Chương X ❖ 1 ❖
Trọng và hai người bạn cùng đi đã vượt sông Bến Hải được gần một tuần.
Họ đi suốt ngày giữa những khu rừng trụi lá. Ở đây dường như không còn sự sống. Những sinh vật chính của núi rừng đã bị hóa chất độc loại trừ. Cây cối chết bệnh chỉ còn là những bộ xương khô. Chim chóc và những loài thú rừng đã rời khỏi vùng đất chết. Không nghe thấy cả tiếng côn trùng. Không còn cả tiếng rì rào của lá mỗi khi có gió thổi. Những chiếc lá lìa cành, rải thành lớp dầy trên đường đi, chưa tiêu hủy được hình hài của nó dưới những vũng nước mưa. Lần đầu lội trong những vũng nước này, Trọng có cảm giác khi bước ra khỏi, đôi bàn chân anh sẽ héo úa đi. Cái vẻ bệnh tật của nó khiến cho anh ghê ghê. Nhưng rồi anh cũng quen.
Những trận mưa dầm dề không dứt. Không mấy lúc nhìn thấy vòm trời. Tấm màn mưa giăng phủ bốn phía. Thỉnh thoảng lại xuất hiện một đám mù màu xám, quay cuồng dữ dội, như khói mới từ mặt đất phụt lên.
Nếu không có những loạt đại bác ầm ầm sôi réo dưới chân núi thì Trọng đã tưởng mình đang lạc vào xứ sở của những huyền thoại.
Họ nhìn thấy trên dọc đường những vỏ đồ hộp và mảnh giấy bóng gói kẹo. Quân Mỹ mới rút khỏi đây được ít ngày.
Các chiến sĩ giao liên đã tạo ra con đường này. Người vạch tuyến đường lựa tránh những vùng có dân cư. Những cuộc di chuyển cần được giữ bí mật. Đồng bào miền núi tại địa phương cũng ngại ở gần con đường, vì nó là mục tiêu thu hút những trận ném bom tàn khốc.
Những chiến sĩ giao liên tìm mọi cách giấu kín công trình của mình.
Nhưng cứ sau một thời gian, nó lại bị máy bay địch tìm thấy. Người đi đường mặc dù được dặn dò cẩn thận, vẫn không khỏi có lúc nghĩ rằng mình chỉ qua đây một lần, đã chặt cây làm quang rừng, đun nấu không chịu che đậy, trong khi địch rình rập đêm ngày và rất thính hơi. Mỗi lần đưa một tuyến đường vào sử dụng, người chiến sĩ giao liên đã phải tính ngay đến chuyện chuẩn bị một con đường mới. Địch dồn mãi họ về phía tây. Những con đường làm về sau, chạy lên cao hơn, tuyến đường kéo dài ra, và người đi càng vất vả thêm vì phải vượt qua nhiều đèo cao, dốc đứng.
Gần đây, với việc Mỹ đưa quân ra đường 9 và rải hóa chất độc làm trụi lá, phạm vi mở đường của ta bị thu hẹp lại nhiều. Các chiến sĩ giao liên đã làm xong một con đường mới nhưng thấy quân Mỹ vừa tạm rút, họ lại tiếp tục sử dụng đường cũ. Họ cần dành dụm vốn liếng cho những cuộc chuyển quân quan trọng nghe đâu sẽ bắt đầu khi mùa khô tới.
Người dẫn đường nói cho bọn Trọng yên lòng là kẻ địch sẽ bị bất ngờ khi ta cứ đi theo đường mà chúng đã biết rõ, và thời tiết xấu này là một thứ ngụy trang lý tưởng đối với máy bay.
Thường thường trời sắp tối, họ mới rẽ vào một khu rừng rập rạp không có dấu chân người. Có những lần, chợt nhận ra mình đang đứng dưới một mái nhà, họ mới biết cuộc hành trình trong ngày đã chấm dứt. Bộ đội ở các trạm thường rất ít. Họ không đủ người để tổ chức canh gác. Các trạm giao liên không có gì bảo vệ ngoài cách cố gắng giữ bí mật địa điểm của mình Những người chủ nhà không hỏi họ là ai và từ đâu tới. Họ ăn cơm chiều do trạm nấu, ngủ lại một đêm trên tấm sàn nứa trong căn nhà hầm. Đây là chê độ ưu tiên đối với khách đặc biệt, những đoàn cán bộ ít người. Các đơn vị bộ đội đi đông, phải căng lều, mắc võng nghỉ ngoài rừng và thổi nấu lấy. Sớm hôm sau, họ được đánh thức từ khi còn tối đất, ăn cơm sáng và nhận thêm một nắm cơm trưa. Họ chia tay với người đưa đường bữa trước và lại cùng một chiến sĩ trẻ khác tiếp tục hành trình. Vẫn không có ai nói gì về những khó khăn, nguy hiểm họ có thể gặp trên chặng đường mới.
