Chương XVII ❖ 1 ❖
Sau khi bắn rơi chiếc máy bay địch bằng một loạt đạn gần như kề miệng pháo vào sát buồng lái của nó, Đông lầm bầm:
- Một thằng!
Anh ngoái lại sau lưng không thấy Hoa đâu. Động tác của anh em mình hiền lành quá, vừa mới thế mà đã mất liên lạc rối. Mình phải tự đi kiếm lấy một thằng thứ hai.
Đông kéo thật mạnh cần lái, cho máy bay anh vọt lên chiếm độ cao. Khu vực mà họ đang chiến đấu giống như một cái giếng khổng lồ nằm giữa bầu trời. Mây dày vây tròn bốn phía. Trên đấu anh trời quang, xanh ngắt. Đông nhận ra chung quanh có khá nhiều địch và các bạn anh đã phải phân tán để lao vào một cuộc hỗn chiến. Tốt thôi.
Mình đã rơi vào đúng một ổ tiêm kích địch. Phải dè sẻn đạn mới được!
Đông đang tính toán chọn mục tiêu, thì thấy một con nhặng xanh đang bay ngược chiều với mình, đầu chúi xuống như muốn rúc vào tầng mù phía dưới. Lễ tế thần đây rồi? Mày đừng hòng thoát. Anh ngoặt gấp, cắt một đường bán kính thật ngắn, đuổi theo tên địch.
Thằng địch đã chui vào lớp mù. Chắc lớp mù này không dày lắm.
Đông cho máy bay lao thẳng theo hướng của nó. Nếu tao có một chiếc tên lửa thì mày tan xác rồi.
Ra khỏi đám mù, Đông lại nhìn thấy thằng địch. Anh đặt nó vào vòng ngắm, nhưng cự ly còn xa. Phải bám được gần nó như thằng trước mới bắn. Anh tăng hết cửa dầu cố thu khoảng cách.
Máy bay địch bắt đầu cơ động. Tên địch đã nhận ra nó đang bị đuổi theo. Máy bay của Đông và máy bay của địch đều lượn theo những đường gấp khúc. Như thế mày càng chóng chết. Mình sẽ cắt một đường bán kính thật gọn, tiêu diệt nó bằng một loạt đạn.
Bất thần máy bay địch chui tọt vào một đám mây. Đông phán đoán rất nhanh. Nó đang sợ vì bị mình bám đuôi nên sẽ không dám bay thẳng. Nó sẽ lợi dụng đám mây nhỏ này để chuyển hướng bay vòng lại sau lưng mình. Đông quyết định không chui theo địch vào mây mà vòng sang phải để đón đầu địch. Nếu nó cứ bay thẳng hoặc vòng sang trái thì mình sẽ tiếp tục đuổi theo. Nếu nó vòng sang phải thì nó sẽ chết với mình. Bay được một đoạn, quả nhiên anh thấy thằng địch đang lò dò quay lại. Đông lập tức bóp cò.
Những vệt đạn lửa bay vút vào khoảng không. Trượt mất rối!
Chiếc máy bay địch vội đầm xuống, lẩn vào một đám mây phía dưới. Đang say mồi, Đông ngoặt lại, cho máy bay lao theo. Nước réo mạnh hai bên khoang ngồi. Ánh sáng ùa vào mắt. Đông chợt nhìn thấy màu xanh trùng trùng điệp điệp của núi. Anh vội bấm mạnh ngón tay mở hết các mảnh giảm tốc để hãm cho máy bay chậm lại và cải bằng.
Anh lại thấy thằng địch ở phía trước.
Mày không thoát được rồi! Đông đã nhìn thấy bốn chiếc tên lửa dưới cánh của nó. Chiếc máy bay địch đã nằm gọn trong vòng tám chấm sáng trắng. Nó to lên khá nhanh. Được rồi! Đông tiếp tục bóp một loạt đạn thật dài. Lửa đạn vừa lóe lên anh đã nhận thấy khói phụt ra ở thân máy bay địch. Khói phụt ra mỗi lúc một to.
