← Quay lại trang sách

Chương XVI ❖ 1 ❖

Tại tỉnh miền ven biển này, chiến tranh phá hoại của máy bay Mỹ lan đến chậm hơn.

Tháng Năm, Hảo theo thuyền ra biển đánh hải sâm. Sóng nước trong vịnh vẫn hiền hòa.

Chiếc đài bán dẫn đã được chữa lại nhân dịp về Hà Nội tháng trước, hàng ngày báo tin đất nước mổi lúc một khẩn trương. Các tỉnh phía nam bị địch đánh phá rất ác liệt. Rồi đến các tỉnh phía tây. Không khí chiến tranh còn do những bức thư của mấy cô bạn của Hảo ở "khu chiến" đem tới.

Trong một bức thư gửi cho Hảo hồi cuối tháng Năm, Yến, cô bạn của Hảo ở Thanh Hóa, đã nói tới quê hương mình hoàn toàn chuyển sang thời chiến. Yến kể chuyện một lần đi thăm bà cô bị mệt ở Đông Sơn. Khi trở về, gần đến cầu Hàm Rồng thì máy bay địch ập tới. Yến chạy ngay lên đơn vị cao xạ ở trên núi. Các anh bộ đội yên trí Yến là dân quân xã, ra lệnh cho cô đi chuyển đạn. Đạn phải đưa từ dưới chân núi lên. Địch phóng tên lửa xuống trận địa. Khói lùa vào hào giao thông mù mịt. Yến đang chạy thì vướng phải một hòm đạn. Không ngã, không đau, nhưng chỉ phiền là một ống quần bị xé rách từ gấu lên đến gần thắt lưng. Một anh chiến sĩ tung cho cô chiếc quần, nói: "Đồng chí mang xuống hầm mặc vào". Lúc sau, Yến đem chiếc quần trả lại anh vì không cài được khuy bụng. Đồng chí khẩu đội trưởng người to lớn, bảo Yến: "Không can chi? Đồng chí lấy quần tôi. Quân trang xuân hè cỡ số 1 mới phát, nhất định là vừa". Anh cởi luôn cái quần của mình đưa cho Yến, và chỉ còn mặc quần đùi để chiến đấu. Cái quần này bụng cài được khuy nhưng mỗi ống phải vén lên ba gấu. Yến ở lại trận địa cho đến buổi chiều.

Yến muốn ra về nhưng không kiếm đâu ra kim chỉ để khâu tạm lại cái quần bị rách. Anh khẩu đội trưởng bảo Yến:

- Đồng chí cứ mặc về, ngày mai ra phối hợp chiến đấu mang trả tôi.

- Tôi ở cách đầy mười lăm cây số. Sáng mai, tôi phải đến làm việc ở cơ quan rồi - Chà!... Vậy mà tôi cứ yên trí đồng chí là dân quân dưới làng lên. Thế thì từ sớm đến giờ đồng chí chưa được ăn uống gì cả à?

Uống thì có, nhưng ăn... thì đúng là chưa. Yến cảm thấy hai đầu gối hơi run và bụng cồn cào vì mấy bát nước chè xanh các mẹ vừa đem lên.

Anh bộ đội mang ra một nắm cơm với muối lạc, bắt Yến phải ăn. Yến ăn xong, anh bảo: "Cô phải về đi không trời chiều rồi. Cứ yên trí mà về. Bao giờ có dịp đem trả tôi.

Con nhà lính thời chiến, ngày đêm toàn đối mặt với Giôn-xơn có cần lễ tiết gì với kẻ thù mà lo".

Hai ngày hôm sau, Yến xin phép nghỉ một buổi, phóng xe đạp, mang chiếc quần ra trả. Tới nơi, chỉ còn trận địa không. Cả đơn vị này đã được điều đi một nơi khác từ chiều hôm trước. Các đồng chí dân quân địa phương nói họ là lực lượng cơ động của Bộ. Yến hỏi thăm con số hòm thư của đơn vị này nhưng không ai biết. Và Yến cũng không biết cả người đã cho mình mượn chiếc quần tên là gì...

Thư của Phi nói: “Hà Nội nhất định sẽ bị oanh tạc (không biết Phi đã nghe điều phán đoán này ở đâu) và chiến tranh sẽ vô cùng khốc liệt”.