Sau chặng đường đầu tiên, đồng chí trợ lý tuyên huấn hỏi Trọng và anh họa sĩ là từ khi nhận súng ngắn đã bắn thử lần nào chưa. Anh tròn mắt khi thấy họ đều lắc đầu. Ngay hôm sau, anh đã buộc hai người, anh gọi chung là "các nhà văn nghệ", phải tập bắn vào một bướu cây trên đường đi.
Người dẫn đường tỏ vẻ ngạc nhiên, vì các "thủ trưởng" đều bắn quá kém. Hai viên đạn không để lại chút dấu vết gì trên mục tiêu.
Trọng thấy anh chiến sĩ bỗng đưa mắt nhìn xuống khẩu AK. Có lẽ cậu ấy nghĩ nếu hôm nay gặp bọn biệt kích, thì chỉ còn trông đợi vào khẩu tiểu liên của mình.
Anh bắt đầu hiểu là mình đang ở giữa chiến trường và mình không thể không trở thành chiến sĩ.
❖ 2 ❖Từ lúc rời Hà Nội, giữa ba người đã diễn ra một cuộc thi đua ngầm. Không ai nói với ai nhưng cùng tự bảo sẽ không chịu mang tiếng là hèn nhát trước bom đạn của kẻ thù.
Mỗi đêm đi đường, họ phải vượt qua một vài trọng điểm. Một bến phà, một chiếc cầu, một ngã ba, một đoạn đường lầy mà máy bay địch luôn đánh phá. Đó là không kể bất cứ lúc nào máy bay cũng có thể thả pháo sáng trên đầu, và lao xuống bắn vào chiếc xe nếu chúng nhận ra.
Đồng chí trợ lý tuyên huấn tỏ ra mình là người thông hiểu tình hình và từng trải bom đạn. Anh vốn làm công tác phái viên nên thường phải đi các đơn vị chiến đấu nắm tình hình. Mỗi lần Trọng bàn cách đổi phó với những khó khăn ở phía trước, anh hay nói: "Không có gì đâu!
Cứ đi thôi!". Anh muốn lấy thái độ coi thường sự nguy hiểm, dùng một cách giải quyết đơn giản để làm yên lòng những người bạn văn nghệ cùng đi.
Thái độ của đồng chí trợ lý được anh họa sĩ đồng tình. Anh không thăm hỏi tình hình địch đánh phá ra sao như mọi người thường làm, không tham gia bàn bạc, và còn có vẻ không thích nghe nói đến những chuyện đó. Về sau Trọng mới biết đồng chí họa sĩ rất tin vào sự may rủi. Anh cho rằng tìm hiểu kỹ lưỡng mọi chuyện chỉ làm cho mình thêm bận tâm, lo lắng, ảnh hưởng đến tinh thần phấn chấn trong chuyến đi.
Mặt khác, anh tin là mình luôn luôn gặp may, vì nếu không như vậy anh đã chết từ lâu ngay trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất. "May hơn khôn", đó là triết lý của anh.
Trọng có một cá tính khác với những người cùng đi. Anh hay cả nghĩ. Những chuyện có quan hệ tới cuộc sống của mình, tới thành công của chuyến đi lại không thể làm anh không suy tính. Anh hỏi kỹ cách đánh phá của địch. Anh suy nghĩ, cân nhắc, nêu ý kiến về lựa tuyến đường, chọn giờ xuất phát, chọn thời cơ vượt qua những trọng điểm.
Trọng hơi ngỡ ngàng khi nghe các bạn nói: "người ta đi được thì mình cũng đi được". Lập luận này không phải là không có những cơ sở vững chắc của nó. Trọng cũng cảm thấy có lẽ mình nhút nhát, nên luôn luôn lo lắng, tính toán.
