tỏa thành luồng và khu rừng được phản chiếu như một tấm gương. Gôrôkhôp lấy làm ngạc nhiên khi thấy rác rưởi nổi lềnh bềnh trên mặt nước giữa rừng và giữa những con lạch. Chỉ trong các đồng cỏ, nước chảy ra tứ phía thì mặt nước mới trong. Chèo nhanh đến cánh đồng cỏ, nơi thị tộc Amnunđac đã sống, anh ta quyết định lấy một ít thức ăn dự trữ, Ngôi nhà ngập nước đến tận cửa ra vào, anh ta trèo lên mái và qua lỗ thông khói, vớ được một vài cặp chim thui treo trên một cái kèo, anh ta khoái chí đến nỗi quẳng cả một con vịt cho Pêxơtơrutca, con chó sáng nay được ăn quá ít. Nó gừ gừ một cách khoan khoái, nằm xuống lòng xuồng và bắt đầu gặm con vịt.
Anh ta chèo theo hướng người Ônkilôn đi lúc đêm, dọc theo con lạch trong rừng. Chiếc xuồng bơi qua những đám lá, những cành cây con và rác rưởi được nước cuốn đi. Có những con chim và những con thú nhỏ bị chết. Một con chồn đang nấp trên cây và Gôrôkhôp, một người vốn thích săn bắn, đã lấy chèo vụt chết nó.
- Lông chồn chỉ dùng được cho mùa hè, nhưng cũng có thể đủ để làm một cái mũ. Dù thế nào thì con chồn này cũng sẽ bị chết đói, - anh ta lẩm bẩm và với tay lấy con chim. Xa hơn, về phía bắc, anh ta nhận thấy những bong bóng trong các hồ nhỏ hơn và nước không sâu lắm, anh ta có thể dùng chèo cắm tới đáy.
- Rất tiếc là Matvây Ivanovich không ở đây. Hẳn anh ta sẽ giải thích từ đâu mà nước về nhiều như thế. Đất mở ra như thánh kinh đã nói và nạn lụt bắt đầu. Lạy Chúa! may mà nó không rơi từ trên trời xuống và tràn ngập bởi vì nếu thế thì nó sẽ làm ngập hết mọi thứ.
Sau buổi trưa, Gôrôkhôp thấy mình đang ở chỗ nước rất nông trong lạch và đồng cỏ; anh ta có thể nhìn thấy ngọn của những chòm cây nhỏ trong khi ở các hồ trong đồng cỏ thì những bụi cây sậy đều hiện ra rất rõ. Anh chàng Iacut phải chèo một cách cẩn thận để tránh những gốc cây. Rồi chiếc xuồng bắt đầu bị thủng đáy và phải dừng lại. Gôrôkhôp lao ra khỏi xuồng và đi bộ, kéo xuồng đi theo; chẳng mấy chốc anh ta phải cho con Pêxơtơrutca xuống và đeo ba-lô lên lưng để làm cho xuồng thật nhẹ, bởi vì trên nền đất hầu như không còn nước. Cuối cùng, anh ta đến được rìa đồng cỏ mà bây giờ chỉ là một khoảng trống ướt át có nước lấp loáng đây đó trong các hang hốc. Đồng cỏ đầy thú vật: bò, ngựa, nai và một vài gia đình tê giác. Chúng đang ăn cỏ hoặc nằm dài trên đất mà ngủ. Từ những bụi cây vẳng đến tiếng lợn lòi kêu ủn ỉn, chúng đang đi tìm thức ăn trên đất ướt.
- Thật là thú vị, có bao nhiêu loài thú ở đây, - Gôrôkhôp nghĩ. - Những con vật khốn khổ này thật là vất vả, phải lội nước suốt đêm không nghỉ. Bọn thợ săn thì ở kia.