Mỗi lần nhận được một lá thư như vậy, lòng dạ của Hảo lại bồn chồn. Cô cảm thấy những công việc của mình làm hiện nay có phần nào phù phiếm. Một lần, Hảo nói ra ý nghĩ đó trong đoàn. Cô bị phê phán kịch liệt hơn hồi ở nhà trường vì những người đồng nghiệp mới này có trình độ sắc sảo hơn mấy cậu sinh viên.

Ở Hà Nội về, Hảo nhận được thư đầu tiên của Quỳnh. Quỳnh tả cho cô nghe không khí chiến đấu khẩn trương tại sân bay. Anh nói có ngày xuất kích đến ba, bốn lần. Hảo rất ngạc nhiên. Nếu anh không nói thì Hảo không hề biết. Vì từ ngày ấy đến nay, ngoài hai trận đầu tiên ra, Hảo có được nghe đài, xem báo nói gì về các hoạt động của không quân ta đâu. Quỳnh nói chậm gửi thư vì tưởng Hảo vẫn còn ở đảo. Cô không hiểu ngoài ra còn có lý do nào khác nữa không. Quỳnh gọi Hảo bằng tên và xưng hô với Hảo là "tôi". Sau đó, Hảo thường nhận được thư của anh. Cô dần dần tìm được qua các lá thư những chiều sâu về suy nghĩ của người bạn mới. Mình đã không lầm. Cái bề ngoài trầm tĩnh, kín đáo của anh chứa đựng bên trong một tâm hồn phong phú, sôi nổi. Hảo chỉ ngạc nhiên là sao anh lại có thể viết ra được tất cả những điều đó. Lần mới gặp, mình thấy anh nói năng vụng về. Có thể vì anh đứng trước mình là một cô gái. Mình có cái gì khiến cho anh bối rối như vậy. Những lời lẽ của anh chân tình, đôi lúc nóng bỏng. Anh coi mình như là một người bạn, một người bạn tâm tình... Thực ra, tình cảm của mình đối với anh cũng thế thôi. Không biết đến bao giờ mình mới có dịp gặp lại anh. Các anh ấy đã chuyển vào thời chiến từ lâu. Bao giờ nhỉ? Chắc còn phải lâu, khi anh ấy thì cứ ở trên trời và mình thì cứ ở biển... Tuy vậy, Hảo nhận thấy rằng mình hay nghĩ đến Quỳnh nhiều hơn trước. Có lẽ vì những lá thư, thư đi cũng như thư về. Trước kia, cô chỉ chú ý tới biển. Giờ cô bắt đấu chú ý đến bầu trời. Đi trên con đường xanh ấy, không biết anh đã thấy những gì, nghĩ những gì? Cô không còn thưởng thức được thoải mái như xưa cái vẻ đẹp lồng lộng của một bấu trời trong sáng, cao vời vợi. Trời như thế này, lại thêm một ngày vất vả cho các anh ấy đây...

Sang tháng Sáu, chiến tranh đã ngấp ngó ở vùng cửa biển này. Tàu chiến, máy bay địch hăm dọa những đoàn thuyền ra khơi đánh cá. Chúng chuẩn bị leo một nấc thang mới nữa, đánh phá vùng Đông Bắc.

Chương trình làm việc ở các đảo trong đợt này đã xong, đoàn điều tra được chỉ thị chuyển về đất liền, đi tới các hợp tác xã ngư nghiệp tìm hiểu tình hình và góp ý kiến về phương hướng hoạt động.

Logged

❖ 2 ❖

Ngày đầu tiên đoàn công tác từ tỉnh kéo về huyện, họ đã nhận thấy: ở biển có cái gian khổ của biển, nhưng ở đất liền cũng có cái gian khổ của đất liền. Kéo bộ đi được mười lăm ki-lô-mét với một số hành lý không lấy gì làm nặng trên lưng, cự ly của đoàn gồm có bảy người đã kéo dài hàng trăm mét. Đi một quãng, người nọ lại phải dừng chờ người kia. Đoàn trưởng động viên: "Các đồng chí cố lên, mỗi người chúng ta chỉ có trên mười ki-lô, tiêu chuẩn đi chiến đấu mỗi người phải đeo trên vai mấy chục ki-lô kia mà?".

