← Quay lại trang sách

Chương V ❖ 1 ❖

Hạ tuần tháng bảy năm 1966, sau cuộc họp với Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân ở Washington, Tổng thống Mỹ trở về trại David với vẻ lo âu.

Một cuộc họp được tổ chức ngay vào chiều chủ nhật. Cùng dự họp, có chủ tịch văn phòng cố vấn tình báo đối ngoại Clark Clifford.

Người bạn cũ này được Johnson đánh giá là một trong những bộ óc tốt nhất của nước Mỹ. Được hỏi ý kiến về tình hình Việt Nam, Clifford nói:

"Tôi không thể thấy điều gì trừ sự thảm họa đối với nước ta".

Tổng thống Mỹ nói lại bằng những lời nhã nhặn:

"Ngài đã bày tỏ những nỗi lo lắng mà nhiều người Mỹ, kể cả tổng thống đang trải qua. Không ai lo lắng hơn tôi nhưng chúng ta không thể rút lui. Tôi cũng không sẵn sàng chấp nhận bất kỳ một giải pháp nào có tính chất là một thứ ngụy trang cho sự đầu hàng".

Có thể chính những ý kiến bi quan ở cuộc họp này đã kích thích Johnson. Chỉ hai ngày sau đó, Johnson triệu tập Hội đồng an ninh quốc gia.

McNamara trình bày trước hội đồng một bản báo cáo vắn và xám xịt về tình hình Nam Việt Nam, và kết luận: "Nếu không có lực lượng vũ trang bổ sung thêm, Nam Việt Nam thế nào cũng rơi vào tay Hà Nội!"

Johnson đề ra cho hội đồng năm phương sách để lựa chọn:

"Một là, bắt kẻ địch quỳ gối bằng cách sử dụng bộ chỉ huy không quân chiến lược.

Hai là, theo ý kiến một số người, chúng ta phải cuốn gói về nước.

Ba là, cứ để con cái của chúng ta ở đó như hiện nay, tiếp tục chịu mất đất đai và thương vong, rồi ngồi đây mà nghe con cái chúng ta kêu khóc.

Bốn là, gọi quân trù bị tăng lính quân dịch, đặt đất nước Mỹ trong tình trạng thời chiến, tuyên bố tình hình khẩn cấp.

Năm là, cung cấp cho các tư lệnh quân đội ngoài chiến trường số quân lính mà họ nói là cần thiết".

Johnson không giấu giếm là mình muốn lựa chọn giữa phương sách thứ tư và thứ năm. Ông còn nói rõ hơn rất muốn chọn phương sách thứ tư. Nhưng lý trí đã bảo làm như vậy là không khôn ngoan. Do đó, ông chọn phương sách cuối cùng.

Giới cầm quyền ở Nhà Trắng đã thống nhất với ý kiến của tổng thống, tiến hành ở Việt Nam một cuộc chiến tranh hạn chế và không tuyên bố.

Sau này, Johnson nói lại đã đi đến "quyết định lịch sử" hồi cuối tháng bảy năm 1966 sau những đêm thao thức tại văn phòng tổng thống ở Nhà Trắng, sau những giờ ngồi một mình ở trại David hay đi bộ dọc bờ sông nhìn về miền đồi núi nhấp nhô bang Texas. Ông cho rằng mình đã làm đúng theo ý của ba đời tổng thống trước đó.

Ngày 28 tháng Bảy, Johnson tuyên bố đưa thêm nhiều sư đoàn, lữ đoàn quân Mỹ sang miền Nam Việt Nam với những lời lẽ thống thiết:

"Đưa ra chiến trận tinh hoa của tuổi thanh niên nước ta, những chàng thanh niên ưu tú nhất của chúng ta, đối với tôi không phải là một việc làm dễ dàng. Hôm nay tôi đã nói với các bạn về từng lữ đoàn, từng tiểu đoàn và từng đơn vị này khác, nhưng tôi đều biết rõ họ, biết từng người một. (...) Tôi cho rằng tôi cũng biết cả những người mẹ của họ sẽ khóc lóc như thế nào, những gia đình họ sẽ đau buồn như thế nào. Đây là nhiệm vụ day dứt nhất và đau đớn nhất của vị tổng thống của các bạn..."

