NHỮNG KẺ LÁNG GIỀNG GHÊ SỢ
Sau khi bắn, Gôrôkhôp tụt xuống chạy, hy vọng rằng trong lúc lộn xộn, người Ônkilôn không thể đuổi theo ngay được và nhờ đêm tối, anh ta có thể ẩn và trường hợp cùng lắm thì lại trèo lên cây. Lần theo các bụi rậm, anh ta tìm thấy con đường mòn đã dẫn mình đến đây và chạy miết đến chỗ cây dương, nơi anh ta để xuồng và chó. Nếu người Ônkilôn đi theo con đường này, anh ta tự nhủ, anh ta sẽ trèo lên cây, ở đó có ba-lô, chăn, thức ăn và anh ta sẽ ngủ đêm an toàn, bởi vì mang nặng mà đi tiếp là không nên và không nhanh được, còn đến chỗ có nước phải đi hai ki-lô-mét nữa.
Anh ta dừng lại lắng nghe. Đầu tiên thấy mọi vật đều yên lặng, nhưng sau đó anh ta bỗng nghe thấy có tiếng người nói và thấy ánh sáng lóe lên từ xa. Chắc chắn là người Ônkilôn đang thắp đuốc đuổi theo. Tức khắc Gôrôkhôp trèo lên cây, kéo chiếc xuồng lên cao hơn. Con Pêxơtơrutca không thể ngồi yên trên cây, điều đó đã gây khó khăn nhất cho anh ta. Anh ta phải gác xuồng vào giữa hai cành to, đặt con chó và ba-lô vào đấy. Anh ta vừa làm xong thì một vài người Ônkilôn cầm đuốc xuất hiện trên con đường hẹp gần cây dương, rồi có những chiến sĩ khác ở bên trái và bên phải họ. Họ bỗng thấy dấu xuồng trên đất ướt, họ vui sướng kêu lên, gọi những người khác đến và vội vã đi theo, hy vọng đuổi kịp người chạy trốn.
Gôrôkhôp ăn một con chim thui, và cho con Pêxơtơrutca ăn, anh ta đốt một điếu thuốc. Không thấy có dấu hiệu gì thêm về người Ônkilôn, anh ta quyết định ngủ cho đến khi mặt trăng ló ra. Anh ta buộc mình vào thân cây và ngủ biến đi.
Anh ta thức dậy vì cái cây anh ngồi bị lắc rất dữ. Anh ta gần như mất thăng bằng và nếu không buộc mình vào thân cây thì đã rơi lộn cổ xuống. Anh ta còn phải dùng hai tay giữ chặt lấy xuồng với đồ đạc. Không thể hiểu được chuyện gì xảy ra. Có những tiếng ầm ầm inh tai xung quanh anh. Mặt trăng đã lên từ lâu và đang sáng rực trên trời. Tất cả các cây bên cạnh đều cũng lay động, nhưng không có gió. Cuối cùng anh ta hiểu được rằng mặt đất lại rung chuyển. Nhìn về phía bắc, anh ta thấy có điều gì ghê gớm đang xảy ra đâu đây rất gần. Những đám khói đen và trắng từ sau khu rừng đang bốc lên, tiếng ầm ầm vọng lên từ đây, mạnh đến nỗi màng tai Gôrôkhôp rung lên, rồi một ngọn gió sắc như dao thốc tới làm anh ta khó thở.
- Trời ơi, chuyện gì đang xảy ra thế này? Đất bị xé ra và lửa đang bắn tung tóe, - Gôrôkhôp thì thào, - Ta phải chạy thôi, chạy xuống nước.
Anh ta lần lượt dòng ba-lô, xuồng và chó xuống một cách vất vả bởi vì ngọn cây không lúc nào ngừng lay động. Xuống đền đất, anh ta hầu như khó đứng vững. Cứ lắc lư như người say rượu, anh ta kéo xuồng xềnh xệch trên mặt đất, rồi qua chỗ nước nông, thỉnh thoảng có vật gì rất nặng rơi xuống nước, khi thì ở bên phải, khi thì ở bên trái, làm gãy cành cây. Tiếng ầm ầm vẫn không ngừng, không khí nóng hơn và ngột ngạt hơn.
Cuối cùng, khi đã đến chỗ nước sâu, Gôrôkhôp bước vào xuồng ráng sức chèo, cốt làm thế nào càng xa nơi xảy ra tai biến càng tốt. Đến một đồng cỏ lớn, anh ta ngoái nhìn về phương bắc và thấy một vầng ánh sáng hơi đỏ hằn trên nền khói đen, có chớp đỏ loằng ngoằng.
