Chương XII ❖ 1 ❖
Thoáng thấy khu ký túc xá, đôi chân Hảo bước không vững nữa.
Trống ngực đập dồn. Trong người bổi hồi bồi hồi một cách thật khó tả.
Hảo phải đứng lại một lát để tự trấn tĩnh. Cô tự hỏi: Có lẽ nào đoạn đường đá nhỏ chạy về cái cổng gác thân thuộc kia lại nhiều sóng gió hơn những chặng đường tính bằng ngày trên mặt biển?
Ngày nào Hảo bỡ ngỡ cắp sách đến trường đại học. Ôi! Những giây phút đầu tiên ấy Hảo sẽ không bao giờ quên. Quang cảnh lúc đó sao mà trang nghiêm một cách lạ lùng. Cô gái bỡ ngỡ đi qua cái sân lá sấu rụng đầy, rón rén bước lên những bậc thềm vào nhà giảng đường.
Cô dừng lại nhìn những viên gạch men trắng bóng, di di bàn chân như để xem thử có đúng là mình đang đứng ở đấy không. Cô mở to mắt ngắm cái bàn nhỏ có ngọn đèn con, nơi các thầy sẽ ngồi giàng bài, và nhìn những dãy bàn hình vòng cung lạ mắt cao dần lên ở phía cuối.
Cô gái mười tám tuổi đó tự hỏi: Đã có những ai, đã bao nhiêu người đặt chân trên những viên gạch màu trắng này và ngồi học ở những chiếc bàn kia? Mình đến đây hôm nay là người thứ bao nhiêu?
Những ai đã đưa mình đến đây nhỉ? Cha anh mình ngày xưa có lẽ không bao giờ nghĩ là mình sẽ có mặt tại ngôi nhà đại học đường tôn nghiêm này. Nhiều trong số những người dẫn dắt mình tới đây hôm nay không còn nữa. Cha ơi, cha có biết giờ này con đang ở đây...?
Mình sẽ cố xứng đáng với sự hy sinh của cha, của tẩt cả mọi người đã chiến đấu để mở rộng đôi cánh cửa ngôi trường này cho lứa con em như mình, những người đang còn kia cũng như những người đã khuất...
Có lẽ ở một số bạn bè của Hảo đã không có những ý nghĩ như vậy.
Không phải là hoàn cảnh dẫn họ đến nhà trường này khác với Hảo, mà chính là vì khi còn ít tuổi, người ta hay hướng về tương lai, người ta chưa có thói quen quay nhìn quá khứ. Sớm có ý thức về những cái gì đã qua, riêng điều đó đã khiến cho Hảo phần nào khác với một số bạn bè. Hảo học tập với một chí hướng hẳn hoi, học tập nghiêm túc, bền bỉ.
Cô gái coi trường đại học là cái cửa chót để bước vào cuộc đời. Cô muốn sau này sẽ không bị ai coi rẻ vì công việc mình làm. Cô muốn trở thành một người có ích.
Hảo đã sống trọn bốn năm tại ký túc xá này. Gia đình ở xa, nên mấy năm qua, ký túc xá trở thành gia đình chính của Hảo. Đó là cái thế giới riêng nhỏ bé của những cô sinh viên chưa bợn chút lo lắng cuộc đời. Tại đây, khi đông người cũng có cái hay, khi vắng người cũng có cái hay. Nhiều ngày nghỉ, các bạn cùng buồng đi vắng hết, buổi tối, ở nhà chỉ có một mình. Hảo sợ. Cô chong đèn đọc sách hết đêm. Nhiều cô gái khác ở vào lứa tuổi Hảo đã con bồng, con mang, trở thành những người mẹ trang nghiêm hay quát tháo, mắng mỏ con cái.
Nhưng Hảo và các bạn ngoài giờ học tập thì vẫn như trẻ con. Những trò chơi của họ cũng rất trẻ con. Có khi cả bọn ngồi tìm cách trêu nhau, thi xem ai không cười. Oanh trố là con bé tài "tỉnh" nhất. Mặc ai muốn làm trò vè gì nó cũng không thèm cười. Nhưng nó chỉ cần ngoảnh mặt lại, hơi nhếch mép một cái, là nhiều người đã lăn ra cười. Các cô gái rất dễ cười. Và trong các cuộc thi này, bao giờ Hảo cũng là người thua cuộc đầu tiên... Những ngày ôn tập thi cuối năm, những đêm ròng rã làm việc tới một, hai giờ khuya. Những buổi tối sau khi thi xong một môn, trời tạnh ráo chẳng nói làm gì, nhưng dù cho trời mưa cũng phải đội nón, khoác ni lông đi dạo một hồi dưới hàng cây dạ hương cho bõ những giờ căng thẳng học tập... Tất cả đều đã trở thành những kỷ niệm...