Nhà Trắng quyết định từ đó đến cuối năm 1966 sẽ nâng số quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam từ tám vạn lên gần bốn mươi vạn; con số này còn được nâng lên nữa vào giữa năm 1967.

Các cửa biển và sân bay ở miền Nam Việt Nam đầy ngập quân xâm lược Mỹ. Xe tăng và pháo hạng nặng của Mỹ nghiền nát những con đường lớn, nhỏ. Pháo đài bay chiến lược B.52 ném bom rải thảm suốt ngày đêm. Mưa chất độc hóa học đổ xuống, làm mất màu xanh của núi rừng. Lính Mỹ mang cờ hiệu sọc và sao có mặt ở khắp nơi, khi thì mỉm cười tỏ tình bạn với những bác nông dân đang theo trâu cày ruộng, khi thì bỗng nhiên xả súng bắn vào họ. Chúng say sưa lao vào những chiến dịch được gọi bằng cái tên kiêu hùng "tìm và diệt".

Trên miền Bắc, Mỹ đẩy mạnh các chiến dịch oanh tạc "Sấm rền".

Mỹ tuyên bố trong tháng sáu đã thiêu hủy bảy mươi phần trăm các nhiên liệu của ta. Máy bay đánh phá quyết liệt ngày đêm các tuyến giao thông mạch máu nối liền hai miền Nam Bắc, bắt đầu đánh mạnh các khu kinh tế và những khu đông dân cư. Báo chí và các hãng thông tấn phương tây đưa tin: "Mỹ chuẩn bị giáng cho Bắc Việt Nam một đòn mạnh mới trong cuộc chiến tranh bằng máy bay". Có cả tin Mỹ sẽ đưa quân đổ bộ ra miền Bắc.

Ta sẽ lùi lại để quân xâm lược chiếm nửa đất nước đang sắp được giải phóng? Hay ta quyết đứng vững trên mảnh đất quê hương của mình, tiếp nhận cuộc chiến đấu đánh bại xâm lược như ông cha ta vẫn thường làm?

Giữa lúc đó, Chủ tịch Hồ chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt tại Hà Nội. Lời nói của Người vang dậy núi sông:

"Không gì quý hơn Độc lập, Tự do”.

Nhân dân ta đáp lại lời kêu gọi lịch sử của Người, tiếp tục tiến lên trong cuộc trường chinh mới.

❖ 2 ❖

Trọng được đánh động về việc đi chiến trường miền Nam khá sớm. Ngay sau đó, anh đã hăng hái chuẩn bị. Nhưng rồi một thời gian không ai nhắc tới chuyện đó. Trọng thắc mắc, hỏi đồng chí phụ trách cơ quan. Đồng chí giải thích: "Ngày giờ đi không phải do mình quyết định. Đồng chí cứ sẵn sàng. Chúng tôi sẽ không để lỡ cơ hội của đồng chí". Sau đó, anh lại được tòa soạn trao nhiệm vụ đi Khu Tư. Anh tự bảo mình bao giờ chuyện đến nơi sẽ hay, cứ trông ngóng nó mãi sẽ không làm được việc gì.

Ở Khu Tư về, Trọng đang dành thời gian viết một tập bút ký về các chiến sĩ chiến đấu trên đảo Cồn cỏ, thì cơ quan đến báo tin một tuần nữa anh sẽ lên đường. Trọng phải xếp công việc đang làm lại.

Anh dành mấy buổi đến các kho (các cơ sở này đã phân tán nhiều nơi đề phòng địch oanh tạc) để lĩnh trang bị đi xa: ba-lô, tăng võng, chăn màn, quần áo, thuốc men, thức ăn khô... Lại phải chuẩn bị giấy tờ, giấy giới thiệu của những cơ quan có thẩm quyển, giấy giới thiệu theo đường quen biết riêng của bạn bè với một số cơ sở anh sẽ tới công tác.