Từ nửa tháng nay, đoàn điều tra đã chia ra mỗi người một nơi để công tác. Hảo làm việc ở một huyện nửa là vùng biển, nửa là vùng núi.

Hàng ngày, Hảo phải đi các hợp tác xã để lấy số liệu. Miệng hỏi là chân phải đi. Trời đang giữa mùa hè. Hảo đi một mình trên những con đường đồi núi hoang vắng hay trên những bãi cát lún thụt cháy bỏng, chói lòa ánh sáng mặt trời. Đi suốt ngày và không bao giờ tính được số ki-lô-mét. Là một "nhà sinh vật" như Hảo thường gọi mình với một vẻ chế giễu, Hảo cũng biết tự lo cho mình. Cô biết cơ thể thiếu những gì mà thức ăn hàng ngày không bù đắp được. Hảo mang theo một số viên vi-ta-min. Nhưng vẫn có những cái Hảo không biết cách nào để hạn chế nó. Ví dụ như nắng. Cái nắng không thở được của đường đồi và bãi cát. Rồi lại mưa. Những trận mưa bất chợt của miền biển, không tơi nón nào ngăn được nước. Ví dụ như đường vắng. Hảo không có tiền bạc gì trong người. Tài sản quý giá nhất cô mang theo chỉ là một cuốn sổ ghi đầy những con số. Nhưng Hảo là một cô gái. Nhiều lúc Hảo rất thèm có một khẩu súng nhỏ. Có lúc Hảo lại thèm biết mấy miếng võ để tự vệ. Mặc dầu công tác trị an tại vùng này không có vấn đề gì lớn như các đồng chí ở huyện đã nói, nhưng mỗi lần ra đi, Hảo vẫn ngài ngại. Cô phải tính trước đến lúc đó mình cần phải làm gì. Mình sẽ vứt mọi thứ vướng víu trên người để mà chạy cho nhanh. Mình sẽ la hét lên. Nếu cần mình phải đấm, phải đạp. Còn một khó khăn khác không nhỏ: đó là công việc Hảo hiện đang làm không một ai kiểm tra. Hảo có thể bỏ qua nhiều con số mà không ai biết, cũng như nếu Hảo dành rất nhiều công sức để kiếm thêm một con số thì cũng không ai biết. Chỉ có Hảo tự chịu trách nhiệm với mình. Cuộc đấu tranh đó luôn luôn diễn ra.

Vì khó khăn Hảo gặp rất nhiều: Nắng, mưa, đường sá heo hút, những ông chủ nhiệm hợp tác xã thái độ lờ phờ, trả lời Hảo một cách rất đại cương, cốt cho qua chuyện...

"Một mình giữa chiến trường vẫn là chiến sĩ...", Hảo đã nghĩ đến điều đó trưa hôm nay trên con đường từ Đồi sỏi ra bãi hình Con Rùa (người ta trỏ cho Hảo phương hướng và hình dáng bãi cát này vì nó không có tên) để tìm một anh thống kê. Đấy là tên một cuốn sách bằng tiếng Nga mà Hảo đã đọc. Hảo đã lấy câu đó để tiếp sức cho mình trên chặng đường đi. Nếu không nhờ nó thì có lẽ cô đã quay trở lại từ lúc nào. Vì cô đoán trước người mình đang tìm một cách vất vả như thế này sẽ không cung cấp được gì nhiều hơn những cái mình đã thu lượm được. Không may thay, dự đoán đó lại hoàn toàn đúng khi Hảo gặp anh thống kê đang ngồi vá lưới trong chiếc thuyền nằm giạt trên bãi cát. Hảo đã phải trở về huyện bằng một con đường xa gấp đôi, vừa nhiều dốc, vừa bị ánh nắng mặt trời chiếu xiên khoai. Cái điệp khúc đó lại vang lên trên dọc đường về cho đến tận tối mịt khi Hảo bước vào căn nhà huyện đã bố trí cho cô ở tạm từ mấy ngày nay.

