← Quay lại trang sách

Chương XI ❖ 1 ❖

Giờ phút khoan khoái nhất trong những ngày đi đường là lúc họ đã gột hết lớp bùn đất trên người ở một khe suối, treo chiếc võng trong căn nhà hầm của trạm, nằm cong người trên võng sạch sẽ, đốt một điếu thuốc chờ đến bữa ăn. Không có những cung đường nào con người vượt qua trên trái đất này lại quý giá như những cung đường trên dải Trường Sơn trong những năm đánh Mỹ. Vì mỗi cung đường đó là thước đo sức khỏe, nghị lực của con người. Và nhất là, nó được đo bằng cái sống và cái chết. Mỗi ngày, họ vượt qua thêm một cửa ải của bom đạn. Mỗi ngày, họ lại nhận thấy số phận hôm nay vẫn dành cho mình những điếu may mắn. Mỗi ngày, họ lại thấy mình đã dấn thêm được một bước trên đường đi tới đích. Mỗi ngày, họ lại thấy con người mình đã lớn thêm lên.

Trọng đã hút đến điếu thuốc thứ hai. Từ ngày qua bờ Nam, mỗi lần anh chỉ hút nửa điếu khi thật thèm. Dự trữ thuốc lá của họ gần cạn. Anh đã phải tập hút thứ thuốc lá sừng bò của địa phương. Hôm nay, Trọng buông thả mình, hoang phí một chút, vì anh đã đặt chân trên đất Thừa Thiên. Anh nghĩ tới một ngày hòa bình nào đó, mình sẽ có mặt ở thành phố Huế, đứng bên bờ sông Hương, ngắm những cô gái mặc áo tím đi trên cầu Tràng Tiền, và nghe những tiếng hò vang trên dòng sông. Những giây phút ấy sẽ có ý nghĩa thêm bội phần vì trong những năm chiến tranh anh đã qua đất Thừa Thiên trên đỉnh Trường Sơn này.

Đồng chí họa sĩ lại quay sang nhìn anh. Nụ cười anh lóe sáng giữa bộ râu đen trong căn nhà sắp tràn đầy bóng tối. Anh thì thầm với Trọng:

- Nhớ vợ quá ông ạ!

Không biết đây là lần thứ mấy anh tâm sự với Trọng điều này.

Trọng chưa có vợ. Chuyện tình duyên của anh đã chấm dứt. Anh không có cô gái nào trên miền Bắc để nhớ để thương. Những năm còn trẻ, đã có lần anh yêu một người bạn học. Ngày đó, anh nghĩ rằng mình có thể đổi tất cả hạnh phúc trên cõi đời này để có được cô. Chỉ cần thoáng thấy cô, là đầu óc anh bối rối. Nhưng tình yêu của anh không được đáp lại. Cô gái đi lấy chồng. Một thời gian dài, anh quên cả tình yêu. Đến những năm gần đây, anh nghĩ đã đến lúc cần lập gia đình. Nhưng anh bắt đầu có sự,tính toán, cân nhắc những cô gái mà anh có ý định lựa chọn. Đó là vì tuổi tác hay là vì tình yêu trong người anh đã khô héo đi? Và như vậy có phải cũng là một sự thiệt thòi cho anh trong chuyến đi này...?

Đồng chí họa sĩ lại hỏi:

- Có thật đúng là ông không có người yêu?

- Đúng như vậy.

- Lạ thật!... Vậy thì ông chưa thể hiểu như thế nào là tình vợ chồng!

Trọng im lặng. Nhưng anh nghĩ là người bạn mình nói không sai.

- Ồng có hiểu không, - người bạn nói - khi yêu người ta mất đi một ít nhưng lại thu về được một ít. Ông nghèo đi thứ này nhưng ông lại giàu thêm thứ kia. Theo tôi, thì được nhiều hơn mất. Người vợ là thế nào, ông có biết không..., là một cái gì không bao giờ rời khỏi tư tưởng, tình cảm của mình. Mình đi đâu hình như cũng thấy cô ấy đi theo, không rời nửa bước...

Anh ấy có nói quá không, đó có phải là trường hợp của tất cả các cặp vợ chồng không, Trọng tự hỏi. Anh vẫn nằm im nghe bạn nói.