Chiếc máy địch rùng mình, nghiêng đi, rồi nó lại cải bằng. Sao mà nó ngắn thế? Chết cha! Hay mình bắn nhẩm máy bay ta rồi? Người Đông lạnh toát. Nhưng anh lại nhớ ngay là mình vừa nhìn rõ những chiếc tên lửa dưới cánh nó. Mình không lầm. Nhưng nó là loại máy bay gì? Nó giống như một con chuồn chuồn ngô. Đông nhận ra-mình đang đánh nhau với F.4. Trước mắt anh đúng là một "Con ma". Anh lập tức lao theo bồi thêm cho nó một loạt đạn cuối cùng. Một đám lửa bùng lên ngay trước mặt. Chiếc máy bay địch nổ tung như trái mìn. Những mảnh vỡ của nó bay khắp phía.
Thế là đủ tiêu chuẩn rồi! Đông biết mình sắp hết đạn và đã bay xa khu vực các bạn đang chiến đấu. Giờ phải tìm cách liên lạc với đồng đội và quay về. Đột nhiên, anh thấy máy bay bị chấn động rất lớn.
Thoạt đầu, anh tưởng đó là do luồng khí lưu của máy bay địch. Nhưng máy bay của anh tiếp tục rung mạnh khi anh bay xa nơi thằng địch đã nổ tan xác. Hay là mình vừa bị một thằng nào bắn lén? Đông quay đầu nhìn chung quanh. Từ độ cao anh đang bay trở lên, trời rất trong sáng.
Chỉ có ít gợn mây mỏng. Không thấy bóng một tên địch nào. Đông giảm cửa dầu, hãm bớt tốc độ của máy bay. Nhưng những chấn động không giảm mà có chiều tiếp tục tăng. Anh nghe thấy những tiếng động khác thường phát ra từ vòng quay của tuyếc bin. Có thể là một mảnh máy bay địch đã văng vào ống thu khí vì anh đã lao tới bắn quá gần. Không thể tiếp tục bay về trong hoàn cảnh máy móc thế này.
Đông lập tức bóp công tác vô tuyến điện gọi khẩn cấp:
- 316 gọi Chi Lăng! 316 gọi Chi Lăng!
Không có ai đáp lại.
- 316 gọi Chi Lăng! 316 gọi Chi Lăng!
Vẫn không có gì ngoài những tiếng tạp âm lạo xạo. Có thể là mình đã bay quá xa. Cũng có thể vô tuyến điện bị hỏng. Bây giờ mọi việc là do mình tự quyết định...
Đông cho máy bay hạ độ cao, chui xuống những tầng mây để tìm nơi hạ cánh. Dưới những kẽ mây vẫn là núi rừng trùng điệp. Những mỏm núi xanh nhọn hoắt, mây cuốn chung quanh. Những ngôi nhà bé teo teo bám bên sườn núi. Không biết vùng này thuộc về đâu? Làm thế nào để tìm ra một con sông bây giờ? Chả có lẽ cả vùng rừng núi mênh mông thế này lại không có lấy một cái thung lũng?
Chỉ cần một cánh đồng nhỏ. Mình sẽ không thả chân mà sẽ tiếp đất bằng thân máy bay ít nhất cũng phải cứu lấy máy móc và những đồ thiết bị bên trong.
Máy bay của Đông mỗi lúc một rung mạnh. Tình hình cấp bách lắm rồi. Nó không thể cứ tiếp tục bay như thế này được lâu nữa.
Dưới cánh máy bay bên trái hiện ra một triền núi quang mây.
Đông lập tức chuyển hướng bay về phía đó. Anh nhìn thấy một vệt trắng óng ánh như một sợi chỉ bạc nằm quanh co giữa hai triển núi. Có thế chứ, Đông tự bảo mình. Đúng là một con suối. Hai bên sợi chỉ bạc có những mảng nho nhỏ màu xanh non lá mạ. Nếu không phải là những bãi cỏ thì đó là những đám ruộng.