Rồi nhiều trường hợp nguy hiểm đã đến với họ trên dọc đường.
Có những lúc họ cần phải có ngay quyết định để đối phó kịp thời.
Trong lúc có người hót hoảng, Trọng lại tỏ ra bình tĩnh. Ý kiến anh đưa ra lập tức được các bạn đồng tình. Trọng nhận thấy những suy nghĩ trước đó của mình không phải vô ích. Từ đó, những lúc Trọng trao đổi với giao liên để thăm hỏi tình hình hay nêu vấn đề bàn bạc cách đối phó với khó khăn trên dọc đường đã được các bạn chấp nhận.
Mỗi cung đường đưa họ nhích lại gần nhau hơn. Họ bắt đầu cởi mở với nhau và tâm sự cả những điều không nên nói. Mỗi người có một sự thúc đẩy riêng trong chuyến dị.
Đồng chí trợ lý nói mình đã đòi đi chiến trường bằng được vì tự ái.
Ở cơ quan anh, không mấy cán bộ đi nhiều bằng anh. Nơi nào có đánh nhau là anh có mặt. Anh đã chết hụt mấy lần ở Khu Tư. Nhưng anh vẫn bị xếp vào loại chưa có "mác". Trong khi đó, nhiều anh chàng lười đi, xuống đơn vị năng lực phát hiện vấn đề cũng xoàng, nhưng tình cờ được giao công tác vào Nam vài ba tháng để phổ biến một nghị quyết mới của trên, khi về lại được tiếng là người xông pha vì đã có mặt ở chiến trường. Anh phải đi một chuyến thật sâu để kiếm cái "mác" làm ăn lâu dài. Cái "nhãn hiệu" của chiến trường chính là nguồn thúc đẩy anh vượt qua mọi khó khăn của chuyến đi.
Đồng chí họa sĩ có một tâm sự khác. Những năm kháng chiến chống Pháp, anh vẽ cho một tờ báo của đại đoàn và đã trở thành một họa sĩ có tên tuổi. Sau mấy năm hòa bình, anh mới nhận thấy không thể vẽ chỉ với một năng khiếu từ nhỏ. Anh xin đi học vẽ lâu dài, bắt đầu từ lớp trung cấp. Anh đã học tới năm cao đẳng cuối cùng, và đang chuẩn bị làm tranh tốt nghiệp. Các thầy nhận xét nét vẽ của anh quá cứng vì anh học cơ bản muộn. Giữa lúc đó, đơn vị cần có một họa sĩ đi vào Nam. Anh xin đi. Nhà trường quyết định cấp cho anh bằng tốt nghiệp. Một số bạn bè nhận xét tấm bằng này chỉ là sự chiếu cố với người đi xa. Anh từ chối không nhận bằng, và hẹn lúc trở về sẽ nộp một bức tranh không phải chỉ xứng đáng với bằng tốt nghiệp mà còn xứng đáng với nghề nghiệp của mình.
Với Trọng thì lại là nguồn thúc đẩy khác. Cuộc kháng chiến lần thứ hai này mang lại cho anh nhiều suy nghĩ. Anh thấy cần phải có một cuốn tiểu thuyết. Anh nghĩ là mình sẽ không thể hiểu về con người, về cuộc chiến tranh này nếu anh không có mặt ở chiến trường chính.
Dù mình chỉ viết về những chiến sĩ lái máy bay hay những anh bộ binh ở đảo Cồn Cỏ, mình cũng phải đi tới đó. Sẽ không có cuộc chiến tranh trên miến Bắc nếu không có cuộc chiến đấu ở trong kia. Cũng còn những lý do khác thúc đẩy anh, đó là những điều có tính chất đạo lý...
Họ đã tới chiến trường. Con đường phía trước còn rất dài. Họ chưa biết những gì sẽ tiếp tục thử thách họ.
Cuộc thi đua không tuyên bố ngày ngày giữa họ vẫn âm thầm diễn ra.
❖ 3 ❖Người dẫn đường hôm nay là một cán bộ của đường dây.
Buổi sáng, đồng chí trưởng trạm dẫn đến căn nhà hầm của bọn Trọng, một người cao lớn, mặc quần áo bà ba, đầu đội chiếc mũ cứng, tay đeo đồng hồ có đệm một miếng nỉ đỏ. Anh chỉ mang một gùi gạo lớn trên lưng. Trưởng trạm nói:
- Các thủ trưởng đi theo đồng chí tê.