Bác thường trực ngồi sau cái cửa tò vò ở chiếc nhà gỗ nhỏ, ngó đầu ra cười, nói với Hảo:
- Chào cô cán bộ. Vẫn còn nhớ đường mà về à?
- Chào bác. Con chim có quên tổ thì cháu mới quên nhà ký túc này. Chừng nào bác chưa cấm cửa thì cháu còn cứ về đây.
Hảo đi tới căn buồng mình ở cũ. Vẫn những chiếc quần áo nhỏ của phụ nữ phơi kín đáo ở một chỗ khuất cạnh bức tường ngăn. Một dãy khăn mặt chăng dọc hàng hiên, vẫn mảnh vữa bị lở cạnh cánh cửa ra vào. Tiếng cười đùa trong buồng bay ra. Không biết có ai kêu lên:
- Ối! Chị Hảo kìa!
Những người trong buồng ùa cả lại vây quanh Hảo, tíu tít thăm hỏi.
Một cô người nho nhỏ bỗng nói:
- Chị Hảo lớn hẳn lên... Cán bộ rồi có khác.
- Cô thì mới lớn. Còn người lớn rồi thì không lớn lên nữa đâu. Các cô đang trao đổi chuyện gì mà vui vẻ thế? - Hảo nói và nghe thấy giọng mình lạ hẳn đi.
- Có gì vui đâu chị! Chúng em đang ngao ngán cả người. Chiến tranh rồi, chả lẽ cứ ngồi học mãi như thế này!
Tất cả nhao nhao.
- Ra sớm như chị Hảo lại hóa sướng!
- Chán nhất bây giờ là cứ ngồi mài quần một chỗ!
- Chị Hảo này, chúng em đang lo kháng chiến lần thứ nhất đã không đóng góp gì, kháng chiến lấn thứ hai này lại không tham gia nữa thì sau này biết ăn nói với con cái ra sao...
- Thì chúng mày hãy tạm giãn ra một tý, cho chị ấy ngồi thở cái đã nào!
Phi, cô bạn thân nhất của Hảo còn ở lại trường, đẩy mọi người sang bên, kéo Hảo về giường mình ngồi. Đây chính là cái giường Hảo vẫn nằm những năm trước. Cái giường có hai tầng. Oanh trố nằm ở tầng trên, thỉnh thoảng lại tuôn ra một câu bất hủ. Có lúc nó thò đầu ra khỏi giường nhìn xuống kể với Hảo một câu chuyện mà nó cần dùng cặp mắt để diễn tả thêm. Cái gương tròn của Đông gửi từ nước ngoài về làm quà, Hảo cho lại Phi, vẫn treo ở cạnh cửa ra vào để mọi người cùng dùng chung. Đầu giường, bên cạnh chiếc va li, cái túi du lịch hoặc một cái ba lô bộ đội cũ... của mỗi người dùng để đựng tư trang, là một vài tập sách mượn của thư viện nhà trường. Dưới gầm giường, cùng với những đôi guốc, đôi dép là những chiếc chậu men hoa. Mọi vật thân thuộc gần như không thay đổi, y như sáu tháng trước khi Hảo ra đi.
Ở cái cửa sổ phía đầu hồi, một con chim sâu đang nhảy nhót trên cành táo. Có phải vẫn là cái con chim sâu đã về đây những ngày hè năm trước? Còn cây táo thì chẳng cao hơn chút nào. Hảo đã được biết nó từ khi nó là một cái hạt mới nảy mầm. Có lần dọn vệ sinh, một cô bạn định nhổ nó đi. Hảo đã đứng ra che chở cho nó. Hảo đã bao lần ngồi ngắm những lớp lá non của nó và tưởng như có thể ăn những chiếc lá đó một cách rất ngon lành... Sao mà nhớ những ngày đã qua thế! Về đây, Hảo lại thấy ghen với các bạn, ghen với hạnh phúc mà họ còn đang được hưởng. Điều an ủi Hảo là thái độ sôi nổi của mấy cô sinh viên đang đòi hỏi Hảo góp ý kiến cho mình nên làm gì trước tình hình này. Thực ra, đây cũng là một điều mấy ngày nay Hảo lại đang tiếp tục tự hỏi mình. Hảo về Hà Nội đọc một số tài liệu tham khảo để chuẩn bị đề cương cho bản báo cáo sơ kết. Nhưng mấy buổi nay, đôi lúc Hảo thấy đầu óc tản mạn. Những ý nghĩ về chiến tranh đã làm xao động tầm hồn cô gái lần đầu hồi tháng Tám năm ngoái, trở lại với cô.