Đông tiếp tục hạ độ cao thật nhanh, bây giờ thì máy bay của anh bay giữa hai triền núi. Anh giảm cửa dầu tới mức thấp nhất và chuẩn bị sẽ tắt máy. Anh tự bảo mình: Phải quyết đoán thật kịp thời và hết sức chính xác. Nhất định phải có một mảnh đất chứa được mình và chiếc máy bay bé nhỏ này.
Trước mắt anh là một cái thung lũng nhỏ. Những hàng cây lớn của các khu rừng chạy vun vút hai bên cánh.
Tốc độ của máy bay vẫn còn lớn quá. Những mảnh ruộng lá mạ hiện lên rất rõ, từng miếng không đều. Nhưng tất cả đều hẹp và không đủ chiều dài cho máy bay. Không thể xuống thung lũng này được.
Đông kéo mạnh cần lái cho máy bay vượt sang cái thung lũng thứ hai đã hiện ra trước mắt. Anh đã cho tắt máy. Chiếc máy bay vẫn còn đủ sức rướn qua cái thung lũng anh đã nhìn thấy.
Thung lũng này còn hẹp hơn cả thung lũng thứ nhất. Nhưng chiều dài của nó có phần khá hơn.
Nhất định phải đáp xuống đây thôi. Đông thả hết cánh tà cho máy bay chỉ còn tốc độ nhỏ nhất. Chiếc máy bay bay dọc theo lạch nước. Cây rừng vẫn chạy ào ào dưới hai bên cánh.
Đông bay bằng một đoạn và quyết định cho máy bay tiếp đất.
Đuôi máy bay vừa chạm đất thì Đông nhìn ngay thấy một mương nước nhỏ nằm ngang trước mũi máy bay. Anh vội giật mạnh cần lái.
Đầu chiếc máy bay ngóc lên. Chiếc máy bay vọt qua cái lạch vừa định lật ngửa nó. Và nó trườn thia lia trên đám ruộng phía bên kia lạch.
Nhưng Đông lại thấy một cồn đất nhỏ chắn ngang trước mặt mình. Chỉ trong nháy mắt nữa là cả chiếc máy bay của anh sẽ cắm vào nó như một viên đạn. Đông vội đạp thật mạnh vào bàn lái bên phải.
Chiếc máy bay xoay ngang lại.
Toàn thân máy bay tiếp đất đánh sầm.
❖ 2 ❖Đông không biết minh đã ngất đi trong bao nhiêu lâu. Khi tỉnh dậy, anh vẫn thấy tỉnh táo. Đông giơ cánh tay trái lên. Anh từ từ duỗi một chân. Rồi anh duỗi thẳng nốt chân kia. Ồ... không sao cả. Đó mình đã biết mà! Trán anh hơi rát. Đông sờ tay lên và nhận ra trán mình rớm máu. Tại cái máy ngắm đây. Không làm gì chuyện vặt này.
Mọi vật trong khoang ngồi không suy suyển. Buồng kính không hề rạn vỡ. Anh nhìn ra bên ngoài. Đầu máy bay của anh chúi xuống bùn. Đuôi máy bay hơi nghếch lên chiếc cồn đất nhỏ. Một mảng cồn đất bị máy bay quệt vào ban nãy đỏ và nhẵn thín. Hai bên cánh máy bay, nước bùn vẫn tiếp tục nhỏ giọt. Nước bùn còn phủ trên những bờ ruộng và nhuốm trắng cả những thân cây ở chung quanh.
Đông mở khoang ngồi trèo ra ngoài. Chiếc máy bay nằm dọc trên một thửa ruộng nhỏ bé mỗi chiều từ mười lăm đến hai mươi mét, giống như một con cá nằm trên chiếc đĩa. Nhờ ruộng nước có bùn nên nó đã trở thành một cái đệm khá êm và làm cho máy bay của anh ban nãy giảm tốc độ rất nhanh. Lúc này, chính Đông cũng ngạc nhiên. Thì ra máy bay phản lực cũng có thể hạ cánh ở một mảnh đất nhỏ giữa vùng rừng núi như thế này. Nếu mình gặp tai nạn, mọi người chắc chắn đều tưởng là mình đã bị chúng bắn rơi. Khi mình không nghĩ đến cái chết thì mình đã tìm được sự sống cho mình và cho cả chiếc máy bay.