- Những người Ônkilôn đang chết trong địa ngục, - anh ta nghĩ. - Và đổ lỗi cho những người da trắng, họ nói mọi việc xảy ra là do những ông phù thủy da trắng gây nên, và bảo: “Họ đã giết ông thầy cúng và bây giờ họ đang tiêu diệt toàn bộ bộ lạc”.
Nước vỗ nhẹ, nhưng ở nơi xa xa, chỗ nước sâu hơn, mặt nước ít phẳng lặng hơn và chiếc xuồng tròng trành. Cuộc vật lộn với sóng nước suốt gần mười cây số làm Gôrôkhôp mệt lả. Anh ta quyết định tìm một chỗ an toàn để nghỉ ngơi cho đến sáng. Bên rìa một đồng cỏ, nơi sóng đặc biệt lớn, anh ta thấy bộ khung của ngôi nhà nhô lên trên mặt nước; trận động đất đã phá những bức tường trước khi có lụt, nhưng bốn cột trung tâm và mái vẫn còn bởi vì cột được cắm xuống đất và có những chiếc kèo giữ. Mái nhà cao một mét trên mặt nước, nên không bị sóng tràn đến.
- Ta có thể nghỉ ở đây! - Gôrôkhôp nghĩ bụng và lái xuồng đến. Anh ta mang mọi thứ, kể cả con chó ra khỏi xuồng một cách khó khăn, bò ra ngoài và kéo chiếc xuồng nhẹ lên. Trải chăn lên lớp đất ướt, anh ta ngủ được ngay mặc dù có tiếng rầm rầm từ phía bắc vọng lại hòa trong tiếng sóng vỗ.
Anh ta thức dậy lúc bình minh và nhìn quanh tìm hướng tiếp tục bơi đi. Nước đêm qua yên tĩnh, thỉnh thoảng mới có những gợn sóng lăn tăn làm cho mặt nước bóng như gương cau lại. Ở gần một hòn đảo có hình một ngọn đồi nhô lên trên mặt nước, một cây dương cao bên cạnh làm Gôrôkhôp nhận ra ngôi nhà mà anh ta và các bạn đã sống, đó là cây dương anh ta đã trèo trong lúc chạy trốn. Điều đó có nghĩa là cái nền anh đã ngủ là phần sót lại của ngôi nhà Amnunđac.
Ăn vội vàng vài miếng, anh ta dòng xuồng xuống nước và gọi con Pêxơtơrutca. Con chó đang đứng gần cái ống khói giữa mái nhà, nhìn xuống nước và sủa vang.
- Mày thấy gì ở đấy thế? Con cá hay cái gì? - Gôrôkhôp hỏi và đến bắt con chó, nó không chịu rời chỗ nó đang đứng. Anh ta nhìn vào lỗ ống khói và giật mình, những ngón tay của hai bàn tay đang giơ ra khỏi mặt nước gần chỗ một cái cột.
- Lạy Chúa, có người chết đuối ở đây, - anh ta kêu lên. - Tại sao người ấy lại không trèo lên cột?
Một cái nhẫn bạc rất quen thuộc đối với Gôrôkhôp hiện ra trên ngón tay. Không một người Ônkilôn nào có chiếc nhẫn bạc, chỉ vợ những nhà du hành mới được chồng tặng cho nhẫn này. Họ rất hãnh diện về những chiếc nhẫn ấy.
- Ôi, Racu! Quân giết người! Tất cả những người đàn bà khác đều thoát nạn, thằng chó già đã nói rằng chúng đã dìm chết con phản bội.
Gôrôkhôp bước vào xuồng và chèo đến cột, anh ta có thể thấy được đôi bàn tay, cổ tay bị trói chặt vào cột. Anh ta cắt dây và nắm cái cổ tay cứng đờ kéo lên. Cánh tay dần dần nhô lên trên mặt nước, sau đó có tóc và cuối cùng, Gôrôkhôp thấy đôi mắt trợn trừng nhìn anh một cách ai oán, như thầm trách móc. Anh ta thét lên và lùi lại, cái cổ tay tuột ra khỏi tay anh và cái đầu biến mất trong mặt nước đầy bùn.