- Tất nhiên là lấy nhau lâu ngày, có con cái, những khó khăn trong gia đình đôi lúc lấn át đi, cũng phải cãi cọ, cũng phải giận dỗi nhau... Nếu vợ chồng cứ sống gần nhau thì cũng cần có những lúc phải giận nhau ông ạ. Có giận nhau như thế mới giữ được tình yêu. Ông chưa hiểu cái giận nhau của vợ chồng. Không giống như ông và tôi giận nhau đâu! Sau mỗi lần giận nhau, lại càng thương yêu nhau hơn... Ở gần nhau luôn, tình yêu cũng có giảm đi. Nhưng xa nhau như thế này thì nó sống trở lại, mãnh liệt như những ngày đầu.

Mắt đồng chí họa sĩ lơ mơ theo làn khói. Anh nói như chỉ để mình nghe. Anh bỗng lại quay sang Trọng với cặp mắt hóm hỉnh:

- Chắc mỗi lần gặp đàn bà, con gái, ông vẫn còn hay lúng túng, bối rối lắm thì phải?

- Cũng có như vậy. - Trọng thú nhận.

- Như vậy là ông ít tiếp xúc với đàn bà. Khi nào ông đã tiếp xúc nhiều, lúc gần phụ nữ ông sẽ cảm thấy bình thường.

Rồi anh nói với Trọng bằng giọng ái ngại:

- Về chuyến này, ông cố kiếm một cô người yêu đi... Tôi thương ông đấy! Ông có người vợ bên cạnh thì sống giữa rừng, giữa sa mạc hay giữa đài nguyên, vẫn cảm thấy đầm ấm. Còn khi ông chỉ có một mình... thì ở ngay giữa thủ đô ông vẫn cứ cô đơn.

Đồng chí trợ lý cầm trong tay bộ quần áo lót mới giặt, đi vào.

Cặp mắt to và cái miệng có một chiếc răng răng viền vàng đều cười.

- Mình vừa xuống chỗ anh nuôi xong. Hôm nay có đại tiệc các bạn ạ.

- Chu cha! - Đồng chí họa sĩ kêu lên với giọng hài hước, rồi hỏi tiếp - Có thêm hộp thịt lợn chăng?

Bữa nào cũng ăn toàn rau rừng, nghe nói đến thịt, Trọng bỗng thấy nước miếng ứa ra chân răng.

- Thịt hộp thì đi đến đâu!... Đồng chí trạm trưởng vừa ra soát mấy cái bẫy đặt ngoài rừng, vớ ngay một lúc, một con sóc và một con chim rừng sập bẫy. Tối nay, bác ấy sẽ cho mình ăn món chim xáo và sóc rang.

Cặp mắt của họ đều sáng lên.

❖ 2 ❖

Bữa "đại tiệc" không diễn ra như họ chờ đợi. Con chim rừng, chắc là quá nhỏ, mất biến đi giữa chảo canh lớn đầy "môn thục" và "tai nai". Khách đông, món thịt sóc rang, mặc dù đã được chặt rất nhỏ, mỗi người mới gắp một lần đã hết.

Sau bữa cơm, ai nấy vẫn thấy người nhẹ lâng lâng.

Họ lên võng nằm, và buông màn. Từ hôm nghe nói ở dọc đường có nhiều ổ sốt rét ác tính, ba người bảo nhau hết sức đề phòng muỗi rừng.

Anh trợ lý như cảm thấy có lỗi vì đã làm các bạn chờ đợi hụt. Anh nói:

- Bao giờ về Thủ đô, mình sẽ đền hai bạn vài bữa cơm rượu. Tôi sẽ tự đi chợ và nấu nướng cho các bạn ăn. Khiêm tốn mà nói, nếu được phân công làm nghề nấu nướng, mình có thể trở thành một người bếp giỏi. Chỉ cần xin vợ năm đồng, tôi và hai bạn sẽ có một bữa cơm rượu đàng hoàng.

- Năm đồng hay năm chục? - Đồng chí họa sĩ hỏi lại.

- Năm đồng có nghĩa là ba đồng cộng với hai đồng.

- Nói trạng! Với năm đồng bạc, ông có làm nghề vẽ như tôi thì mới thành một bữa cơm rượu đàng hoàng... Ông phải mất hai đồng rượu rồi, còn lại ba đồng, ông mua cái gì? Với giá tự do, ông không mua nổi nửa con gà!