Anh ta thấy người Vampu lén đến chỗ bầy ngựa gần nhất. Họ đang bò đằng sau bụi cây dọc theo rìa đồng cỏ. Những con vật không tinh nhanh như trước, chắc có lẽ chúng đông quá, còn người Vampu thì đến quá gần. Gôrôkhôp đếm được hai chục tên. Người dã man gần nhất, cách bụi cây Gôrôkhôp đang nấp bốn mươi bước, tay anh ta bịt chặt lấy mồm con Pêxơtơrutca để ngăn không cho nó sủa.
- Nào, ta sẽ làm cho chúng sợ. Hãy cho chúng biết rằng sấm và chớp hãy còn đây! - anh ta giương cao súng trên đầu bọn Vampu.
Khi khói tan, bọn Vampu đã biến mất và chỉ có những bụi cây lay động, chứng tỏ chúng đã trốn vào rừng, có thể nghe được tiếng chúng la mỗi lúc một yếu dần. Tiếng súng cũng làm cho cả đồng cỏ rối loạn. Những con thú đang nằm trên đất nhảy chồm lên và những đàn thú chạy đi chạy lại.
- Nếu những tên Vampu ở quanh đây, - Gôrôkhôp tự nhủ, - thì người Ônkilôn không thể ở gần đây được. May mà ta làm chúng sợ hãi rồi bỏ chạy, nếu không ta có thể bị chúng tấn công.
Anh ta kéo chiếc xuồng đi xa hơn, chẳng mấy chốc đã đến chỗ đất hoàn toàn khô; trên đường đi có những hòn đá dễ làm hỏng xuồng. Một cây dương cao có ngọn xòe ra mọc ven đồng cỏ, Gôrôkhôp quyết định bỏ chiếc xuồng lại đây. Anh ta gác chiếc xuồng giữa những chạc cây, để ba-lô và chó vào trong xuồng, tháo xích ở cổ chó buộc vào xuồng rồi tiếp tục đi nhẹ nhàng hơn. Khi anh ta đã đi cách cây dương gần 20 cây số thì nghe thấy tiếng nói và ngửi thấy mùi khói nồng nặc. Cẩn thận đi đến bìa rừng, anh ta dừng lại để xem có gì không. Trong đồng cỏ, người Ônkilôn đang đứng, ngồi hoặc nằm quanh những đống lửa, thịt đã nướng và mùi thịt bốc lên mũi, thơm lừng: từ những vùng bị lụt, toàn bộ lạc hoặc phần lớn họ đã tập trung về đây. Như thường lệ, mỗi thị tộc đốt riêng một ngọn lửa. Đứng tại chỗ quan sát anh thấy một đám người rất đông đang tụ tập quanh một đống lửa. Anh chàng thợ săn Iacut cho đó là thị tộc Annunđac và bò dọc theo bìa rừng lại gần. Khi đã bò được khoảng ba chục bước, anh ta nhận ra Amnunđac, những tù trưởng của các thị tộc khác đang vây quanh thủ lĩnh. Họ đang thảo luận vấn đề có nên định cư trên những đồng cỏ khô ráo trải rộng cả phần phía bắc thung lũng này không, nếu ở lại thì phải bắt đầu làm nhà ngay vì mùa đông đã tới, hoặc chờ cho nước rút rồi quay về chỗ cũ.
- Những thằng điên, - Gôrôkhôp nghĩ bụng, - chúng vẫn còn hy vọng nước rút. Chúng không biết có bao nhiêu nước.
Anh chàng Iacut bỗng chú ý thấy trên đồng cỏ không có tuyết như những chỗ khác, nơi vẫn khô sau khi lụt. Rõ ràng tuyết đã tan bởi vì không khí hoàn toàn ấm. Hình như nạn lụt đã làm cho mùa hè trở về với thung lũng.
Những người đàn bà và bọn trẻ con ngồi bên kia đống lửa. Gôrôkhôp trông thấy Annuen, Papu và Matu, nhưng Racu thì không thấy.
- Ta muốn biết cô ta có đi với thị tộc trong cảnh góa bụa không, - anh ta nghĩ và nhìn kỹ những người đàn bà ngồi quanh những đống lửa. Thị tộc của Racu, một thị tộc đã từng sống gần thị tộc của thủ lĩnh nhất, giờ đang ngồi cạnh ngọn lửa gần thị tộc Amnunđac, nhưng cũng không thấy Racu ở đây.