Chỉ có khác là lần này Hảo đón nó với một thái độ bình tĩnh hơn.
Phi rủ Hảo đi dạo quanh sân. Chắc con bé có điều gì muốn nói riêng với mình. Vừa ra khỏi nhà một quãng, Phi đã thủ thỉ:
- Chị Hảo này, cái ông ở Bộ... vẫn đến đầy tìm em để hỏi thăm chị.
- Không phải thế đâu Phi ạ. Thăm mình... đó chỉ là cái cớ thôi.
Ông ấy đến chính là để thăm Phi đấy?
- Không phải... - Phi cãi - Ông ấy biết em có... người rồi. Ông ấy đã gặp anh ấy ở đây. Chúng em đều tự giới thiệu. Ông ấy còn đến cả chỗ chị Thùy để hỏi thăm chị. Ông ấy kể với em là trước kia chị Thùy định làm mối chị với một anh bộ đội, nhưng chị không hợp với bộ đội.
- Mình không hợp với ông ấy thì đúng hơn.
- Ông ấy ca ngợi chị ghê lắm nhé! Có một điều mà em không tiện viết trong thư cho chị... Ông ấy bảo việc bố trí công tác cho chị như hiện nay là không hợp lý. Công tác điều tra ngoài biển, ngoài đảo ấy phải dành cho thanh niên.
- Thế mình là phụ lão à?
- Ý nói là dành cho nam giới, ông ấy lo cho chị đi như vậy vất vả.
- Mình tự lo cho mình được, lần sau ông ấy đến, Phi nói thế hộ mình.
- Chị để yên cho em nói đã. Ồng ấy cứ băn khoăn hỏi em:
"Không biết Hảo có muốn về Hà Nội công tác không nhỉ?". Em nói:
"Anh tính hưởng gió sông Hồng, tắm nước máy ai lại không thích". Ông ấy bảo em viết thư hỏi chị, nếu chị đồng ý thì sẽ bàn với chị để chị quay về đây. Ông ấy quen nhiều nơi... Ông ấy nói: "Khả năng như của Hảo có thể làm công tác giảng dạy, công tác nghiên cứu lắm chứ! Hảo về làm ngay ở cơ quan của tôi cũng được".
Hảo tức điên lên, một lần nữa lại ngắt lời cô bạn ít tuổi:
- Phi nói với ông ta: Công tác của mình là do tổ chức sắp xếp căn cứ vào nguyện vọng của mình. Mình không mơ cái cơ quan của ông ấy đâu. Ai bảo mình về đấy không những mình không thèm về mà mình còn đánh cho nữa!
Phi phì cười:
- Em đi báo cơm chị ăn cả ngày với chúng em nhé!
- Mình ở chơi được đến trưa thôi. Chiều nay phải đến nhà Thùy rồi.
❖ 2 ❖Trên đường đến nhà Thùy, một cầu nói của Phi ban sáng vẫn làm Hảo băn khoăn. Tại sao Thùy lại nói trước kia đã có ý định giới thiệu mình với một anh bộ đội. "Trước kia" là thế nào? Tại sao ông ở Bộ lại nói với Phi là biết mình không hợp với bộ đội? Thùy đã nhận xét gì về mình trước mặt ông ta? Thùy đã nghĩ gì khi mình viết thư cho Quỳnh?... Hôm qua, hai người gặp nhau, Thùy chỉ hỏi "có nhận được thư của anh Quỳnh không” rồi không đả động gì tiếp. Vì sao khi mình nói không nhận được thư của Quỳnh, Thùy vẫn thản nhiên? Mình và anh Quỳnh đã có chuyện gì đâu. Nhưng thái độ dửng dưng của Thùy vẫn cứ làm cho Hảo phật ý, nhất là từ ngày cô học xong đến giờ, do hoàn cảnh mới, tình bạn giữa hai người đã trở lại như xưa.
Đến con đường rẽ về nhà Thùy, Hảo nhìn thấy một người đàn ông cõng một em nhỏ đi trên vỉa hè. Một chiếc làn nhựa màu xanh ngoắc ở tay anh ta. Hảo chú ý đến nó vì hình như có con cá đang quẫy mạnh trong đó dưới đám rau thơm. Đạp xe đến gần, Hảo ngạc nhiên reo lên:
- Anh Đông!
Đông hơi xanh, đứng dừng lại nói:
- Thùy nói sáng cô không lại thì chiều thế nào cô cũng lại.