❖ 3 ❖

Chương trình đi xuống các hợp tác xã tại đây đã xong. Hảo còn phải dành mấy hôm để tổng hợp số liệu và thông qua các đồng chí ở huyện trước khi trở về đoàn.

Hảo ở nhà chị phó chủ nhiệm hợp tác xã tín dụng. Hàng ngày, không mấy khi thấy chị. Buổi tối, thường là gia đình cơm nước xong, mới thấy chị về. Chị cắp nón quần áo chạy ù ra giếng, tắm giặt một lúc, ăn vội mấy lưng cơm, lại đi. Ngoài công việc phó chủ nhiệm, đi sản xuất, chị làm thêm nhiều công tác khác của đoàn thể.

Chồng chị là một cán bộ quân đội đang chiến đấu tại Khu Tư.

Trong những tấm ảnh đặt cùng chung một cái khung treo trên cửa sổ, chiếc ảnh tô màu của anh được xếp ở chính giữa. Một người mặt vuông chữ điền, gò má cao, mặc quân phục mùa đông, đeo quân hàm thiếu úy. Chị không nhắc đến chồng bao giờ. Sáng nay ngồi nói chuyện với chị, Hảo hỏi:

- Anh ấy có hay gửi thư về cho chị không?

- Thỉnh thoảng.

- Xa nhau thế này, về mặt tình cảm chắc là gay go lắm chị nhỉ?

- Lắm người còn xa hơn mình nhiều.

Vẻ mặt chị tươi cười đon đả, nhưng với mỗi câu hỏi tâm tình của Hảo, chị chỉ trả lời bằng một vài tiếng. Thái độ chị kích thích sự tò mò muốn tìm hiểu của cô. Hảo lại hỏi:

- Thời chiến mỗi lần nghe tin đánh nhau ở trong ấy, chị có lo không?

- Biết thế nào mà lo.

Chị chuẩn bị đi làm, bỗng chị quay lại nói với Hảo:

- Cô giữ trẻ hôm nay nghỉ đẻ, chưa tìm được người thay, em gửi cháu ở nhà chị trông giúp em được không?

- Được chị ạ. Cháu nó ngoan, có quấy phá gì đâu. Sáng nay tôi cũng định chỉ giặt giũ một lúc rồi nghỉ.

- Bà em về, chị bảo bà em thổi cơm, nhà cứ ăn trước chị nhé!

Chợt nhớ một điều gì chị đứng ngẩn ra rồi nói:

- Chán quá! Em đã mua cho chị tờ báo mà lại để quên ngoài trụ sở, không biết sáng nay có còn không?

Rồi chị cắp nón đi.

Đứa con nhỏ của chị không giống mẹ mà cũng không giống bố.

Nó có cặp mắt xếch và cái mồm bé teo với những đường nét rõ như vẽ.

Hảo thường ngắm nó rồi lại nhìn bức tranh cô hằng nga cầm chiếc đèn lồng treo ở đầu giường của chị. Hảo nghĩ có lẽ khi chị có mang nó, chị hay nhìn bức tranh này. Tên nó là Lụa mà đôi lúc Hảo cứ gọi nhầm là Hằng vì cái tranh cô hằng nga.

Những lúc Hảo ở nhà nó cứ quấn lấy. Nó cũng gọi Hảo là mẹ. Bà cụ mẹ chồng chị chủ nhà bảo đứa cháu gọi Hảo như vậy sau khi hỏi thăm chị về chuyện chồng con. Hảo nói dối là chồng mình đi chiến đấu ở chiến trường xa và mình chưa có con.

Hảo đi gánh nước về vừa giặt giũ vừa chơi với nó. Con bé đòi đi theo chị.

Hảo một tay giữ chiếc đòn gánh trên vai, một tay dắt đứa bé đi ra giếng.