Đông đi vòng quanh ngắm lại chiếc máy bay một lần nữa. Buồng đốt vẫn tốt. Riêng chiếc cánh nằm ở bên trái bị bửa và thân máy bay phía dưới sây sát nhiều. Nó vào xưởng sửa chữa lại ít ngày rồi lại trở về với mình để đi một trận đánh mới. Nếu nó không phủ một lớp bùn thì anh muốn ôm lấy nó mà hôn.
Đông cảm thấy mệt và trong bụng đã đói. Bây giờ phải đi tìm một làng bản nào gần đây, xin dân làng cử người ngụy trang, canh gác máy bay và để nghị họ dùng cách nào nhanh nhất báo cáo với đơn vị mình đã hạ cánh bắt buộc ngoài sân bay an toàn.
Đông nhìn chung quanh. Anh trông thấy một bản nhỏ có những ngôi nhà sàn ở cách đó không xa, bên sườn núi. Đông bèn theo lạch suối đi về phía bản.
Vùng này rất vắng vẻ. Đông đi khá lâu theo dọc suối không gặp một ai. Anh trèo ngược con đường mòn lên bản. Anh bỗng nghĩ mình cần phải đề phòng, biết đâu mình đã bay lạc ra ngoài biên giới? Trước mắt anh có khoảng một chục ngôi nhà sàn. Đây là kiểu nhà sàn quen thuộc của đồng bào dân tộc ở miền Bắc. Nhưng anh không nhìn thấy một bóng người và không nghe một tiếng động nào trong bản. Đông mở sẵn nắp bao súng, vừa lại gần bản vừa nghe ngóng, quan sát. Chợt anh nhìn thấy một khẩu hiệu "Đẩy mạnh sản xuất" kẻ trên chiếc bảng quét vôi trắng treo ở hàng rào chống thú rừng bao quanh bản. Yên trí rồi. Mình chiến đấu ngay trên đất mẹ, đến đâu chả là nhà. Bây giờ là giữa buổi sáng, chắc phần lớn đồng bào kéo nhau đi sản xuất.
Đông đi thẳng vào bản. Gà lợn vẫn rủng rỉnh khắp nơi. Thấy một ngôi nhà sàn để ngỏ cửa, Đông trèo lên, hy vọng gặp được một cụ già hay em nhỏ.
Trên bếp, than lửa còn đỏ hồng. Nhưng nhà thì vắng tanh. Anh đánh tiếng không thấy ai trả lời, đành quay xuống định đi sang một nhà khác. Anh nghĩ hay là dân bản thấy máy bay mình hạ xuống tưởng là máy bay địch nên đã lánh cả vào rừng. Đông ngước mắt nhìn quanh xem nên đi về hướng nào. Anh chợt nhận thấy nhiều mũi súng và những cây đao lố nhố đang chĩa về phía mình. Từ rìa làng, nhiều bóng người đang lom khom tiến vào. Biết đồng bào hiểu lầm, Đông vội nói to:
- Chúng tôi là người và máy bay của ta đến tìm gặp các đồng chí dân quân, du kích địa phương.
Chỉ một loáng, mọi người từ bốn phía ùa lại vây kín chung quanh anh. Từ nãy đến giờ, Đông đã bị theo dõi từng bước. Những mũi súng và mũi dao vẫn hướng cả vào anh. Trên ngực các chiến sĩ dân quân trẻ tuổi lấp lánh huy hiệu đoàn viên thanh niên lao động. Đông đã vững lòng. Anh nói:
- Tôi là chiến sĩ lái máy bay của ta, đi chiến đấu về hết dầu phải cho máy bay hạ cánh xuống đây. Đề nghị các đồng chí cho gặp chính quyền, đảng ủy hay đồng chí phụ trách dân quân của địa phương.