- Đúng như vậy! Biết đặt câu hỏi đó, là ông nắm vững vấn đề. Đã gọi là cơm rượu, thì không thể thiếu rượu. Đã có rượu, nhất thiết phải đi kèm món nhắm. Và khi rượu xong, phải tiếp theo cái món gì cho êm, cho dã rượu... Có đúng thế không ông?

- Đúng!

- Bây giờ tôi sẽ giải phương trình bài toán khó đó cho hai bạn.

Hóc búa đấy! Các bạn chịu cả rồi phải không?

- Ông cứ nói đi! - Anh họa sĩ còn phân vân, cho đây là một cách đố mẹo.

Bác Thắng, người cán bộ lớn tuổi đã nhập bọn vói họ từ khi vượt sông Ba Lòng, lúc này đang nằm bên lắng nghe câu chuyện của họ cũng lên tiếng:

- Tôi làm nghề hậu cần khá lâu rồi. Với năm đồng bạc ở giữa Thủ đô mà anh giải quyết được một bữa cơm rượu thì tôi chịu tài. Tôi cho là ít ra, chị ấy ở nhà cũng phải bí mật phụ vào cho anh thêm hai chục...

Trọng và đồng chí họa sĩ đều phì cười.

- Không. - Đồng chí trợ lý nói to để át đi những tiếng cười - không có bàn bay bí mật nào! Tôi sẽ làm tài chính công khai đàng hoàng. Đồng chí chủ nhiệm hậu cần (anh chưa rõ chức vụ của bác Thắng, nhưng cứ tố lên như vậy) sẽ dùng chuyên môn kiểm tra cho...

Tôi sẽ mua đồng rưỡi rượu. Rượu quốc doanh, như vậy cũng không quá ít. Còn lại ba đồng rưỡi. Tôi ra chợ mua ba lạng thịt lợn, loại thịt có cả nạc và mỡ, vì thiếu tí mỡ thì không giải quyết được các món khác.

Tôi phải chi tiếp một đồng. Còn lại hai đồng rưỡi. Phải để ra năm hào mua rau và các món gia vị như vậy chỉ còn hai đồng. Với hai đồng, tôi không thể mua một con cá ngon, nhưng có thể kiếm được một cái đầu cá to. Như vậy là tôi đã có đủ rượu, thịt, cá để mời các bạn. Bây giờ tới nghệ thuật sử dụng các chất liệu (anh quay sang đồng chí họa sĩ) như cách anh bạn thường nói... Chỗ thịt nạc, tôi sẽ băm ra làm một ít chả xương sông. Nhắm rượu với chả xương sông, được đấy chứ, phải không các bạn? Tôi sẽ lạng từ cái đầu cá ra hai khúc, mỡ có rồi, rán luôn. Thế là có thêm một đĩa cá rán ngon lành. Có chả xương sông, cá rán, kèm thêm ít hột lạc rang, như vậy không đến nỗi thiếu món nhắm. Với cái đầu cá to, tôi sẽ làm một bát canh chua, phải là ngon tuyệt! Vừa rối các bạn còn chưa hỏi tiền mua gạo nấu cơm lấy ra ở đâu? Tất nhiên, cũng phải nằm trong số năm đồng này. Nhưng "nhậu"

xong, mà lại ăn cơm thì chán quá! Tôi sẽ chắt từ nổi cá ra một bát canh, cho thêm chanh, ớt để mời các bạn, rồi đổ thêm nước sôi vào nổi, ninh thật nhừ cái đầu cá, và cho vào đó một nhúm gạo. Thế là sau khi dùng hết rượu, thịt, cá, mình sẽ hậu tiếp hai ông bạn quý những bát cháo cá thật ngon, không để khách phải lửng dạ khi ra về...

- Chịu thầy... - Đông chí họa sĩ thán phục ra mặt.

Tất cả người nghe đều phải mỉm cười.

Bữa tiệc phụ này rõ ràng cũng đem lại hào hứng không kém bữa tiệc chính chiều nay.