- Sáng nay, em vào bệnh viện thì anh vừa ra khỏi. Em về ký túc xá chơi với chúng nó một lúc cho đỡ nhớ. Thùy đâu?
- Thùy phải đi họp một lát.
- Trông thấy anh từ đầu phố nhưng nhìn lôi thôi lếch thếch quá nên không nghĩ là anh. Anh bế cháu ngồi cả lên đèo hàng, em đạp về.
- Đến nhà kia rồi còn chi! Chung Thủy nó thích bố cõng hơn là ngồi xe đạp. Cô đèo hộ tôi cái làn về trước. Tôi và cháu chỉ về sau cô vài bước.
- Nhà anh có ai đâu, em về trước làm gì. Chi bằng đi bộ quách với anh cho xong.
Hảo nhấc chiếc xe lên vỉa hè. Cô đón cái làn ở tay Đông ngoắc vào tay lái, rồi dắt xe cùng đi thủng thỉnh.
- Anh được ở nhà đến bao giờ?
- Sớm mai đi rồi.
- Sao các anh ấy nói ngày kia anh mới phải về đơn vị?
- Nằm mãi Hà Nội sốt ruột không chịu được!
- Anh chỉ mới về nhà có một buổi?
- Nhưng tôi nằm viện đã mười ngày. Cô tuyệt đối không được để lộ bí mật với Thùy chuyện vừa rồi.
- Chuyện gì?
- Chuyện ngày kia tôi mới phải lên sân bay. Còn cô, bao giờ cô lại ra ngoài đó?
- Em còn ở đây vài ngày nữa đọc tài liệu.
Đông ngẫm nghĩ một lát. Anh muốn rủ Hảo lên đơn vị chơi, nhưng lại ngại làm như vậy không đúng nguyên tắc vì chưa báo cáo với trung đoàn. Anh nói:
- Thằng Quỳnh nhận được cái thư của cô nó đọc đến thuộc lòng từng chữ rồi.
- Sao anh ấy không viết thư cho em?
Đông ngơ ngác:
- Thế nào? Nó chưa viết thư cho cô à...? Ừ, cũng có thể là nó chưa kịp viết. Thời gian vừa qua, cánh chúng tôi cứ bấn xúc xích.
Mình đã nói mình biết anh ấy bận, không yêu cầu anh ấy viết dài, nhưng lẽ nào anh ấy không viết được cho mình mấy chữ, Hảo nghĩ.
Gần đến nhà, Đông lại dặn Hảo:
- Nhớ câu tôi nói ban nãy! Vợ chồng tôi mà cãi nhau là lỗi tại cô.
Tôi mới cắt cổ xong, không nói được nhiều.
- Anh nói sao? - Hảo hỏi lại.
- Tôi mới cắt cái a-mi-đan được hơn một tuần nay.
Đông đặt con xuống hè, móc túi lấy chìa khóa mở cửa.
- Vừa qua anh đã đánh nhau chưa? - Hảo hỏi.
- Đánh nhau gì thứ tôi! Đế quốc Mỹ nó cũng chê.
- Anh lúc nào cũng nói đùa được.
- Tôi nói thực là tôi chưa đánh đấm gì. Nhưng rồi nhất định tôi sẽ đánh cho cô coi.
- Anh biết không, hôm nghe tin các anh đánh trận đầu, bắn rơi máy bay Mỹ, em cứ như người phát rổ. Đồng chí bắn rơi máy bay Mỹ người Quảng Nam mà báo đăng là ai, anh?
- Cái gì còn đang phải giữ bí mật thì cô chưa nên yêu cầu tôi nói.
Rồi có ngày cô sẽ biết.
Một lát, Thùy về. Đông trao Chung Thủy cho vợ, rồi chạy xuống bếp làm cơm.
Hảo ngồi mặt sầm sì. Đáp lại những câu hỏi của Thùy, Hảo chỉ trả lời gióng một. Nhiều điều đã làm cho lòng tự ái của cô bị tổn thương. Mình viết hai lá thư, anh ấy vẫn chưa trả lời mình. Sáng nay ở viện, các anh ấy nói đến chuyện mình lên sân bay thăm anh Quỳnh.
Vừa rồi mình đã nói mình còn ở đây vài ngày, tại sao anh Đông không đả động gì đến chuyện ấy? Lại thêm cái thái độ lửng lơ của Thùy...
Mình sẽ không nói với anh Đông và Thùy một điều gì đụng đến anh Quỳnh nữa.
Tiếng Đông vừa đập cá vừa la trong bếp vọng ra: “Tiêu diệt này!