Những người đứng chung quanh không trả lời Đông và bắt đầu trao đổi với nhau. Đông không hiểu họ nói gì vì mọi người đều dùng tiếng địa phường. Nhưng anh nhận thấy họ không bỏ qua một cử chỉ nhỏ của mình. Có đôi cặp mắt nhìn anh rất dữ dội. Anh biết là đồng bào vẫn nghi ngại. Hay là vì cái giọng Quảng Nam của mình? Trong người Đông lúc này ngoài bản đồ, vũ khí, không có giấy tờ gì. Anh đang nghĩ nói cách nào cho đông bào tin thì một người đứng tuổi, có bộ ria đen, tay cầm khẩu tiểu liên nói bằng tiếng Kinh, giọng rành rọt:
- Chúng tôi không nghe trên phổ biến là có máy bay ta về đây hoạt động. Anh phải đứng im để chúng tôi tước vũ khí, thu các tài liệu anh đem theo trong người và trói lại. Không được kháng cự!
Logged
❖ 3 ❖Dọc đường, thỉnh thoảng lại có một nhóm đồng bào từ trong rừng nhô ra. Các thanh niên đều mang súng, gậy hoặc dao rừng. Người cầm tiểu liên trao đổi với họ bằng tiếng địa phương. Đồng bào dừng lại bên đường, đứng ngó theo. Một hai thanh niên gia nhập vào đoàn áp giải.
Đông nghĩ tốt nhất là cứ cúi mặt lặng thinh mà đi.
Xã ở cách đó đến khoảng sáu, bảy ki-lô-mét đường rừng.
Người ta đưa Đông vào một ngôi nhà đất ở rìa làng. Một trường học. Trên vách nứa có treo ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hai dãy bàn học và những hàng ghế ghép bằng những ống bương bổ đôi chạy dài. Đây là một trường cấp một. Mực tím đổ loang trên mặt bàn. Trên bảng đen còn những hàng chữ phấn ghi một con toán về quy tắc tam suất.
Những anh dân quân cầm súng đứng gác hai cửa ra vào. Người lớn, trẻ con kéo đến rất đông. Họ đều bị chặn lại ở ngoài. Đông nhìn ra cửa sổ thấy người cầm súng tiểu liên đang nói chuyện với một người đàn ông đứng tuổi mặc sơ mi màu trứng sáo, khoác chéo người một chiếc xà cột. Anh đoán đây là một cán bộ của xã.
Bác mặc áo trứng sáo bước vào, nhìn Đông chòng chọc rồi hỏi bằng tiếng Kinh rất sõi:
- Anh có mang theo giấy tờ gì trong người không?
- Tôi có chiếc bản đồ bay thì các... anh dân quân đã lấy rồi.
- Anh bảo anh là người của ta thì có giấy chứng minh thư của Quân đội nhân dân Việt Nam không?
- Tôi không mang theo chứng minh thư, nhưng trên máy bay có hình phù hiệu của ta.
Bác ta quay lại hỏi gì người mang tiểu liên bằng tiếng địa phương, rồi lại hỏi Đông:
- Anh có muốn đề nghị gì không?
- Tôi muốn được gặp huyện đội hoặc đơn vị bộ đội ở gần đây để yêu cầu dùng cách gì nhanh nhất báo cáo với Bộ Tổng tư lệnh là tôi đã cho máy bay hạ cánh xuống xã nhà.
- Tôi sẽ báo cáo. Nhưng tôi phải xem máy bay đã. Huyện đội không ở gần đâu. Chúng tôi phải cảnh giác vì tháng trước chúng tôi vừa bắt được một toán biệt kích.
- Tôi rất tin tưởng ở tinh thần cảnh giác của... - Đông lúng túng không biết gọi người đó bằng gì - Nếu... đi kiểm tra máy bay thì tôi thấy nên cho rút nước ở ruộng ra. Nước có thể ngấm vào làm hỏng những thiết bị bên trong.