❖ 3 ❖

Những hạt mưa nhỏ rơi nhè nhẹ, đều đều trên mái lá. Thỉnh thoảng lại có từng loạt tiếng rào rào, tưởng như trời đổ mưa to, nhưng đó chỉ là gió làm rót nhưng giọt nước mưa đọng trên lá cây. Những trận mưa kéo dài suốt ngày này sang ngày khác làm cho Trọng cảm thấy tất cả núi rừng lúc này đều tan thành hơi nước.

Nhiều nhà địa chất đã ngạc nhiên về cấu tạo của thiên nhiên tại đây. Một dãy núi cao sừng sững chạy dài gần một ngàn ki-lô-mét dọc theo một bờ biển nhỏ hẹp. Tại sao sườn dốc núi gần như dựng đứng này lại không trở thành hoang mạc? Người ta đã tìm ra nguyên nhân, đó là nhờ có gió mùa. Gió mùa hàng năm đưa một lượng nước lớn từ biển vào. Nhưng không phải riêng nước mưa đã giữ gìn được sự sổng cho vùng đất này. Mà còn nhờ có cây cối. Cây rừng đã giữ nước lại, nuôi sống cho mình và nuôi sống cho đất. Đất núi cũng như đất trên dải đồng bằng nhỏ hẹp.

Những người đang bực bội vì mưa gió sẽ gây trở ngại cho chặng đường đi ngày mai có ai nghĩ là chính gió và mưa đã nuôi sống dải đất này?

Với việc Mỹ đưa quân vào, bộ đội ta dường như chỉ còn làm chủ có dãy Trường Sơn. Tối nay, bác Thắng vừa nhắc lại với Trọng lời một đồng chí lãnh đạo: "Có Trường Sơn là có tất cả!" Bác tin rằng dù Mỹ có đưa quân vào nhiều bao nhiêu nữa, chúng ta vẫn cứ làm chủ dải Trường Sơn. Bác nhận xét: "Đất này chỉ có những người Việt Nam cách mạng như mình mới sống nổi!". Câu đó vừa nói lên những gian khổ ghê gớm mà mọi người phải chịu đựng trên đỉnh núi cao này, vừa nói lên niềm tự hào.

Mỗi người Trọng gặp ở đây đều góp phần khuyến khích các anh trong chuyến đi. Và phải chăng, chính các anh cũng mang lại cho họ một sự cổ vũ...?

Trọng nằm nghĩ vẩn vơ về câu chuyên tình yêu đồng chí họa sĩ đã nói với anh. Ở ngoài đó, lúc này những ai đang nghĩ tới mình, anh tự hỏi. Vi? Có thể cô ấy còn đôi chút ân hận về thái độ đối với mình.

Cả cô ấy và mình đều đã hành động theo lý trí. Cô ấy không nhớ mình nữa đâu! Và mình cũng không nên oán trách cô. Mình nhiều lúc đã quên cô. Như vậy, mình không thực yêu cô ấy... Mẹ mình?... Chắc chắn rồi. Bà cụ đang lo lắng lắm đây... Cha mình? Điều đó cũng rất rõ ràng. Anh nhớ lại thái độ gan góc của cụ trước khi anh lên đường. Cụ đã lấy hết gân sức của tuổi già để làm việc đó... Em gái mình? Nó rất thương mình, nhưng nó cũng có chồng đi xa, nó còn bận bịu con cái...

Anh còn những người bạn tuy mới quen nhưng khá thân thiết trên sân bay? Nhưng họ có bao nhiêu chuyện phải lo toan trong cuộc chiến đấu hàng ngày, cái chết lúc nào cũng gần họ trong gang tấc. Không chắc lúc này có ai nghĩ đến anh...

Trong ký ức của anh, chợt lóe lên ánh mắt của một cô gái. Đó là cái nhìn của Hảo trong buổi anh ra tiễn cô ở sân ga. Ngày hôm đó, anh chưa phải là người ra đi. Người lên đường rời Hà Nội bữa ấy là cô.

Nhưng cô đã biết, cô chẳng còn dịp gặp lại anh trước ngày anh lên đường. Cái nhìn của cô nói rõ điều đó. Cái nhìn pha trộn một chút luyến tiếc, một chút buồn rầu và cả những lo lắng... Cô ấy sẽ có những phút nghĩ tới mình, vì mình đã có mặt trong tình yêu của cô ấy với Quỳnh. Cô ấy cũng sẽ lo lắng vì những khó khăn nguy hiểm mà mình chắc chắn sẽ phải đương đầu trên dọc đường. Có đúng hay không?