Tiêu diệt... A! Mày ngoan cố à?...” Lúc nãy anh ấy bảo mình mới cắt a-mi-đan không được nói to, mà bây giờ thì hét như vậy, Hảo suýt phì cười. Chắc anh ấy chẳng làm gì có những băn khoăn, khúc mắc như mình. Anh ấy vừa về đến nhà đã tính chuyện đi. Có thể là các anh ấy đang hết sức bận. Hôm đó, anh Đông cũng hét rầm rầm dưới bếp như thế này. Anh ấy thì ngồi đây. Còn mình thì vác cuốn sách ra chỗ kia...
Cô gái cảm thấy trong lòng nao nao...
❖ 3 ❖Hảo đột nhiên đứng lên bảo Thùy:
- Mình phải đi đây.
- Sao? Mình tưởng cậu ở chơi cả chiều nay với vợ chồng mình?
- Không. Chiều nay mình còn chút việc.
Biết mình khó giữ được bạn, Thùy quay vào nhà trong gọi chồng:
- Anh Đông ơi! Hảo nó đang đòi về đây này...
Đông hấp tấp chạy ra, hai bàn tay còn dính những vẩy cá.
- Mai tôi đi rồi mà cô không ở chơi được hết chiều nay à?
- Mai em sẽ đến tiễn anh ra ga... Em phải mang sách trả thư viện nhà trường cho kịp giờ để còn mượn sách mới đọc tối nay.
Hảo vừa đi khỏi, Thùy hỏi chồng:
- Hảo nó có vẻ không vui nhỉ? Hay là anh đã nói gì phật ý nó?
- Đâu có! Tại thằng Quỳnh chưa viết thư cho nó. Cái thằng Quỳnh ấy đại thôn!
- Anh thì bao giờ cũng chủ quan. Anh tưởng Hảo nó tha thiết với anh Quỳnh đến thế kia!
Riêng về loại chuyện này, Thùy không bao giờ cho chồng là người tinh tường. Thùy vẫn nghĩ Hảo đã có một phương hướng khác. Thùy biết tính bạn. Khi nó đã có chủ định rồi thì không ai nên góp ý kiến với nó làm gì.
Sau bữa cơm chiều, Thùy đang bưng chồng bát đĩa mới rửa từ trong nhà bếp ra thì nghe Đông nói:
- Thùy ơi! Chúng mình cho con đi chơi đi!
- Đến nhà ai hả anh? - Thùy đứng dừng hỏi lại chồng.
- Không đến nhà ai. Đi chơi mát.
Thùy ngước mắt nhìn chồng, vẻ ngạc nhiên. "Đi chơi mát", mấy tiếng đó chị nghe lạ tai. Chị không nhớ buổi chiều đi chơi mát lần trước của hai người cách đây bao lâu rồi. Sao anh ấy lại có một ý định "hoang phí" thời giờ như vậy.
- Chung Thủy ơi! Bố cho mẹ con mình đi chơi mát đó con ạ! - Chị quay lại nói với con cũng là để trả lời chồng và giấu một nụ cười.
Ban nãy Hảo đã tết tóc Chung Thủy thành hai cái đuôi sam bé tí teo như hai cái đuôi chuột. Không phải chải đầu lại cho nó nữa, chỉ cần mặc cho nó chiếc váy hoa. Giờ mình cũng phải sang sửa lại con người một chút để đi chơi với anh ấy chứ! Anh ấy nói sáng mai đã phải đi.
Đông chạy sang nhà bên về, đứng sững nhìn vợ và con. Thùy đã mặc chiếc áo sơ mi lụa mỡ gà óng nuột và buộc lên mái tóc một dải lụa màu tím. Chung Thủy đứng bên mẹ sạch sẽ như một con búp bê bày trong tủ kính. Thùy chỉ cho Đông chiếc áo sơ mi màu ghi khoác ở tay ghế.
- Anh thay áo.
Thấy Đông có vẻ chần chừ, chị nói tiếp:
- Anh mặc đi không có lãng phí. Chờ anh xỏ tay lần nữa, khéo mà áo mục mất rồi.
Chiếc áo sơ mi này Thùy may cho chồng hồi mới cưới. Cái áo từ lâu không được dùng đến hằn những nếp gấp.
Gió nóng hầm hập. Nhưng Thùy không cảm thấy không khí oi ả của buổi chiều hè. Lòng chị đang tràn trề hạnh phúc vì buổi đi dạo hiếm hoi đến bất chợt. Chị nhìn dọc đường phố thấy đâu cũng là hoa.