Anh đeo gùi gạo hỏi lại:
- Vũ khí thế nào? Cho mượn khẩu tiểu liên chứ?
- Ba cây súng ngắn của ba thủ trưởng đủ rồi còn chi! Hỏa lực mạnh quá đó! - Trưởng trạm đáp.
Anh đeo gùi gạo ngần ngừ rồi nói với bọn Trọng:
- Thủ trưởng nào cho tôi mượn tạm cây súng.
Trưởng trạm nói thêm:
- Trạm hết người, tiện có đồng chí cán bộ trên đoàn cùng đi vô, chúng tôi nhờ dẫn các đồng chí luôn.
Trọng tháo khẩu súng của mình trao cho anh cán bộ chưa già nhưng đã có những vết rạn chân chim ở đuôi mắt.
Họ đã đi khá xa bờ sông Bến Hải. Rừng phía trong này nhiều quãng chưa bị máy bay thả hóa chất độc. Mây vẫn phủ đầy trời, nhưng không mưa. Con đường nằm dưới vòm cây kín đáo. Từ hôm đi mới được một ngày tạnh ráo. Bớt được tấm ni-lông choàng trên người, ai nấy cảm thấy thoải mái, dễ chịu.
Anh cán bộ ít nói, đeo gùi gạo nặng, trèo dốc băng băng. Từng quãng, anh phải dừng lại, đứng chờ bọn Trọng. Khi mọi người đuổi tới gần, anh lại vùn vụt bước tiếp.
Những ngày gần đây, Trọng đã tạm bỏ thói quen thăm hỏi đường sá và những khó khăn trên cung đường. Người dẫn đường ở các trạm phía trong toàn là những anh lính quá trẻ. Kể ra nếu mình lấy vợ sớm thì con mình cũng gần bằng tuổi họ. Chẳng tiện hỏi họ những chuyện đó khi hàng ngày họ vẫn qua lại trên đường này, và còn gắn bó với nó chưa biết tới bao giờ. Thậm chí có lúc đôi chân đã rất mỏi, Trọng cũng cố kìm không hỏi đường vế trạm còn bao xa.
Không biết có gì trên đoạn đường này mà anh cán bộ đeo gùi gạo khá nặng cứ đi như bị ma đuổi? Trọng và các bạn thỉnh thoảng lại nhìn nhau. Nhưng không ai bảo ai, cả ba người cùng nghiến răng, cố gò lưng đuổi theo người cán bộ.
Cứ mỗi giờ, người cán bộ để họ nghỉ đúng mười phút, rồi lại đi tiếp với tốc độ không thay đổi.
Buổi trưa, trời quang hẳn. Qua kẽ lá, họ nhìn thấy vòm trời cao và xanh. Một mảng biển màu lục hiện ra ở chân trời phía sau những cồn cát trắng mịn mà.
Đồng chí trợ lý tuyên huấn nói:
- Bạn giao liên ơi! Bọn mình “đọa” rồi (anh cố dùng một tiếng địa phương cho vui vẻ). Cho anh em nghỉ chân làm bữa trưa chứ?
Người cán bộ quay lại nhìn họ, vẻ mặt cau có. Đồng chí trợ lý nhạy cảm, cho là mình đã lỡ lời gọi anh là "giao liên", nhoẻn miệng cười, xoa dịu:
- Chỗ này mát mẻ quá, đồng chí ạ.
- Mát chết đấy! Trời nắng rồi, ngồi đây mà ăn B.52!
Nói xong, anh quay đầu đi tiếp.
Bọn họ đành cắm cổ đuổi theo. Anh nói thực hay chỉ dọa? Rừng cây yên tĩnh và đẹp như thế này!...
❖ 4 ❖Thoạt đầu, Trọng nhìn thấy một đám khói đen bùng lên ở khu rừng trước mặt. Những đám khói đen khác liên tiếp phụt lên, chạy xô về phía anh. Những tiếng rít xé không khí ập đến cùng lúc với tiếng nổ mỗi lúc càng lớn. Rồi tai anh điếc đặc, và rừng cây bắt đầu nhảy múa làm mắt anh hoa lên.
Người cán bộ dẫn đường quay lại, nét mặt hoảng hốt, vừa vung tay ra hiệu cho các anh vừa lao người nằm xuống mặt đất.