Hảo nhìn đôi bàn chân nhỏ xíu bước lẫm chẫm trên đường cát trắng. Những bàn chân kia khi bước vào đời, chắc chắn là sẽ đi trên những con đường xanh mát, thênh thang hơn những con đường mình đã đi... Hảo bỗng ước ao có một đứa con như thế này. Ôi... sung sướng biết bao khi một phần cơ thể của mình đã tách ra, bước đi lẫm chẫm như thế kia. Mỗi khi mình đi công tác về, nó sẽ chạy ra, sà vào cánh tay mình, áp má của nó vào má của mình, những tiếng nói của nó sẽ thánh thót bên tai mình. Mình sẽ chăm chút nó, làm cho nó lúc nào cũng thơm phưng phức như một bông hoa. Mình chỉ ước ao một điều rất bình thường. Điều đó sẽ đến và phải đến với mỗi người phụ nữ.

Nhưng sao đối với mình bây giờ nó vẫn còn xa xôi.

Một tiếng rít như như tiếng đại bác xé không khí. Con bé kêu thét lên. Hảo vứt vội đôi thùng, ngồi thụp xuống ôm chầm lấy nó. Hảo chưa nhận ra tiếng rít đó từ phía nào tới. Có lẽ từ phía biển. Lại một tiếng rít to hơn. Không gian như sôi réo lên ngay trên đầu. Hảo ngước mắt nhìn lên. Một bóng đen lừng lững bay vụt qua. Cái màu xám của nó phút chốc như trùm kín cả bầu trời. "Máy bay!" Cô ôm chặt đứa bé đang rúc vào ngực mình và bảo nó:

- Đừng sợ! Có cô. Lụa đừng sợ.

❖ 4 ❖

Cơm tối xong, chị chủ nhà vẫn chưa về. Có trăng non, gió từ biển đi vào cùng với nước thủy triều làm tiêu tan hết không khí oi ả ban ngày. Bà mẹ chồng rải hai chiếc chiếu nhỏ ngoài sân, rồi đưa ra tích nước chè. Đây là một món đãi khách. Thường ngày gia đình vẫn uống bằng nước cháo. Hôm mới tới, nhìn thân hình còm cõi của bà, Hảo đoán phải ngoài sáu mươi tuổi. Nhưng sau thấy bà vẫn còn đi làm, Hảo hỏi mới biết bà mới có năm mươi lăm tuổi.

Bà lại trở vào nhà rồi mang tiếp ra một cây đèn dầu nhỏ. Cô con gái út của bà, học lớp chín ở trường huyện, buổi chiều đã nhờ Hảo tối nay giải giúp mình một bài toán đại số. Hảo đã nhận lời, tuy Hảo có nói thêm là sợ mình bỏ toán từ lâu có thể quên. Từ khi nghe con gái nói tối nay Hảo sẽ làm bài giúp, bà bỗng có một thái độ kính trọng đặc biệt đối với Hảo. Từ hôm Hảo mới về, nhìn Hảo đeo cái túi vải và đôi dép lốp đi suốt ngày xuống các hợp tác xã ghi chép các con số đem về tính toán, bà đoán Hảo là một cô thống kê, chắc cũng chỉ trình độ lớp sáu, lớp bảy như anh thống kê của xã.

Hảo ngồi loay hoay một lúc. Nhiều điều học ở cấp ba khi vào đại học đã không được dùng tới. Và rất nhiều điều học ở nhà trường đã bị bỏ quên từ ngày Hảo ra công tác đến giờ. Hảo phải giở những định lý xem lại. Gần một giờ sau, Hảo đã giúp cô gái có bộ mặt giống anh giải xong bài toán khá rắc rối. Hảo như ngạc nhiên vì chợt nhớ ra mình còn có khả năng này.

Bà mẹ rót một bát nước chè đen đặc, mời Hảo và nói:

- Không có cô đến nhà thì hôm nay cháu còn chong đèn đến hết đêm. Hồi xưa các anh nó còn ở nhà, có điều gì không hiểu thì các anh nó bảo. Bây giờ một anh đi bộ đội, một anh đi đại học, chẳng còn biết hỏi ai. Mẹ thì không nói làm gì, nhưng giá như bố có còn thì trông vào quyển sách này cũng như nhìn vào bức vách. Cũng vẫn có người kêu ca đời sống khó khăn. Nhưng những người có tuổi như chúng tôi thì mới biết. Người hay kêu bây giờ trước kia là những người khá giả cả.

Còn gia đình chúng tôi thì từ ngày Cách mạng chỉ toàn thấy sướng thôi.