Loại giấy thứ hai này cũng khá quan trọng, vì anh sẽ làm việc được thuận lợi hơn ở những nơi có người thông cảm với công việc viết lách.

Lại còn thời gian cho việc đi chào hỏi người thân và dự những cuộc liên hoan tiễn đưa.

Trưa hôm nay, Trọng ngồi cắt mấy miếng mút để khâu thành những cái đệm cho vai đỡ đau khi đeo dây quai ba-lô.

Có tiếng gõ cửa rụt rè. Trọng quẳng vội tất cả xuống ngăn dưới của bàn uống nước. Chắc là cô ấy, anh nghĩ. Tối hôm qua anh đã đến nhà, gửi lại cho Vi phong thư ngắn báo tin mình sắp đi; anh đoán trưa nay, sau giờ làm việc, Vi sẽ đến.

Người xuất hiện trước cửa là Bút, chủ nhiệm chính trị mới của đoàn bay. Bút nở một nụ cười lành hiền trước vẻ ngạc nhiên của Trọng. Đôi mắt màu nâu của anh ánh lên một chuyện gì vui vẻ. Trọng nắm lấy tay anh:

- Anh đến thật bất ngờ!

- Không phải chỉ có mình tôi... Anh sẽ còn bị bất ngờ nhiều!

Một người nữa đứng khuất ở dọc hành lang bước tới. Bộ mặt đen cháy và đôi hàm răng sữa quen thuộc. Trọng buông tay Bút, nắm vội lấy tay Hoa.

Trọng kéo hai người vào nhà. Mấy tháng nay anh không lên sân bay. Gặp hai người, anh hết sức mừng rỡ. Thấy anh chuẩn bị pha nước, Bút gạt đi:

- Anh đừng cho uống nước nữa. Chúng tôi muốn mời anh đi ngay. Vừa đến tòa soạn tìm anh, đồng chí thường trực nói hôm nay anh ở nhà.

Trọng đoán trên sân bay có tổ chức hội nghị mừng công hoặc sơ kết. Anh em trên đó chưa biết tin Trọng sắp đi xa. Trọng sẽ phải từ chối vì anh không còn thời gian. Anh nói:

- Vội mấy cũng phải uống chén nước đã.

Bút giữ tay Trọng lại:

- Phải nói luôn công việc bữa nay với anh... Tôi và đồng chí Hoa về nhà cô Diệu Lan bây giờ. Anh em trên đoàn đều nói, đi việc này phải mời anh cùng đi. Anh rất mát tay. Anh giúp cho xong hoàn toàn thì hai vợ chồng cậu ấy sau này hàng năm phải đến lễ tết anh.

Thấy Hoa đang nhìn mình với vẻ khẩn khoản, Trọng hỏi:

- Các anh định đi đến bao giờ về?

- Sẽ trả anh lại nhà trước 7 giờ sáng mai - Bút đáp.

- Các anh cho tôi 5 phút để chuẩn bị.

Bút và Hoa nhìn nhau mỉm cười. Họ như muốn nói: đã biết trước là thế nào anh ấy cũng nhận lời.

Trọng mặc quần áo xong, lấy một tờ giấy trắng ghi mấy chữ:

"Tôi đi vắng 7 giờ sáng mai có mặt ở nhà. Các bạn đến thăm, cần gì xin nhắn lại". Anh ghim tờ giấy trước cửa rồi cùng Bút và Hoa xuống xe.

Trên đường đi, Trọng mới biết hôm nay Bút và Hoa về gia đình Diệu Lan để xin cưới. Trọng buột miệng:

- Nhanh quá nhỉ?

Bút cười:

- Anh không nhớ là đồng chí Hoa của chúng tôi đã chuyển loại sang lái máy bay phản lực siêu âm.

Hoa phân bua:

- Thời kỳ bột phát thì như vậy nhưng thời kỳ tiệm tiến thì không nhanh đâu anh Trọng ạ. Tôi và cô Diệu Lan biết nhau từ trước ngày anh lên sân bay.