Anh tin là đúng. Anh bỗng cảm thấy mình vừa được an ủi, vừa có những giây phút dịu dàng...

❖ 4 ❖

Những tiếng nhạc vang lên nho nhỏ. Trọng nhận ngay ra đó là nhạc hiệu của Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam.

Bác Thắng đem theo một chiếc đài bán dẫn. Đây là buổi phát tin cuối cùng trong ngày. Bác vặn rất nhỏ để khỏi làm thức giấc những người đang ngủ.

Trọng như vừa gặp lại một người quen thân. Chiếc đài bán dẫn anh mang theo bị hỏng ngay từ trận bom họ gặp đầu tiên. Trọng đã nhờ đồng chí lái xe đem trở về Bắc. Từ ngày đi, khổ nhất là mù tịt tin tức. Trước đây, làm việc ở tòa báo, anh thường nhận được những tin tức mới hàng giờ.

Cô phát thanh viên bắt đầu giới thiệu tóm tắt bản tin.

Trọng bỗng thấy có một luồng điện giật... Ngày hôm nay Hà Nội bị máy bay Mỹ ném bom!

Cùng lúc, đồng chí trợ lý và đồng chí họa sĩ nằm bên anh, đều nói:

- To lên bác!

Mọi người vẫn chưa ngủ.

Bác Thắng dường như cũng bị đột ngột vì tin này, im lặng mở cho tiếng loa phát to hơn.

Trưa hôm nay, địch đã đánh vào Hà Nội. Trận oanh tạc có vẻ lớn.

Chúng ném bom và bắn rốc-két vào một loạt mục tiêu được kể rõ tên: các phổ Nguyễn Thiệp, Giảng Võ, Phúc Tân, Nam Đồng, Hàng Chuối, khu đại sứ quán, các nhà ga Yên Viên, Gia Lâm, Văn Điển.

Giọng nói của đồng chí phát thanh viên như hừng hực hơi lửa của bom đạn.

Những người nằm đó đều lặng đi. Trọng không biết những tin tức sau đó là gì. Anh đoán ắt hẳn có nhiều người chết và bị thương. Hôm các anh ra đi, Hà Nội vẫn đông nghịt người. Trong óc anh hiện ra cảnh tàn phá trên những đường phố của Thủ đô, những đường phố xanh rợp bóng cây, những ngôi nhà kiểu biệt thự nhỏ ở phố Hàng Chuối, những mái nhà cũ rêu phong phố Nguyễn Thiệp...

Đồng chí trợ lý lẩm bẩm:

- Nhà tôi ở khu tập thể Nam Đồng... Buổi trưa, đúng là giờ vợ tôi đi làm về.

Anh họa sĩ cũng lầm rầm:

- Nhà tôi ở phố Hàng Bột nhưng vợ tôi đi làm về thường qua khu sứ quán!

Những người thân của Trọng không ở trong những khu phố bị ném bom. Nhưng ai dám tin vào lúc đó họ đều ở nhà!...

Bác Thắng tắt đài. Rồi bác nói:

- Ở Hà Nội thì bom đạn rơi vào đâu mà không có người! Gay nhất là nhà ga...

- Gia đình bác cũng ở Hà Nội? - Trọng hỏi.

- Không, gia đình tôi ở Nam Định. Nam Định bị máy bay Mỹ đánh phá từ lâu rồi... Nhưng các anh ạ..., nó ném bom vào Hà Nội, mình vẫn thấy xót xa hơn!

Đối với những người vào trạc tuổi Trọng, Hà Nội đã gắn sâu vào tình cảm với những bước chuyển mình của lịch sử dân tộc trong cách mạng. Đó là ngày cậu học sinh mới lần đầu được thét vang những tiếng "Việt Nam độc lập!" đi trong làn sóng người cuồn cuộn trên đường phố đỏ rực cờ sao, đẩy lùi những chiếc lưỡi lê của phát xít Nhật.