Cô tính chứ... không phải lo ruộng, không phải lo ăn, con trai đi sĩ quan, đi đại học, con dâu cũng cán bộ, con gái có xe đạp đi học thế này thì ông ấy và tôi ngày xưa có mà nằm mơ cũng chẳng thấy.

Rồi bà hỏi Hảo:.

- Cô giáo này (bà đã gán cho Hảo là cô giáo), Mỹ nó cứ ném bom mãi, ta không có cách nào ngăn nó ư...? Ta có máy bay như nó không?

- Có chứ! Bác không nghe đài đưa tin máy bay ta bắn rơi máy bay Mỹ đấy thôi?

- Có nghe. Đúng là người ta à? Tôi cứ ngỡ là...

- Bác ạ chỉ khó ở chỗ là có tinh thần dũng cảm chiến đấu chứ còn lái chiếc máy bay thì cứ được học là lái được thôi.

Tối nay, bà hỏi Hảo hết câu này đến câu khác: Miền Nam bao giờ thì giải phóng? Giôn-xơn nó làm bậy như vậy, đưa quân sang cướp nước ta, sao nhân dân Mỹ cứ phải theo... Bà tưởng như Hảo đã giải được bài toán của con gái thì có thể giải được mọi điếu bà thắc mắc...

Chị chủ nhà không hiểu sao mãi không thấy về. Đứa con nhỏ của chị đòi ngủ với mẹ Hảo.

Đã lâu mới uống trà, đêm đó, Hảo nằm thao thức mãi. Những chiếc máy bay Mỹ xuất hiện sáng hôm nay, báo hiệu chiến tranh đã lan tới vùng biển yên tĩnh này. Tiếng rú bất thần của nó làm cho Hảo lúc đầu giật mình, luống cuống. Khi chúng bay xa rồi, Hảo cảm thấy xấu hồ về sự nhát gan của mình. Hảo nhớ ngay đến Yến. Ngày con bé ở với mình, nó hiền lành, không bao giờ tỏ ra táo tợn như mình. Nhưng đứng trước máy bay Mỹ rõ ràng là nó đã hơn mình. Mình đã nhiều lần có ý muốn xin chuyển công tác ra mặt trận, thậm chí đã nói hẳn ý nghĩ đó với chung quanh, nhưng vừa nghe tiếng máy bay mình đã thất thần.

Đối với mình, mọi chuyện đều không dễ dàng. Tại sao mấy tháng trời sống trên biển, sống ở đây, mình phải tự đấu tranh một cách gay go thế, luôn luôn kêu gọi đến nghị lực, đến tinh thần dũng cảm của mình?

Trong khi ấy, thì đó chính là cuộc sống bình thường của bao nhiêu người chung quanh. Với một số vốn hiểu biết nho nhỏ, từ lâu mình đã đinh ninh là đã vượt lên trên những người trung bình. Nhưng bây giờ mình đã thấy rõ về nhiều mặt còn thua kém cả những người bình thường và thua kém nhiều mặt rất cơ bản...

Con thuyền trăng nhỏ đã biến đi sau màn đêm tối đen từ lâu.

Tiếng sóng biển ngoài xa theo gió chốc chổc lại ì ầm dội về. Biển đêm nay cũng thao thức như mình, trăn trở hoài, vẫn không ngủ được.

❖ 5 ❖

Sáng sớm hôm sau, chị chủ nhà mới về. Bà cụ mẹ chồng hỏi:

- Cái con mẹ này, đi đâu mà đi cả đêm thế hả?

- Con đi công tác cho huyện đội, con đã bảo chị Cảnh về nói với mẹ nhưng chị ấy quên.

Chị đưa Hảo một tờ báo Nhân dân. Hảo cảm ơn chị rồi mở tờ báo, ngồi đọc ngốn ngấu như một người đói ăn lâu ngày. Báo in đã cách đó gần một tuần, nhưng với vùng này thì đó vẫn còn là mới. Trong báo có đăng lời tố cáo giặc Mỹ ném bom vào nhiều khu phố đông dân cư ở Nam Định, gây những thiệt hại về người và nhà cửa. Hảo không lo cho mẹ và các em vì ngay từ tháng Năm, Hảo đã nhận được tin báo gia đình đi sơ tán. Nhưng mỗi tên phố, tên nhà nêu lên trong tờ báo đều gợi lên cho cô những kỷ niệm ngày thơ ấu. Nay mai mình trở về, nếu tất cả những thứ đó, chỉ còn là những đống gạch nát và vôi vữa... Đọc đi đọc lại mấy lần tin đó, Hảo buông tờ báo xuống tấm phản gỗ, ngôi thừ người.