- Cô gái bất hạnh, - anh chàng Iacut thầm nghĩ. - Chúng buộc cô ta vào cái cột này lúc ban đêm để cô ta không thể chạy đến chỗ mình được. Khi nước bắt đầu dâng lên chúng quên, hoặc cố ý để cô ta lại, và cô ta bị chết đuối.
Anh ta hình dung ra cảnh Racu phải cam chịu khi nước chảy vào nhà và dâng lên mỗi lúc một cao trên thân thể cô ta. Cô ta vùng vẫy và kêu cứu, nhưng chỉ có tiếng sóng vỗ trong đêm tối ghê rợn đáp lại. Nước dâng lên đến ngực, đến cổ, đến mồm cô ta và bóp nghẹt những tiếng kêu cuối cùng trong cổ họng. Anh ta ở gần đây và có thể dễ dàng đến cứu cô ta khi người Ônkilôn chạy trốn. Rõ ràng cô ta chỉ bắt đầu kêu gào khi nước chảy vào nhà, nhưng lúc đó anh ta đã qua hồ.
Anh ta muốn vớt xác cô lên và đem chôn. Nhưng không có neo, vả lại anh ta chỉ có thể chôn được cô ta trong đống tuyết bên kia thung lũng. Lòng quặn đau, anh ta để con Pêxơtơrutca vào xuồng, con chó bây giờ đã chịu nghe lời anh gọi. Gôrôkhốp lấy các đồ đạc và bơi về phía nam. Anh chèo thật nhanh, hy vọng vẫn đủ thì giờ đuổi kịp bạn mình. Chiếc xuồng như đang lao vun vút qua vùng nước sâu phẳng lặng trên hồ và trên lạch.
Vùng ngoại vi thung lũng có những đống tuyết trắng tương phản với những vách đá đen đã hiện ra. Những đám mây đen và trắng vẫn cuồn cuộn ùn trên bầu trời phương bắc và thỉnh thoảng anh ta lại nghe tiếng nổ ầm ầm.
Cuối cùng Gôrôkhôp đến cuối bìa rừng, trước mặt anh ta là mặt nước phẳng lặng trải rộng đến tận những đống tuyết. Ở đây, tuyết cũng bị ngập. Vậy các bạn của anh ta đâu? Họ còn không? Họ có bị chết đuối không? Chẳng có ai ở gờ trên những đống tuyết cả.
Hình dáng một người in hình đen sẫm lên bầu trời trong sáng xuất hiện trên một vách đá. Gôrôkhôp hét thật to và vung bơi chèo. Con Pêxơtơrutca sủa vang.
Người ta đã thấy anh ta! Anh ta đã thoát nạn!
Anh ta chèo đến chân đống tuyết dưới vách đá, cho chó lên bờ, mang súng, ba-lô và chăn, trèo lên những bậc thang.
Một khe nứt bất ngờ mở ra trước mặt làm anh ta phải dừng lại. Gôriunôp và Oocđin đã đứng ở bên kia.
- Cuối cùng, tôi đã tìm cách đuổi kịp các anh, - Gôrôkhôp kêu lên, - vứt đồ đạc xuống. Nếu các anh biết được những gì tôi phải trải qua!
- Được rồi, anh còn phải chờ lâu đấy. Chúng tôi phải làm những bậc thang phía dưới và phía trên khe nứt này đã, - Gôriunôp trả lời.
- Cái khe này to thật. Nó chặn không cho kẻ khác đuổi theo các anh phải không? Hừ, vượt qua cái khe này chẳng dễ đâu, - Gôrôkhôp nói và nhìn xuống cái khe có rìa băng dốc đứng cao một vài mét. - Cắt những bậc thang thì mất quá nhiều thì giờ. Thế này nhé, mang một cái dây thừng và ném một đầu cho tôi.
Các nhà du hành mang một cái thừng đi để dùng lúc cần thiết. Họ buộc một hòn đá vào một đầu thừng, ném cho Gôrôkhôp. Anh ta kéo thừng về phía mình và bắt đầu thả hành lý xuống, sau khi gấp thừng lại. Khi mọi thứ đã thả xuống tới chân khe kẽ nứt, anh ta cởi một đầu dây, kéo đầu kia, để đồ đạc trên đất và rút dây lên. Bằng cách này, anh ta đã dòng ba-lô, chăn và cuối cùng cả con Pêxơtơrutca xuống bằng cách luồn dây thừng vào dây xích buộc cổ nó. Con chó bị treo cổ, ngạt thở và vùng vẫy trong không khí, nhưng công việc này diễn ra rất nhanh nên con chó không việc gì. Bây giờ Gôrôkhôp phải dòng mình xuống. Có một tảng đá ba-dan ăn sâu vào băng nằm trên bờ khe nứt. Anh chàng Iacut cuộn tảng đá bằng dây thừng và dòng mình xuống phía dưới. Đến chân khe nứt, anh ta cởi một đầu dây rồi rút đầu dây kia và dây thừng rơi xuống chân anh ta.