- Cô ta có thể ở đâu? Cô ta đi đâu hay đang ngủ? Ta sẽ chờ. Họ sắp bắt đầu ăn và mọi người sẽ đều có mặt ở đây.
Lúc này những người đàn bà đang nói oang oang là thịt đã làm xong, tất cả những người đang dạo quanh đồng cỏ đều về chỗ thị tộc của mình và ngồi quanh những đống lửa. Những người đàn bà đưa cho mỗi người một miếng thịt nướng và bánh kếp, nhưng Racu cũng không xuất hiện trong thị tộc Amnunđac hay thị tộc của cô ta. Điều này làm Gôrôkhôp bối rối. Anh ta vụt nảy ra ý nghĩ: có thể cô ta bị giết vì không tuân lệnh thủ lĩnh. Không có cách giải thích nào khác về sự vắng mặt của cô ta là có thể cô ta đã bị nghiền nát khi căn nhà của thủ lĩnh bị động đất làm đổ ụp.
- Điều này có nghĩa là ta đã mất công vô ích, - anh ta lẩm bẩm. - Ta đã cố gắng đến đây mà chẳng được việc gì. Bây giờ ta phải quay về, mặt trời đã ngả về tây rồi.
Nhưng anh ta chưa quay lại thì một nhóm chiến sĩ có vũ khí từ khu rừng gần nơi anh ta đang đứng, ló ra. Họ đến chỗ Amnunđac và đặt một đống giáo và gậy của người Vampu dưới chân ông ta.
- Thưa thủ lĩnh, thủ lĩnh bảo chúng tôi đi tìm chỗ phát ra tiếng sấm, - người chiến sĩ lớn tuổi nói. - Thủ lĩnh nghĩ rằng những tên phù thủy da trắng đã quay về, nhưng ở đấy chúng tôi chỉ thấy nhiều con thú lớn và tìm thấy cái này, - ông ta chỉ những cái gậy và những cây giáo. - Chúng tôi không tìm thấy những ông phù thủy da trắng và dấu vết của họ.
- Tôi nghĩ rằng họ vẫn ở rất gần đâu đây, - Amnunđac nói. - Những người Vampu không có sấm và chúng tôi đều nghe tiếng sấm rất rõ.
- Thật may mà chúng không có chó, - Gôrôkhôp tự nhủ. - Nếu không chúng đã tìm thấy ta từ lâu.
Nhưng khi nghe Amnunđac nói tiếp, anh ta rất hoảng.
- Nói với các tù trưởng của thị tộc cho tất cả chiến sĩ sục tìm trong khu rừng quanh đồng cỏ. Bọn phù thủy da trắng vẫn ở quanh quất đâu đây và sẽ còn mang lại cho chúng ta nhiều điều bất hạnh nữa.
Các chiến sĩ đi từ đống lửa này đến đống lửa khác truyền lệnh của thủ lĩnh. Gôrôkhôp hiểu rằng anh ta sẽ không thể đi xa một cách an toàn được và quyết định trèo lên một ngọn cây chờ cho đến khi việc tìm kiếm kết thúc. Anh ta chạy sâu vào trong rừng, chọn một cái cây thích hợp và trèo lên thật cao để có thể nhìn bao quát toàn bộ đồng cỏ. Ngồi giữa hai cành cây, anh ta thấy những chiến sĩ mang vũ khí rời những đống lửa và chạy đến bìa rừng. Họ đi thành hàng dài và bắt đầu chuyển về phía trước, một bộ phận của đoàn người đi qua cái cây Gôrôkhôp đang nấp, nhưng các chiến sĩ nhìn xuống đất, sục vào các bụi rậm, lấy giáo chọc vào các bờ bụi, nhưng không ai nghĩ đến chuyện nhìn lên cây. Nhưng ngay cả nếu họ đã nhìn lên thì họ chỉ thấy được Gôrôkhôp khi họ biết đúng cái cây mà Gôrôkhôp nấp. Anh chàng Iacut đang mặc quần áo màu đen và ngồi rất cao trên cây, bám chặt lấy thân cây và mặc dầu không có lá, cành cây vẫn tạo thành một cái lưới dày đặc bao quanh anh ta.