Trọng chợt hiểu nguy hiểm đang trực tiếp đến với mình. Anh đã lọt vào giữa thảm bom B.52. Anh lao mình ép ngực xuống đất, nhưng thấy đất liên tiếp đẩy mình lên và nghẹt thở. Ánh sáng bỗng chói lòa trên đầu. Trọng ngước mắt nhìn lên, thấy những cây cối ở gần đó vừa bị một lưỡi dao vô hình khổng lồ chém đứt, đang ngả nghiêng đổ xuống. Những hình ảnh đảo lộn dữ dội đó diễn ra không tiếng động, như trong một giấc mơ. Chợt nhận thấy một thân cây lớn đang lừng lững lao tới, anh thét lên, lăn vội đi mấy vòng để tránh cái chết đang tìm đến mình.
Một vật gì cản lại anh. Đó là một tảng đá. Anh đã nằm ở một khe suối. Trọng bò quanh tảng đá định tìm một khe hở nép người vào.
Cũng lúc đó, anh nhìn thấy hai bạn đồng đội ở không xa. Đồng chí trợ lý chúi đầu vào một hốc cây. Có lẽ anh ta nghĩ chủ yếu là phải bảo vệ lấy cái đầu. Còn đồng chí họa sĩ thì nép mình dưới một hòn đá cheo leo bên sườn dốc. Cậu ta chắc chắn sẽ chết bẹp nếu hòn đá vì chấn động của bom mà tách khỏi sườn núi lăn xuống.
Cả khu rừng chung quanh Trọng đang bốc khói. Nhìn khắp nơi, chỗ nào cũng thấy cây đổ. Không biết cái thân cây ban nãy đã bay đến chỗ Trọng giờ nằm ở đâu!
Trên trời vẫn còn những dải khói dài của máy bay B.52 để lại.
Anh không hiểu tại sao mình và các bạn lại có thể nhanh đến như thế, lao từ trên kia xuống đây. Họ đã làm những động tác mà lúc bình thường không bao giờ họ làm được.
Rồi anh nhận thấy không phải bom chỉ rơi trên dốc mà còn có nhiều trái rơi dọc con suối này. Biết đâu chính dòng suối lại là mục tiêu chính của trận ném bom...?
Trọng chợt nhớ đến người cán bộ dẫn đường. Anh ấy sổng hay chết? Anh ấy còn ở trên đó hay đi đâu rồi?... Nếu không gặp lại anh thì cuộc hành trình hôm nay tiếp tục ra sao...? Đường đi chắc đã bị trận bom xóa mất rồi! Và nếu tìm ra đường, họ sẽ đi đến đâu? Bọn địch ở cách đây không xa. Điều anh vẫn thường lo ngại từ khi sang bờ Nam này đã xảy ra.
Chợt nghe có tiếng người ở xa xa. Trọng nhỏm dậy nhìn lên dốc.
Tiếng gọi từ trên đó vọng xuống. Đã nghe đúng tiếng anh cán bộ:
- Các đồng chí ơi...! Ba ông đi đâu rồi...?
Anh cán bộ đang gào mỗi lúc một to. Cùng lúc, cả ba người đều lên tiếng:
- Đây rồi! Chúng tôi đang ở đây...
- Ba ông ở cả dưới đó phải không? - Giọng người cán bộ mừng rỡ.
- Cả ba chúng tôi ở đây - Đồng chí họa sĩ có tiếng nói to trả lời.
- Có ai việc gì không?
- Không ai việc gì cả.
Người cán bộ như vừa thở phào. Anh im lặng một lúc, rồi lại đổi giọng:
- Lên nhanh! Đi thôi!... Không thoát ly nhanh, nó đến đợt nữa chết cả nút bây giờ!
Ba người vội rời chỗ ẩn náu, chạy lên dốc. Họ không hiểu tại sao lúc xuống đây nhanh như vậy mà bây giờ đi mãi không lên tới nơi.
Vừa nhìn thấy họ, anh cán bộ hấp tấp nói ngay:
- Chạy! Nó sắp tới đợt hai...
Lần này, anh chạy thật.