Trọng nói:

- Tôi cứ tưởng những người đi trước trong chuyện này là anh Quỳnh và cô Hảo.

Bút vẫn giữ nụ cười không tắt trên môi:

- Về mặt "nhân hòa" thì như nhau. Nhưng về "thiên thời", "địa lợi" thì đồng chí Hoa và đồng chí Diệu Lan có ưu thế hơn, vì là người cùng trong Quân chủng. Cô Hảo và cậu Quỳnh là cá nước và chim trời nên kết hợp với nhau được phải có nhiều thời gian hơn.

- Không biết... hai người định đến bao giờ?

- Chúng tôi có nhắc nhưng chưa thấy Quỳnh đề nghị. Có lẽ Quỳnh muốn chờ công tác của cô ấy ổn định hơn.

Trọng được biết một số tin tức ở sân bay ngoài những trận đánh mới mà anh em ở tòa soạn lên đó về đã kể lại. Nhự nhảy dù bị lạc hai ngày trong rừng, vết thương ở chân anh sắp lành, khoảng một tháng nữa sẽ trở lại đơn vị. Anh em lái máy bay mới đã bắt đầu tìm được cách làm ăn trong khi những máy bay cũ gặp khó khăn vì địch dùng thủ đoạn bay cao và bay với tốc độ lớn.

❖ 3 ❖

Bố Diệu Lan chưa tới năm mươi, tóc đen cứng, da rám nắng. Ông gọi Bút và Trọng là các bác. Sau khi được Bút giới thiệu Trọng chưa có gia đình, ông gọi Trọng bằng anh. Ông đã xác định thứ bực trong việc đổi xử với khách: Bút thay mặt cơ quan được coi là người bằng vai; còn Trọng chưa có vợ, bạn của con rể nên được sắp chung hàng với Hoa. Mãi đến trước khi đi ngủ, Bút và Trọng mới hoàn thành được nhiệm vụ khó khăn nhất của chuyến đi, là làm cho gia đình bằng lòng tổ chức lễ cưới tại sân bay.

Sáng hôm sau, họ dậy từ lúc mờ sáng để ra xe.

Hoa đêm qua ngủ chung giường với bố vợ tủm tỉm kể lại nửa đêm anh vờ mê ngủ, gác chân lên đùi ông, ông cứ nằm im, khi anh bỏ chân xuống, ông mới nhè nhẹ trở mình.

Bút bĩu môi, rồi nói:

- Cậu ăn phải đũa cậu Đông rồi. Chuyện gì cũng phải thêm muối, thêm mắm!

- Tôi nói thật! Đúng là lúc nửa đêm tôi gác lên ông cụ.

- Cái đó thì mình tin. Mình lạ gì cái tật nằm ngủ của cậu. Nhưng cái chi tiết cậu thức hẳn hoi mà vờ làm ra ngủ để gác chân lên người bố vợ xem phản ứng như thế nào, thì có đúng là cậu bịa ra không?

Hoa cười xòa.

Diệu Lan ở trong nhà ra, ôm theo những gói lá chuối, cô nói:

- Mẹ em cứ nhất định bắt phải mang phần cơm sáng cho các anh ăn khỏi đói. Đêm hôm qua, bà dậy nấu xôi lúc nào em không biết.

Hoa đỡ các gói xôi từ tay người yêu:

- Tối qua, anh yêu cầu mẹ cho ăn sáng và phải nắm cho anh nắm xôi to nhất!

Cô gái lườm anh:

- Anh là rất lắm tội. Lúc nào em sẽ bảo cho!

Cô gái đã hiển dịu hẳn và tươi mát như một bông hoa nhài buổi sớm. Trọng phân vân không hiểu tại sao những ngày đầu gặp cô ở sân bay, Trọng không thấy cô đáng yêu chút nào. Rồi anh lại nghĩ không biết ngày hôm qua Vi đã đến anh vào lúc mấy giờ. Câu chuyện giữa anh và Vi rồi sẽ ra sao? Anh đã nói với Vi mình sắp đi xa. Có thể sau một thời gian anh sẽ trở về, nhưng cũng có thể anh sẽ đi rất lâu. Anh đề nghị coi chuyện quan hệ giữa hai người từ trước tới giờ chỉ là tình bạn. Anh muốn Vi không bị ràng buộc gì với mình vì những lời đính ước.