Đi tìm mất gần hai tiếng đồng hồ và khi đã mỏi mệt, các chiến sĩ bắt đầu từ mọi phía quay về và ngồi bên cạnh những đống lửa để nghỉ. Mặt trời đã xuống núi.
Gôrôkhôp trèo từ trên cây xuống và lại nấp vào bìa rừng, ở đây anh ta nghe được người trong thị tộc của ông thủ lĩnh nói. Amnunđac dang ngồi cạnh ông thầy cúng, ông này vừa mới được biết tin cuộc tìm kiếm vô hiệu, ông ta có vẻ lo lắng và không hài lòng.
- Báo những tù trưởng của tất cả các thị tộc đến đây, chúng ta phải tổ chức một cuộc họp, - ông thầy cúng nói.
Amnunđac ra lệnh và các chiến sĩ chạy đến tất cả những đống lửa.
- Lão già khốn kiếp ấy định mưu tính cái gì nữa đây, - Gôrôkhôp nghĩ. - Tất cả những người đàn bà đã đứng dậy và ra khỏi đống lửa để nhường chỗ, nhưng Racu không có đây. Họ đều ngồi tất cả ở đây, trừ Racu. Rõ ràng họ đã giết cô ta.
Khi tất cả những tù trưởng đã ngồi quanh ngọn lửa, ông thầy cúng đứng dậy, ngẩng đầu lên, giơ cao hai tay và nói:
- Những điều bất hạnh lớn đã xảy ra cho bộ lạc chúng ta. Đã bao nhiêu lần đất rung và bao nhiêu lần nhà cửa của chúng ta đổ ụp từ ngày những tên phù thủy da trắng đặt chân lên vùng đất chúng ta, nơi mà trước đây chúng ta đã sống yên lành biết bao. Họ đến và thấy đời sống ở đây tốt đẹp hơn đời sống trên đất liền của họ, ở đấy tuyết không bao giờ tan và mặt trời lạnh lẽo. Họ thấy những khu rừng, những đồng cỏ xanh tốt có nhiều thú rừng. Họ thấy những bầy tuần lộc lớn của chúng ta và tìm cách tiêu diệt chúng ta để cướp đất, cướp những bầy súc vật của chúng ta. Họ làm hồ linh thiêng khô cạn, nhưng nước đã về sau khi chúng ta dâng một vật hiến tế đầy máu me. Họ mang băng giá đến và làm cho mùa đông đến sớm hơn một tháng rồi giữ cho tuyết không tan. Họ nghĩ chúng ta sẽ chết vì băng giá, nhưng chúng ta không chết, bởi vì chúng ta giữ cho lửa cháy trong nhà và sưởi ấm. Họ quyết định dùng nạn lụt để đuổi chúng ta ra khỏi nhà. Đất lại rung, nước tuôn ra và tràn ngập đồng cỏ và nhà cửa của chúng ta, chúng ta chạy trốn. Tiếng nói của các thiên thần đã dun dủi chúng ta đến đây, nơi không có nước. Nhưng các nhà cửa của chúng ta đã bị phá hoại và bầy súc vật của chúng ta đã bị tản mát.
Liệu chúng ta có chịu được lâu hay không? Mùa đông đã đến gần, tất cả chúng ta sẽ chết và những tên phù thủy da trắng sẽ cướp đất chúng ta. Chúng chỉ chờ cơ hội. Chúng ngồi chờ bên vùng tuyết, còn tên ở lại thì đang do thám xem chúng ta ở đâu. Nó ở gần chúng ta, nhưng chúng ta không thể tìm được nó.
Ông thầy cúng dừng lại để thở. Tất cả những con mắt đều đổ dồn vào ông ta.