Cả bọn Trọng cắm cổ đuổi theo. Những thân cây, cành cây bết đầy đất đá, đổ ngang đường cản họ lại. Có những trái bom đã nổ ngay trên mặt đường buộc họ phải đi vòng. Họ đánh vật với tất cả những gì đang muốn níu áo, níu ba- lô họ lại. Lúc chồm lên, lúc luồn qua dưới những thân cây. Ai nấy như có lửa đốt trong người. Mỗi phút ở giữa thảm bom kéo dài như một thế kỷ. Họ sợ B.52 lại kéo tới. Họ sợ mất liên lạc với người dẫn đường, vì như vậy cũng nguy hiểm không kém.
Không một ai nhớ là trước trận bom đôi chân mình đã mỏi, bụng đã đói cần được ăn...
Cuối cùng, họ đã đến rừng cây xanh.
Họ muốn dừng lại, nhưng anh cán bộ dẫn đường vẫn tiếp tục chạy. Họ nhớ lại lời anh nói, những khu rừng còn xanh tốt thế này chính là nơi B.52 thường tới thả bom. Họ lại cố bám theo anh.
Đến lúc tới được khu rừng trụi lá, mọi người đều mệt tưởng như đứt hơi.
- Nghỉ!
Người dẫn đường ra lệnh. Anh ngồi xuống tảng đá cạnh đường, bỏ gùi gạo nặng, cầm chiếc mũ cứng quạt vào bộ mặt đỏ gay, bết bụi đỏ và mồ hôi.
Họ bắt đầu nhìn nhau.
Đông chí trợ lý đầu không mũ, một ống quần bị xé toạc làm hai.
Mọi vật trên người đồng chí họa sĩ đều nhuốm màu đất đỏ. Anh nhìn xuống bàn chân, rồi kêu lên:
- Gay quá! Tôi mất dép rồi!
Nhưng anh không mất dép. Điều lạ lùng là không hiểu đôi dép cao-su đen đó đã bằng cách nào, từ đôi bàn chân, qua cẳng chân, bò lên bám chắc quanh vế đùi trên to lớn của anh.
Trọng cũng nhận thấy chiếc bi-đông nước đeo ở thắt lưng không còn, và một ống tay áo của anh bị rách. Nếu bây giờ có tấm gương soi, anh sẽ thấy mình cũng kỳ dị không kém gì các bạn.
Họ cố nuốt cho xong nắm cơm lạo xạo đất và sạn. Nắm cơm nguội lạnh vào tới dạ dày làm cho họ rét run. Anh cán bộ lại giục lên đường.
Trên đoạn đường này, anh đi chậm vừa đi vừa nói chuyện.
- Vừa rồi các thủ trưởng làm tôi lo chết cha! Nếu chẳng may bị mất một hai "cụ" thì tối nay về trạm không biết ăn nói thế nào!...
Lúc này, anh mới hỏi tên ba người và họ công tác ở đâu. Thảo nào ban nãy, họ cứ nghe anh gọi mãi: "Ba ông đâu?". Họ không ngờ người cán bộ có thái độ dửng dưng này tưởng như rất dễ bỏ rơi họ dọc đường, lại gắn bó với họ đến như vậy.
Ở đoạn đường đi tiếp. Trọng bỗng cảm thấy người nhẹ lâng lâng.
Anh có một niềm vui mới. Không phải chỉ vì anh vừa thoát khỏi một trận B.52 rải thảm khủng khiếp. Nhưng anh đã hiểu cái bóng ma ghê gớm ở miền Nam này, suốt những ngày qua vẫn đe dọa anh, cũng chỉ là như vậy. Anh thấy mình đã hành động đúng khi lăn mấy vòng để tránh cái cây bị bom phát quang chém đứt, nhằm chỗ mình lao tới.
Anh phân vân không hiểu hành động của đồng chí dẫn đường bắt mọi người cắm đầu chạy ra khỏi bãi bom là đúng hay sai? Anh cho rằng nếu B.52 lại đến ném bom, làm như vậy họ sẽ bị nguy hiểm. Anh nghĩ trong trường hợp này, nơi tương đối an toàn là xuống ngồi giữa một hố bom, chờ cho đến khi biết là trận oanh tạc đã chấm dứt, hãy tìm cách rời khỏi khu rừng. Anh tự bảo: "Nếu lần sau lại gặp trường hợp này, chắc là mình sẽ đỡ hoảng hốt và biết cách đối phó tốt hơn".
Trọng nhìn các bạn thấy họ cũng có vẻ vui hơn mấy ngày trước khi không có chuyện gì xảy ra trên dọc đường.