Bác ta nhìn vết thương trên trán Đông rồi trao đổi với người mang tiểu liên vẫn bằng tiếng địa phương. Sau đó, bác lại cởi trói cho Đông và bảo:
- Bây giờ anh về nhà tôi nằm nghỉ. Nếu anh là người của ta thì đừng lo ngại gì. Nhưng nếu anh không phải là người của ta thì không trốn được đâu. Chung quanh anh lúc nào chúng tôi cũng có người canh gác.
Đông được dẫn về một ngôi nhà sàn ở gần đó. Nhìn xuống sân, anh thấy một hàng rào dân quân mang súng đứng quanh nhà. Lát sau, một chị mặc sơ mi trắng và quần đen như người miền xuôi, đeo chiếc túi có hình chữ thập đỏ đến gặp anh. Chị xem vết thương của Đông rồi bôi thuốc và băng lại bằng một miếng băng dính. Chị không đụng gì đến vết sưng bươu trên trán anh. Sắp làm xong công việc, chị bỗng chăm chăm nhìn vào cổ áo Đông và hỏi:
- Cổ áo anh làm sao rách?
Đông cũng không hiểu sao cổ áo mình lại rách. Anh giơ tay lên lần xem, nhận thấy mình đã mặc một chiếc áo cũ cổ bị rách chưa có dịp vá lại. Mình tưởng là chỉ ở sân bay hoặc ngồi trong máy bay, ai ngờ lại gặp đồng bào với chiếc áo rách cổ này. Đông nói:
- Không can chi đâu. Áo này của tôi bị rách từ trước.
Chị y tá ngồi im ngẫm nghĩ một lát rồi lại chỉ vào vết - Còn chỗ này, tại sao?
- À... tôi va phải một cành cây...
- Không phải. Tôi biết rồi. Anh nằm xuống!
Chị lấy bông thấm cồn rồi bảo Đông nhắm mắt lại. Chị ngồi bên Đông, dùng tay day miếng gạc hồi lâu chỗ sưng trên trán anh. Khi Đông mở mắt, anh chợt nhìn thấy hai mắt chị đỏ hoe. Chị nói với Đông ngọt ngào:
- Anh nằm nghỉ đi. Lát nữa tôi sẽ mang cháo đến.
Buổi chiều, bác mặc áo sơ mi trứng sáo mới quay về. Đông nằm trên nhà nhìn xuống dưới sân thấy chị y tá giữ bác ở hàng rào nói chuyện gì một hồi lâu. Rồi bác áo xanh hấp tấp lên cầu thang, bước vào nhà. Anh vừa kịp nhỏm dậy thì bác đã đến ngồi ở bên cạnh. Bác mỉm cười với anh và nói:
- Giới thiệu với đồng chí (tiếng "đồng chí" đầu tiên Đông được nghe từ khi tới đây đến giờ), tôi là chủ tịch xã. Tôi vừa đi xem máy bay về. Qua nghiên cứu máy bay và trang bị của đồng chí, chúng tôi nhận thấy tất cả đều là những thứ do ta hoặc các nước bạn sản xuất. Đặc biệt là chúng tôi có theo dõi thái độ của đồng chí từ khi gặp sự hiểu lầm của đồng bào đến giờ. Tôi cũng ở trong quân đội. Tôi thấy đồng chí là người có đầy đủ bản chất một chiến sĩ Quân đội nhân dân. Đồng chí sẽ ở lại với chúng tôi một vài hôm. Từ đây lên huyện phải đi một ngày cật sức. Sáng mai, chúng tôi cử người lên báo cáo thì ngày kia mới có người trên huyện về. Lại còn khó khăn nữa là mấy hôm trước trời mưa, nước lũ mới đổ về, đường đi qua sông, suối khó khăn. Nhân dân xã chúng tôi sẽ đón tiếp đồng chí như đón người đi tiền tuyến trở về.