Còn sau đây, nếu anh trở về, Vi vẫn chưa lập gia đình thì lúc đó sẽ hay.

Vi đã phản ứng lại một cách quyết liệt. Cô tủi thần, vì thấy Trọng coi thường mình. Cô nói anh cứ việc đi, chóng hay chầy thì về phía cô cũng không có gì thay đổi. Nhưng cô dành cho anh quyền được không làm theo lời hứa hẹn cũ. Thái độ của Vi làm cho Trọng mềm lòng. Anh không muốn Vi phải đau khổ, sự đau khổ mà anh cũng phải chia phần, vì một quyết định dứt khoát của anh về mối quan hệ giữa hai người...

Đúng như lời hẹn của Bút, chưa tới 7 giờ, xe đã về đến trước cửa nhà Trọng. Hoa nói với Trọng:

- Hôm này, ngày vui của chúng tôi thể nào anh cũng lên.

Trọng cảm thấy bối rối vì đã đến lúc anh phải xa những người bạn đã gắn bó với anh suốt cả thời gian qua.

- Tôi rất tiếc là sẽ không có mặt. Tôi phải chúc mừng anh chị ngay từ bây giờ vì tôi sắp đi xa.

Tất cả mấy người cùng sửng sốt. Bút hỏi:

- Bao giờ anh đi?

- Sao nghe nói chuyện anh đi xa thôi rồi? - Hoa hỏi tiếp.

- Chiều mai tôi sẽ đi. Rất may được gặp các anh. Hai anh cho tôi gửi lời chào tất cả các anh ở đoàn bay. Chúc các anh chiến đấu giỏi và xin hẹn ngày gặp lại.

Hoa ôm chầm lấy Trọng và hôn như mưa trên mặt anh.

Bút bắt tay Trọng với một nụ cười gắng gượng:

- Không biết anh đi nên đã làm mất nhiều thời gian chuẩn bị của anh. Chúc anh gặp mọi điều may mắn và mong sẽ gặp lại anh.

Trọng quay lại bắt tay Diệu Lan:

- Chúc chị hạnh phúc và xin tạm biệt chị.

- Ngày mai em sẽ còn gặp lại anh ở tòa soạn, vào buổi chiều phải không anh?

- Chị đừng ra đó nữa...

- Không. Em nhất định phải đến...

Trọng chậm chạp bước lên cầu thang gác. Hai tai anh ù ù. Người anh nhẹ bỗng như vừa mất đi một cái gì.

Mảnh giấy Trọng ghim ở cửa dày đạc chữ những người nhắn.

Một người ở tòa soạn chắc là đến sau cùng, ghi bằng chữ đỏ lên khoảng trống còn lại ở đầu giấy: “4 giờ chiều mồng 8, xe đi. Tối nay (mồng 7) vào phòng dự liên hoan."

Em gái anh viết: “Trưa mai đến nhà em ăn cơm, rối đến ông bà.” Một người bạn viết: “Đã kiếm được vải dù ngụy trang, xanh-tuya-rông mềm. Lại nhà mình mà lấy.” Một người khác viết: “Dành cho mình buổi sáng nay. Đến nhà mình ăn cơm.” Không thấy cô ấy đến...

❖ 4 ❖

Trọng tới bậc cầu thang đã nghe tiếng bố vừa quát to, vừa càu nhàu cái gì ở trên gác. Bố anh ở nơi sơ tán về chiều hôm qua sau khi được em gái anh nhờ người báo tin ngày hôm nay anh sẽ đi chiến trường. Lòng anh se lại vì thương mẹ. Anh nghĩ đến khi anh đi xa rồi mà ở nhà bố vẫn rầy la mẹ như thế này. Trọng tự bảo, lát nữa anh sẽ góp ý kiến với bố về chuyện đối xử với mẹ một lần nữa trước khi đi.