Những chùm hoa phượng màu cờ. Lại còn cả những chùm hoa tím kia.
Mọi ngày mình không chú ý đến nó. Sao nó đẹp, y như là những bông hoa giấy được làm nên bởi những bàn tay tuyệt khéo. Những bông hoa không biết sợ nắng mặt trời mùa hạ, đơm cả lên đầu cành để tắm nắng và che mát cho cây. Trông anh ấy xúng xính trong cái áo vẫn còn mới, nom thật buồn cười. Anh ấy cũng là một bông hoa mùa hè không biết sợ nắng lửa đâu, anh ấy sẽ che nắng, che lửa cho mình và cho con.
Chung Thủy đòi vào một cửa hàng giải khát ăn kem. Thùy âu yếm nói với chồng:
- Chúng mình chiều con nhé?
Cửa hàng giải khát đông nghịt người. Khi họ ở đây quay ra thì trời bắt đầu tối. Thùy dắt Chung Thủy đứng nhìn dãy đèn dọc phổ đã bật sáng, hỏi chồng:
- Đi đâu bây giờ?
- Đi theo anh.
Đông hỏi Chung Thủy:
- Bố cõng, bằng lòng không?
Con bé gật đầu. Đông ngồi xuống bế xốc nó lên vai. Đông đi rất nhanh. Anh ấy có quen đi dạo thế này bao giờ đâu. Thùy phải bước dấn lên, nói nhỏ vào tai chồng:
- Em không theo kịp anh đâu.
Nhìn thấy vẻ đăm chiêu của chồng, chị lại buồn cười. Anh ấy rủ con và mình đi chơi mát mà lại có bộ mặt thế kia.
Đến chỗ có cửa hàng bán hoa ở ngã tư, Đông rẽ sang con đường đôi. Mình biết anh ấy định đi đâu rồi. Mới hơn ba năm qua mà tưởng như đã lâu lắm. Mùa xuân năm ấy, cưới nhau được một tuần, anh ấy chuẩn bị tiếp tục ra ngoài học. Tối đó, trời lạnh và mưa lâm thâm. Anh ấy đã dẫn mình đi chơi trên con đường đôi này nói chuyện vợ chồng sắp phải sống xa nhau và những chuyện tương lai.
- Thùy có nhớ lần trước đi chơi trên đường này không? - Đông hỏi.
- Có.
Thùy nghe giọng nói của chồng trở nên dịu dàng:
- Ngày ra tập kết, anh mới mười chín tuổi. Anh nghĩ là kháng chiến đã kết thúc Anh tự hỏi rồi đây mình làm nghề gì. Có lúc anh ao ước trở thành một cầu thủ nổi tiếng. Có lúc anh mơ ước trở thành một nghệ sĩ, một nhà văn hay một nhà thơ... Em đừng cười những ý nghĩ đó của anh. Hồi đó anh còn rất giản đơn. Anh tin rằng chỉ cần có quyết tâm thì muốn làm gì anh cũng sẽ làm được. Đến lúc được lựa chọn đi học văn hóa chuẩn bị ra nước ngoài, anh mong sẽ trở thành một chiến sĩ lái xe tăng... Bây giờ thì anh đã biết rõ anh sẽ trở thành một người như thế nào rồi. Anh sẽ mãi mãi là một chiến sĩ lái máy bay. Cuộc thi đấu của các anh đã chuyển lên bầu trời: Phải kéo cao ngọn cờ Tổ quốc mình ở trên đó. Các anh sẽ cố gắng làm tròn nhiệm vụ của những người chiến sĩ Việt Nam đầu tiên lái máy bay. Riêng anh sẽ phải cố gắng rất nhiều em ạ...
Anh đang cân nhắc xem có nên tiếp tục nói hết những điều mình định nói để cho cô ấy biết lo dần đi, hay là cứ để cho cô ấy vui trọn tối nay.
Thùy không để ý tới vẻ ngập ngừng của chồng. Lễ đài Ba Đình đã ở phía trái họ. Những đường nét thanh thanh chạy dài trên nền trời tro nhạt ban đêm. Mấy cây cọ ở khu vườn Phủ Chủ tịch lặng lẽ in hình sau khán đài.
- Lần đầu em được nhìn thấy Bác là ở đây, trong ngày lễ Quốc khánh năm em mới ra tập kết - Thùy bỗng nói.
- Anh cũng vậy.
- Nhưng có điều này anh chưa biết... Ngày đó em là một trong những cháu gái miền Nam được mang hoa lên dâng Bác.