Từ lúc đó, Đông được coi là một khách quý.
Chị y tá bắc cái nồi lớn đun nước ngay giữa nhà. Gia đình lấy mấy chiếc nong quây một góc nhà lại, bắt Đông vào đó tắm. Đồng chí chủ tịch xã tự mình chuyển nước cho Đông. Anh bí thư thanh niên mang tới một cái quần "phăng" và một chiếc sơ mi trắng còn mới để Đông mặc thay bộ quân phục mà chị y tá đã vội vã đem đi giặt. Đôi ủng bê bết bùn đất của anh được lau sạch bóng.
Buổi tối, đồng bào tấp nập mang quà tới, những quả trứng, nải chuối, tấm mía, trái chanh, trái bưởi, lại có cả một hộp sữa nước.
Những người đã đến không ai chịu về, dần dần đông đầy nhà.
Một buổi liên hoan không hẹn trước bắt đầu. Thanh niên hát bài Vì nhân dân quên mình và bài ca Giải phòng miền Nam. Tiếng hát khỏe và đều. Chị y tá xung phong hát một bài. Đó là Bài ca may áo. Đông rất lúng túng. Anh hát rất xoàng và cũng không biết ngâm thơ. Tài tán và bịa chuyện của anh không thể đem ra dùng ở đây. Đang lúc anh chẳng biết làm gì thì một chị bế đứa nhỏ của mình đặt vào tay Đông.
Thằng bé đầu không có tóc, thân hình vuông vức như chiếc bánh chưng, cổ tay đeo đến gần chục chiếc vòng bạc. Chị là người đã mang tới đây hộp sữa.
- Cho khăm trời thằng con trai mang nó đi cho nó lái máy bay Đông đón láy đứa nhỏ, nói:
- Chị cho thật, ngày mai tôi đem cháu đi luôn nhé!
Người mẹ trẻ giương đôi lông mày nhỏ và cong:
- Cho thật.
Mọi người cười ồ. Đứa bé nhìn mặt anh thấy lạ, giãy ra, oài người về phía mẹ nó. Đông cảm thấy lưng mình hơi đau. Khéo không lại giống anh Tú thì phiền đây, anh nghĩ. Mẹ đứa bé phải đón lại nó, nói với Đông:
- Cho thật rồi. Bao giờ nó lớn khăm trời về đón nó đi học.
Đông không hiểu hai tiếng "khăm trời " là gì.
Một cụ già vừa bước lên. Cụ có bộ râu dài, nước da đen vậ khỏe, những nếp nhăn rất rõ chạy vòng hai bên đuôi mắt như đôi cánh chim.
Cụ chìa tay ra trước mặt Đông, chém chém vào khoảng không. Đồng chí chủ tịch bảo anh:
- Ông cụ chào đồng chí đó!
Đông vội chắp tay và nói:
- Chào cụ.
Cụ già đi lách giữa những người ngôi đó, đến trước mặt Đông:
- Nhân dân kẻ bản rất sung sướng vì có khăm trời đưa máy bay của Đảng và chính phủ về. Đồng bào đã nhìn thấy máy bay Mỹ rơi xuống đất là tan tành. Khăm trời và máy bay xuống kẻ bản đều lành lặn, đồng bào rất vui mừng. Tôi thay mặt các cụ lão đến chúc sức khỏe khảm trời...
Đông quay sang phía đồng chí chủ tịch xã, hỏi nhỏ:
- Khăm trời là gì?
- Là "người trời" - Đồng chí chủ tịch nói - Từ chiều đến giờ nhiều đồng bào đều gọi đồng chí là “người trời”.
Chết chưa! Vậy mà mình cứ điềm nhiên ngồi nghe. Đông vội nói:
- Thưa cụ, cự chớ gọi cháu là “khăm trời”. Anh em chúng cháu trước đây đều là người nghèo khổ. Bố cháu ngày xưa cũng đi ở đợ. Nhờ có Đảng và có Bác Hô cứu cho, nhờ nhân dân nuôi ăn, nuôi học nên ngày nay lái được chiếc máy bay. Chúng cháu không phải là người trời.