- Chúng ta phải giết những tên phù thủy da trắng. Chúng ta coi họ là khách quý. Chúng ta đã cho họ nhà, thức ăn và vợ trẻ. Để đáp lại, họ đem lại cho chúng ta tai họa. Những tai họa này trước kia chưa hề có, có phải không, hỡi những người Ônkilôn?
- Phải, phải, đúng như vậy, - những người tù trưởng hô to.
- Chúng ta đã trừng phạt con mụ đàn bà đã không vâng lời chúng ta. Mụ ta là một trong những con đàn bà mà chúng ta đã cho họ. Mụ ta muốn lừa đảo bộ lạc như con mụ đã chạy trốn với chúng, theo chúng đến xứ tuyết. Tên phù thủy da trắng, chồng nó, đã không bảo vệ nó. Hắn chạy trốn mặc dầu mụ ta gọi hắn đến cứu khi mụ ta chết đuối giữa dòng nước do những tên phù thủy đã tháo từ lòng đất ra.
Bây giờ chúng ta phải bắt tất cả những tên phù thủy da trắng và dâng chúng cho các vị thần linh. Ngày mai, 100 chiến sĩ can đảm nhất sẽ đi đến những nơi có tuyết, họ sẽ đóng bè và bơi đến đấy. Thủ lĩnh của chúng ta sẽ dẫn đầu: Các chiến sĩ thì có giáo và tên, còn thủ lĩnh thì có sấm và chớp mà chúng ta đã lấy của tên da trắng. Bây giờ chúng ta cũng đầy đủ vũ khí như chúng và chúng ta có 100 người, còn chúng chỉ có 4 tên. Chắc chắn chúng sẽ bị 100 chiến sĩ đánh bại! Cho dù năm chục chiến sĩ ngã ở chiến trường, nhưng đất nước của chúng ta sẽ được giải thoát và chúng ta sẽ tiếp tục sống yên lành như trước. Còn nếu chúng ta không bắt được những tên phủ thủy da trắng làm vật hiến tế, nước sẽ không quay về, đất nước của chúng ta sẽ bị phá hoại và bầy súc vật của chúng ta vẫn bị tản mát, đó là lời của tôi.
- Thằng già khốn nạn, đê tiện, - Gôrôkhôp lẩm bẩm khi nghe ông thầy cúng nói. - Mày đã dìm chết Racu của tao, bây giờ mày còn muốn bắt và giết chúng tao như những bầy tuần lộc, nhưng trước hết, tao sẽ cho mày về chầu tổ tiên của mày đã!
Anh ta giơ súng lên và nhằm vào ông thầy cúng đang đứng đối diện với ngọn lửa trước mặt anh ta. Ông ta đang giơ tay lên và đầu ngẩng cao với dáng oai nghiêm của một nhà tiên tri. Trong bóng tối dày đặc, ánh lửa soi rõ khuôn mặt ông ta. Một tiếng súng nổ vang rền và ông thầy cúng ngã vật xuống đất, mặt úp vào lửa. Hãi hùng, Amnunđac và những người tù trưởng đứng lặng đi. Cái mũ bằng lông của ông thầy cúng bắt lửa và những người đàn bà đứng gần đấy kêu thét lên. Đột nhiên, dường như theo hiệu lệnh, tất cả những người đàn ông ngồi quanh ngọn lửa đều giơ hai tay lên trời, kêu một tiếng dài, kêu gọi sự giúp đỡ rồi lấy tay che mặt, lắp lại cử chỉ bi đát này ba lượt, sau đó Amnunđac đứng dậy và trịnh trọng nói:
- Chớp của những tên phù thủy da trắng đã giết ông thầy cúng vì ông ấy đã thúc đẩy chúng ta làm hại họ. Họ rất mạnh và chúng ta không thể đánh nhau với họ. Đó là lời tiên tri của ông thầy cúng tài giỏi đã dẫn tổ tiên chúng ta đến đất này. Đưa xác người chết ra khỏi lửa.