Việc leo lên không khó khăn lắm, vì ở trên có hai người. Gôrôkhôp, Pêxơtơrutca và đồ đạc của anh thợ săn nhanh chóng được kéo lên. Còn kéo anh thì lúc đầu khó hơn vì anh ta rất nặng. Lên được trên rồi anh ta chạy đến ôm các bạn.
- Lạy Chúa, thế là đến nơi rồi! Thế mà tôi cứ nghĩ là sẽ không gặp được ai ở đây cả.
Dĩ nhiên là Gôrôkhôp sẽ không gặp các bạn của mình nếu anh ta ra khỏi rừng chậm một vài phút. Hai cỗ xe trượt tuyết còn lại đã ở trên đỉnh dốc phía nam thung lũng. Trong khi Nhikiphôrôp buộc dây thì Gôriunôp và Oocđin quay nhìn lại lần cuối cùng xuống thung lũng Vùng đất Xannhicôp, nơi họ đã thám hiểm trong nhiều tuần, hiện đang bị lụt và bị phún thạch tiêu diệt cùng với sinh vật hai chân và bốn chân của nó ngay trước mặt họ. Họ đã tích lũy được nhiều tài liệu có giá trị, nhưng kết quả của những công trình này đã bị mất cùng với một nhân viên của đoàn thám hiểm vào một trong những giờ phút cuối cùng, họ sống trên vùng đất này, còn một nhân viên khác của đoàn thám hiểm đã tình nguyện ở lại và họ có đủ lý do để tin rằng anh ta cũng đã chết,
Vùng đất bây giờ là một cái hồ rất lớn bị khuôn lại trong những vách đá đen ngòm và lởm chởm đầy những hòn đảo và có đất có rừng đen thẫm mọc um tùm, nó lóng lánh trong ánh mặt trời đang xuống thấp, trong khi ở phía bắc, đằng sau bức tường hơi nước và khói đen ngòm, màn bi kịch cuối cùng của vùng đất Xannhicôp và của bộ lạc Ônkilôn đã chấm dứt. Oocđin dùng tấm kính cuối cùng để chụp lại bức tranh đau buồn này - một bức tranh của một thế giới nhỏ mà tàn tích của những ma-mút, tê giác lông len và đại biểu của nhân loại thời nguyên thủy còn sống sót, - một thế giới vừa mới được phát hiện cho khoa học thì đã sắp tiêu vong. Sau khi chụp ảnh xong, anh ta đi sắp xếp máy ảnh, còn Gôriunôp thì dừng lại lâu hơn nên đã thấy xuồng của Gôrôkhôp từ khu rừng bơi ra và đang tìm đường. Nếu không có điều tình cờ may mắn này thì anh chàng Iacut không dễ gì đuổi kịp bạn mình.
Trèo lên đỉnh, Gôrôkhôp thấy khe nứt sâu hoắm, biết Côxtiacôp đã chết và hiểu rằng may mắn lắm mình mới thoát chết.
- Đúng là số tôi may mắn, Matvây Ivanôvich ạ, - anh ta nói và dừng lại. - Tôi đã hút chết mấy lần trong hai ngày cuối cùng này, thế mà bây giờ tôi lại bình an vô sự. Còn Racu khốn khổ, vì nàng mà tôi phải ở lại, thì đã vì tôi mà bị chết đuối. Xin nguyện cho linh hồn nàng và linh hồn Paven Nicôlaêvich sống mãi! - anh ta ngả mũ cúi chào ba lần theo hướng Vùng đất Xannhicôp, nơi mà bây giờ đã là mồ chôn của biết bao người.
Ngày hôm ấy, các nhà du hành chỉ đi một quãng ngắn và dừng lại ở chân sườn phía nam Vùng đất Xannhicôp. Họ xem xét và thấy băng quá mỏng, có thể vỡ do cơn bão đầu tiên. Họ phải đi về phía đông để tìm chỗ băng chắc hơn.