Chúng cháu chính là con của nhân dân, con của Cụ Hồ.
Buổi liên hoàn kéo dài đến lúc chị y tá nhắc đồng chí chủ tịch lần thứ hai phải để cho Đông đi nghỉ.
Chủ tịch xã vui vẻ nói:
- Bây giờ xin mời đồng bào tạm về nhà, mai lại tới. Đồng chí phi công đánh nhau với mấy chục máy bay Mỹ sáng hôm nay không mệt bằng từ lúc về nghỉ ở bản ta đến giờ.
Chỗ ngủ của Đông đã được chuẩn bị chu đáo. Vén cửa màn nhuộm màu chàm lên, Đông thấy một chiếc khăn trải giường bằng thổ cầm đặt trên tấm nệm dày. Đầu giường là một chiếc gối xếp bằng vải mà từ lâu Đông mới lại trông thấy. Lại có cả một cái chăn bông đề phòng đồng chí lái máy bay không quen với khí hậu mát mẻ của miền núi ban đêm.
Khi về kể lại chắc là khối cậu phát ghen với mình. Nhưng bây giờ thì hẳn là cả đơn vị đang rất phiền vì chuyện mình chưa trở về. Thế nào cũng có những đồng chí tin là mình đã chết. Bao nhiêu người đang khổ vì mình. Thằng Quỳnh có lẽ đã khóc mình rồi cũng nên. Không biết đến lúc nào mới báo được tin cho đơn vị biết cả mình và máy bay đều an toàn...
Giờ này chắc cô ấy và con đã ngủ ngon. Gần đây, cô ấy hay nhắc đến sự liều lĩnh của mình. Cũng có nhiều người đã hiểu lầm mình như cô ấy. Thực ra mình không liều lĩnh. Trong lúc mọi người tưởng là mình liều lĩnh thì mình lại rất tính toán, rất suy nghĩ. Sáng nay chỉ cần mình không tỉnh táo, không suy nghĩ một giây thôi là mình đã không còn.
Cuộc sống từ trước đến giờ lúc nào cùng chỉ đặt ra cho mình hai con đường. Một là lùi lại trước khó khăn để trở thành một kẻ ươn hèn. Hai là lao thẳng vào khó khăn. Mình đã suy nghĩ chán. Không có việc gì khó... Đúng như vậy.
Hai ngày sau đó, vào giữa buổi trưa, một anh bộ đội cao lớn, cằm bổ đôi, đeo khẩu súng ngắn, phóng ngựa vào sân. Anh quàng vội dây cương vào chiếc cột nhà sàn rồi nhảy lên cầu thang chạy vào làm rung chuyển cả ngôi nhà. Đó là đồng chí huyện đội trưởng. Anh hỏi chuyện Đông xong, rồi nói:
- Nghe báo cáo tôi vẫn không tin. Tôi bảo: Máy bay phản lực mà hạ cánh xuống xã các đồng chí thì thịt nát xương tan chứ nguyên lành thế nào được... Bây giờ, đồng chí phải về ngay với tôi để tôi còn báo cáo lên tỉnh đội. Đồng chí không biết là anh em chúng tôi mất ăn mất ngủ vì đồng chí suốt mấy ngày hôm nay rồi.
Một lát sau, nửa tiểu đội dân quân đã tập họp trên sân cùng với một cáng võng. Huyện đội trưởng bảo Đông:
- Đây là chỉ thị của cấp trên, đồng chí nhất thiết phải theo. Mời đồng chí lên cáng. Chúng tôi có nhiệm vụ phải bảo vệ sức khỏe để đồng chí chiến đấu lâu dài. Khi đồng chí về đến huyện sẽ có xe con hay trực thăng tới đón.
Mười hai giờ liền nằm trên võng cáng, đó là thử thách gian khổ mà Đông phải chịu đựng trên đường về.