- Chị làm sao thế? - Chị chủ nhà hỏi Hảo. Mặc dầu chị lớn tuổi hơn, đã có chồng có con, nhưng vẫn gọi Hảo như vậy và xưng bằng em - Chị khó ở à? Mọi ngày em thấy chị thích xem báo lắm cơ mà!

- Tôi đang xem đấy chị ạ. Có tin ném bom Nam Định. Nam Định là quê ngoại tôi.

Chị chủ nhà nhìn bà mẹ chồng đang cầm cái rá đi xuống bếp, rồi thì thầm với Hảo:

- Chiều và đêm hôm qua, huyện đội huy động chúng em đi vào rú tìm người lái máy bay của ta nhảy dù.

- Người lái máy bay của ta à? - Hảo hốt hoảng hỏi lại.

- Các anh ở huyện đội nói là trên thông báo sáng hôm qua máy bay ta đánh nhau với máy bay Mỹ. Có một anh lái máy bay của ta đã nhảy dù. Các địa phương phải chú ý tìm nếu thấy thì đưa ngay về tỉnh.

Sáng hôm qua, có máy bay bay qua. Huyện đội đoán có thể là máy bay của ta và máy bay của địch đuổi nhau nên huy động chúng em vào rú tìm xem sao.

- Các chị có thấy gì không?

- Đi cả đêm, đốt lửa rồi bắn súng báo hiệu, chả thấy gì. Em cứ nghĩ, nếu đã xuống đây thì không thấy người cũng phải thấy cái máy bay chứ chị nhỉ!

Hảo không trả lời được chị điều đó. Cổ họng cô nghẹn tắc.

Chuyện đó nếu không xảy ra ở đây thì phải xảy ra nơi khác, như thế có nghĩa là có một người lái đi chiến đấu không trở về. Anh Đông? Hảo nhớ lại lời Đông chào Thùy khi chia tay. Nhưng không hiểu sao Hảo cứ tin anh Đông không thể chết được. Hay là anh ấy? Nếu như lại chính là anh ấy? Các anh ấy bay ở trên trời, có thể nhào lộn giỏi hơn cả những con chim, nhưng các anh ấy không phải là chim. Con chim có những lúc không cần trở về tổ của nó, nhưng một chiến máy bay chiến đấu phản lực thì phải trở về nơi nó đã ra đi. Một người lái không trở về đúng giờ, có nghĩa là một điều không may lớn đã đến với anh. Anh phải rời máy bay bằng cách nhảy dù. Và có thể còn không may hơn thế nữa, anh đã không kịp rời máy bay.

Cô tự hỏi vì sao mình lại cứ nghĩ người đó chính là Quỳnh? Nét mặt buồn rầu của Quỳnh trong cả hai lần chia tay lại hiện lên trong óc cô... Có thể là anh ấy đã yêu mình ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên. Mình đã từ chối những tình cảm anh ấy dành cho mình. Có phải sáng hôm qua chính anh ấy đã bay qua đầu mình? Anh ấy đi để đánh nhau với chúng nó, với những chiếc máy bay gớm ghiếc đã làm mình khiếp sợ.

Anh ấy hiền như đất. Mình đã viết cho anh ấy mấy lá thư nhưng toàn những lời tẻ lạnh. Mình đã cố kìm hãm tình cảm của mình lại. Mình còn lo có thể bị hiểu lầm, có thể bị coi thường. Mình vẫn cân nhắc, đắn đo.

Trong khi anh ấy sẵn sàng hy sinh tất cả vì mọi người, vì mình anh ấy có đòi hỏi gì đâu? Đáng lẽ ra mình phải đem hết tình cảm để bù đắp một phần những hy sinh lớn lao của anh ấy... Đã lỡ rồi chăng...?