Đông quay sang nhìn vợ. Sao chuyện đó mãi hôm nay cô ấy mới kể với mình? Thùy không nhìn anh, vẫn bước đi chậm rãi, nói tiếp:
- Có một điều rất lạ là từ sau lấn được gặp Bác đó, mỗi khi dự mít tinh hay hội họp ở đầu có Bác tới, em đều cảm thấy như Bác biết có em, Bác đang nhìn em và đang nói chuyện với em.
Anh bất chợt cảm thấy như Thuỳ vừa đọc được những ý nghĩ của mình.
Mùa thu năm ngoái, Bác đã tới trung đoàn bay. Bữa đó trời nắng gắt. Cả đơn vị tập họp trên sân bay đón Bác. Riêng biên đội của Đông được phân công trực chiến phải chờ Bác ở nhà trực. Bác giơ mũ vẫy chào mọi người. Đông nhìn thấy mái tóc Bác bạc trắng. Bao giờ thì Bác vô trong kia để đồng bào miền Nam được gặp? Anh bỗng có một ý nghĩ dại dột: Liệu có kịp nữa không...? Bác già lắm rồi! Và Đông muốn khóc. Bác tiếp tục đi về phía biên đội trực chiến. Bác đội chiếc mũ cát rộng vành lên đầu như muốn khỏi làm phiền những đồng chí đang lo che nắng cho Bác. Bác vẫn mặc bộ quần áo ka ki bạc màu và đi đôi dép cao su đen quai rất rộng. Bác tiến lại mỗi lúc một gần. Đông đã nhìn rõ cả những chấm mồi đen trên da mặt Bác. Những chấm mồi của tuổi già nhói vào tim anh. Nhưng rồi tất cả đều như mờ đi. Đông đứng nghiêm như một pho tượng để chào Bác. Anh thoáng thấy Bác gật đầu.
Bác dừng lại trước mặt anh. Và hình như Bác đang tươi cười chăm chú nhìn anh. Bỗng anh nghe một giọng ấm áp rất quen thuộc:
- Chú mặc thế này có nóng không?
- Thưa Bác không ạ.
- Chú là người Khu Năm?
-Dạ.
- Nếu gặp địch thì phải bám lấy thắt lưng chúng mà đánh như các anh em ở trong kia.
-Dạ.
Bác gật đầu với Đông lần nữa rồi đi. Khi đó Đông mới như chợt tỉnh ra. Anh ân hận đã không có lấy một lời chúc mừng sức khỏe Bác và nhất là một lời hứa hẹn khi Bác trao nhiệm vụ.
Cũng trong lần đến thăm này, Bác đã chỉ thị cho đơn vị phải báo cáo mỗi khi bắn rơi máy bay địch và Bác sẽ tặng cho người lái mỗi lần bắn rơi máy bay địch một huy hiệu của Bác.
Trong trung đoàn đã có những người được tặng huy hiệu của Bác, có người được trực tiếp gặp Bác. Nhưng riêng anh thì chưa. Anh lại còn có thêm một nỗi khổ tâm. Cứ mỗi lẫn đơn vị báo cáo lên một chiến sĩ lái bắn rơi máy bay địch, anh lại cảm thấy như Bác đang tự hỏi: Có phải chú này là cái chú be bé người Khu Năm mặc bộ đồ bay màu lá cây bữa đó không...?
Đông hỏi Thùy:
- Em có biết tại sao không?
- Đó là do em tưởng tượng ra thôi.
- Bác giống như ông mặt trời. Khi mặt trời đã hiện ra thì ta đứng ở đâu cũng thấy mặt trời quay về phía mình...
Chung Thủy đã ngủ trên vai Đông. Họ đi ngang hết quảng trường sang đến bờ rào cây xén của Phủ Chủ tịch.
- Đến nhà Bác rối anh ạ? - Thùy nói rất sẽ vào tai Đông như sợ một người thứ ba nghe thấy.
Bên kia hàng rào, những vòm cây đen sẫm lồng vào nhau trong bóng đêm. Dọc hàng rào từng quãng lại có một ngọn đèn điện nhỏ.
Ngôi nhà Phủ Chủ tịch nổi lên trang nghiêm giữa khu vườn. Màu vàng của những bức tường trong đêm đã chuyển thành màu trắng nhạt.
Họ đi chầm chậm trên con đường nhỏ lát gạch chạy giáp hàng rào cây xanh. Mỗi người mang một suy nghĩ riêng. Nhưng họ đều có cảm giác từ trong khu vườn tĩnh mịch, trang nghiêm kia, Người đang đứng nhìn ra và Người đã trông thấy họ.