Bố anh đang ngồi trước bàn làm việc với phiến đá hồng đã được khắc đầy chữ. Đó là cái công thức T2 của ông cụ. Gần đây, Trọng đã biết ông cụ đổi chiếc lư đồng lấy phiến đá đẹp để làm công việc này.

Cụ đang khắc nốt dòng chữ số ghi lại số năm tháng cụ đã dành ra hoàn thành công trình này: 1945 - 1965. Cụ đã hí húi suốt mấy tháng nay vì cụ chỉ làm vào những ngày được về Hà Nội và cụ đã khắc bằng những kiểu chữ rất nhỏ và đẹp.

Thấy Trọng vào, ông cụ quay lại phân trần:

- Bà ấy lại đang làm khổ tôi. Anh về mà giải thích cho mẹ anh.

Bà ấy rên rỉ từ đêm qua đến giờ về chuyện anh bằng ấy tuổi đầu rồi, vợ con chưa có giờ lại đi xa... Tôi không chịu được. Tôi biết anh thích đi thế này từ lâu, bây giờ anh được như ý thì bà ấy phải vui vẻ mới đúng...

Ông cụ trỏ tay vào phiến đá đang khắc, nói tiếp:

- Củng như tôi làm cái này suốt hai mươi năm trời vì thích nó. Vì thích nó nên thiếu ăn, thiếu mặc vì nó tôi cũng cứ vui, ai dè bỉu, ai nói ra nói vào tôi cũng cứ làm. Chỉ có bây giờ ai ra lệnh cho tôi: "Ông không được làm nữa, ông phải đốt, ông phải quên nó đi", thì lúc đó tôi mới khổ. Tôi thấy nó sẽ có ích cho đời thì tôi làm, tôi chẳng đòi đời phải trả công, tôi chẳng suy hơn tính thiệt. Nay mai chẳng may bom đạn Mỹ có giết tôi thì tôi cứ để lại cho đời hòn đá này. Đời dùng nó hay không là tùy. Bà ấy lo anh đi lâu, về già quá rồi thì còn lấy ai! Sướng có phải là ở chỗ cũng có được cô vợ, có được đứa con như mọi người đâu! Sướng là ở chỗ người ta đạt được cái gì mà người ta mong muốn.

Anh không nói rõ cho bà ấy hiểu thì khi anh đi rồi, tôi sẽ là nạn nhân trong nhà này.

3 giờ chiều, chiếc xe của cơ quan đến đón anh. Trọng và em gái cố nói với mẹ để bà đừng ra tiễn ở bến xe. Anh sợ nhất khi ở giữa đám đông, mẹ anh òa lên khóc. Cuối cùng, mẹ anh đồng ý. Sắp xuống cầu thang để ra xe, ông cụ bỗng đứng dậy, đi ra ngoài hiên, gọi Trọng:

- Anh ra đây bố hỏi cái này?

Trọng bước vội ra, ông cụ hỏi nho nhỏ:

- Cái con bé ấy nó đâu?

- Thưa bố, cô ấy đi công tác vắng.

Anh buộc phải nói dối bố. Hôm qua, anh đến nhà không gặp Vi.

Hỏi thăm em gái Vi, biết lá thư tối hôm trước của anh đã được chuyển cho Vi. Em gái Vi nói không thấy Vi dặn lại gì, và mấy bữa nay Vi cứ về nhà ăn xong bữa, lại đi luôn. Vào giờ phút này anh chỉ có thể gặp cô lần cuối cùng ở bến xe.

Ông cụ bỏ qua chuyện đó một cách nhẹ nhàng, ông ngước đôi mắt nhìn anh qua cặp kính lão một cách chăm chú, rồi hỏi:

- Có phải Mỹ vừa đưa nhiều quân ra đóng dọc Đường 9 phải không?

- Hiện nay chưa nhiều lắm, nhưng rồi đây chắc chúng sẽ đưa nhiều. Chúng muốn lập một phòng tuyến cắt ngang nước ta.

- Nhưng Giải phóng vẫn vào, ra được chứ?

- Vâng. Chả có cách nào ngăn được ta.