❖ 4 ❖Nhà ga tràn ngập người. Rất đông bộ đội. Những chiến sĩ trẻ, hành lý, súng đạn đầy người, lên đường đi về phía Nam. Những cán bộ quân đội cũng ba lô trên vai, bộ mặt mang nếp nhăn dày dạn của chiến trường, trầm tĩnh, đẩy tự tin. Nhưng tạo nên cái không khí khẩn trương khác thường của sân ga vào buổi sáng hôm đó, chính là những người ra đưa tiễn đông đảo và nghiêm trang.
Những cuộc tiễn đưa đã mang một ý nghĩa khác.
Hảo lặng lẽ quan sát cái quang cảnh mới đang hiện ra trước mắt mình. Một cô gái tóc thề đứng nắm tay một anh chiến sĩ trẻ ở ngay giữa nhà ga. Họ đã đứng như vậy nói chuyện với nhau từ rất lâu như quên hết những người ở chung quanh. Và ai nấy đều tỏ ra tôn trọng những giờ phút này của họ. Một đồng chí thiếu úy to lớn bồng đứa con nhỏ trên tay nhẹ nhàng như ôm một con búp bê, đang dặn dò gì một chị, chắc là vợ anh, đứng bên một bà cụ già. Một chú thiếu niên đeo chiếc ba lô cóc rất nặng của ông bố đi trước, bước vào nhà ga nhìn mọi người như muốn nói: "Ngày hôm nay bố tôi lại lên đường ra trận...".
Hảo bỗng cảm thấy mình là một người ngoài cuộc. Ai nấy đều không chú ý đến một cái gì khác ngoài người nhà của họ sắp ra đi. Chỉ có riêng mình là đang đứng để nhìn ngắm tất cả.
Hảo đã nhất định bắt vợ chồng Đông phải đứng chơi với con ở ngoài để mình sắp hàng lấy vé tàu và vé ra sân ga. Hảo ngó lại phía sau, thấy Thùy đang ôm con, quay mặt về phía quầy hàng bách hóa trong nhà ga như để tìm mua một thứ gì. Đông đứng bên cạnh, bóc một quả cam đưa dần từng múi cho con. Cuộc chia tay không gây cho Thùy nhiều xúc động lắm, có lẽ vì như Hảo đã nghe nói ban nãy: vài tuần nữa Thùy sẽ đưa con lên sân bay thăm Đông. Họ chỉ xa nhau có ít ngày. Nhưng mình với anh Đông thì có thể sẽ xa nhau lâu. Anh ấy lên trên đó và mình thì ra ngoài kia. Chỉ nhìn sân ga hôm nay cũng đủ biết tình hình đang chuyển biến nhanh.
Khi Hảo lấy được xong các loại vé, bốn người kéo ra sân ga thì tàu đi Lao Cai đã sắp bắt đầu chạy. Thùy bảo chồng:
- Anh lên tàu thôi không họ ngồi hết chỗ.
- Anh không cần ngồi. Anh sẽ đứng cho đến khi tàu tới nơi.
Nhường chỗ cho những người đi xa.
Hảo cũng giục Đông:
- Anh cũng phải lên đi, tàu sắp chạy.
Đông ghé vào tai Hảo nói nhỏ:
- Cô cứ yên trí, khi nào tôi đánh nhau rồi tôi sẽ gửi thư cho cô, một lá thư thật dài.
- Em sẽ chờ. Nhưng chưa đánh thì anh cũng phải viết thư cho em.
- Không thể nào lại chưa đánh được!
Đông quay lại đón Chung Thủy ở tay Thùy, áp má nó vào má mình một lát, mắt đỏ lên. Con bé rất giống bố, giống cả cái vẻ gan góc của bố.
Còi tàu đã rúc.
- Lên đi anh, không lại lỡ bây giờ! - Thùy giục.
Đông trao Chung Thủy lại cho Thùy. Bất thần, anh chìa tay bắt tay vợ và nói:
- Vĩnh biệt!
Đông nhảy vội lên tàu. Cũng lúc đó, những chiếc bánh sắt nặng nề bắt đầu chuyển động.
Hảo lặng đi từ khi nghe lời chào của Đông.
Thùy vẫn tươi cười ôm con, nhìn theo chồng vẫy tay. Vết lúm đồng tiền trên má làm cho khuôn mặt chị thêm hồn hậu. Khi con tàu khuất trên đoạn đường vòng, chị quay lại mỉm cười với Hảo đang đứng ngơ ngác:
- Đó, cậu xem anh Đông, luôn luôn đùa kiểu đó... Rất là ba trợn - Thùy dùng một tiếng nói của quê hương.