- Thôi anh đi, không muộn.

Trọng biết lúc anh đi rồi, mẹ sẽ khóc và bố lại rầy la. Anh thấy trong lòng nao nao.

Nơi xe xuất phát khá đông. Cùng đi một chuyến với Trọng hôm nay còn có một họa sĩ, một anh cán bộ nghiên cứu về công tác tuyên huấn và một cô bộ đội trẻ về phép đi nhờ xe đến Hà Tĩnh. Người nào cũng có gia đình và bạn bè đưa tiễn. Trong số những người lên tới bắt tay Trọng, chúc anh lên đường may mắn, có Diệu Lan. Bộ quân phục Không quân của cô nhắc nhở những hình ảnh đẹp đẽ và thân thiết với anh suốt thời gian qua. Anh nói với cô:

- Chị cho tôi gửi lời chào tất cả các anh, chị tôi đã quen biết trên đó. Nếu chị gặp chị Hảo, chị cũng nói giùm.

Diệu Lan nở một nụ cười nhợt nhạt, rồi lui vào đám đông. Cô biết trong giờ phút này, Trọng còn là của nhiều người khác.

Trọng hôn đứa cháu nhỏ rồi từ biệt cô em gái. Em gái anh không nói được lời nào. Khi anh nhìn cô thì cô nhìn đi chỗ khác. Các bạn bè chen nhau tới bắt tay anh. Anh không còn nhận được ra họ là những ai.

Anh bỗng thấy mình trở thành thân thiết đối với tất cả mọi người. Anh đang được sống những giờ phút đẹp đẽ trong cuộc đời. Từ lúc này, anh đã được coi là người của tiền tuyến.

Khi Trọng đã lên xe rồi, còn nhiều bàn tay chìa qua cửa để nắm lấy tay anh.

Đồng chí lái xe nói với Trọng:

- Phải xuất phát sớm anh ạ. Đêm nay cố qua Bò Lăn.

Trọng không nghe rõ, nhưng cứ gật đầu.

Anh lái xe trẻ nói thật to:

- Rời bệ phóng!

Anh bóp còi để người đưa tiễn rời khỏi xe.

Trọng ngoái đầu ra ngoài cành lá ngụy trang lòa xòa trên cửa sổ, giơ tay vẫy mọi người. Rất nhiều bàn tay đang vẫy theo anh như những cánh bướm.

Hình ảnh những người đưa tiễn lùi xa rất nhanh.

Anh chỉ còn nhìn thấy những chiếc lá sấu nhỏ lăn tăn chạy trên mặt đường, cuốn vào gấm xe rồi mất hút vế phía sau. Đồng chí lái xe vừa nói rất đúng, mình đang rời bệ phóng.

Chiếc xe rẽ ngoặt qua một phố khác, hòa vào dòng xe trên đường, ở đây không còn ai chú ý đến anh. Đấu óc anh thanh thản hơn.

Lúc đó anh mới nhớ đến Vi. Trong lòng anh không hề có một chút hờn giận. Anh không còn là con người của ngày hôm qua. Những thú vui nho nhỏ, những chuyện yêu đương hôm trước chỉ là những hạt sương lóng lánh ánh mặt trời lúc ban mai, tạo cho anh một hương vị dìu dịu lúc lên đường. Trong giờ phút này, đối với anh không còn sự thất vọng, ghen ghét hay giận hờn. Mọi chuyện riêng tư đều trở nên nhẹ nhàng.

Đất nước chỉ còn lại hai miền: phía trước là con đường dài hun hút, dẫn tới Đất thánh với bao nhiêu điều kỳ lạ, đang đón chờ; phía sau, dải đất quê cha, nơi anh đã cất tiếng chào đời, nơi vừa dành cho anh bao nhiêu tình thương yêu lúc ra đi. Có bao giờ anh say mê những con người ở phía trước, cuộc chiến đấu ở phía trước như lúc này. Và cũng chưa bao giờ anh yêu thương cái dải đất đang lùi dần phía sau cùng với cuộc sống và những con người ở đây đến thế.