Những ngày anh tự vệ đeo khăn quàng đỏ “Quyết tử”, đứng sau chiến lũy ở đầu phố, trái lựu đạn và chai ét-xăng crếp trong tay, chờ những tên lính Pháp mũ đỏ và những chiếc xe tăng tiến lại gần... Đó là những đêm rét run người, nằm dưới mái lán lợp lá chuối giữa rừng già Việt Bắc, mơ trở về Thủ đô, đứng bên một cây liễu rủ, nhìn chiếc xe điện màu cánh cam lanh canh chạy quanh Bờ Hồ... Đó là những ngày mùa thu tuyệt đẹp sau chiến thắng Điện Biên Phủ, trở về giải phóng Thủ đô, anh bộ đội mở to mắt nhìn trong rừng người mang hoa ra đón trên các đường phố thân yêu như thu nhỏ lại, xem có thấy bóng một người quen... Rồi những ngày lao động vui tươi xây dựng công viên Thống Nhất, những đêm đón giao thừa ở những vườn đào sực nức khói pháo quanh Hồ Gươm, những buổi hào hứng theo dõi một trận đấu bóng sôi nổi trên sân Hàng Đẫy... Hà Nội trong lành và êm ả với những đoàn xe đạp nối dài trên đường phố, những người chủ mới, những người lao động, ai ai cũng là anh em, chị em. Hà Nội của những ngày thu Quốc khánh, trên lễ đài của quảng trường Ba Đình lịch sử, Bác Hồ mỗi năm râu dài tóc bạc thêm, ân cần trò chuyện với đàn con cháu của Người.

Phải chăng mỗi người đi đây đều tình nguyện chịu hứng phần bom đạn để cho kẻ thù không đụng đến trái tim của Tổ quốc!

Trái tim của cả nước đã bị tổn thương.

Trái tim của mỗi người ở nơi xa Thủ đô này đều bị tổn thương...

Mỗi người nằm thao thức với những ý nghĩ riêng về trận ném bom.

Rỗi bác Thắng lại lên tiếng:

- Tháng Mười vừa rồi, Hội đồng tham mưu liên quân Mỹ yêu cầu Johnson không coi Hà Nội, Hải Phòng là những Đất thánh... Hôm nay, chúng đã bắt đầu.

Với cái đài mang theo, chắc bác vẫn bám sát các tin tức mới.

Bác nói tiếp:

- Rồi đây nó còn ép Thủ đô ta mạnh hơn. Nó biết trước năm bầu cử tổng thống thế nào mình cũng làm một cái gì ở trong này.

Bác hạ giọng thì thầm:

- Chúng tôi đang chuẩn bị tiếp nhận một khối lượng hàng rất lớn.

Chắc "đại quân" sắp vào... Tôi mới nhận được thư báo tin thằng nhỏ ở nhà tôi bỏ học xin đi bộ đội rồi...

Ở ngoài kia, Trọng chỉ được nghe câu "ngày Bắc đêm Nam". Bây giờ ở nửa phía nam, anh lại thấy thêm những con người "ngày Nam đêm Bắc".

5 Tối nay, bác Thắng được trạm bố trí ở nhà bên, bọn Trọng cố mời bằng được bác sang ở chung. Họ mến bác vì thái độ giản dị và sự am hiểu tình hình địa phương. Họ còn rất mê cái đài của bác.

Đồng chí trợ lý nói chuyện với bác Thắng về tình hình thời sự trong nước và quốc tế. Thoạt đầu, anh nói một cách đơn giản. Nhưng sau một số câu hỏi của bác, anh phải dốc ra khá nhiều vốn liếng hiểu biết của mình. Thỉnh thoảng, bác lại nói thêm những tin tức mới mà anh chưa biết. Đồng chí trợ lý bắt đầu hiểu thêm về người đang nằm nói chuyện với mình. Cuối cùnganh quay lại hỏi bác:

- Đồng chí ở miền Nam lâu, tôi xin hỏi ý kiến riêng đồng chí, nếu năm tới Mỹ lại tăng thêm độ hai chục vạn quân nữa thì tình hình rồi sẽ ra thế nào?

Không trả lời thẳng vào câu hỏi của anh, bác đáp:

- Tôi nghĩ cách mạng ở miền Nam này trước tiên là vấn đề đạo lý. Không thể làm nô lệ, không thể để đất nước mãi mãi chia cắt, thì phải đứng lên mà tranh đấu, mà đánh lại chúng. Cũng chưa biết cuộc chiến tranh sẽ diễn biến ra sao, phải đánh theo lý luận nào thì thắng! Chúng vào hai chục, tưởng đã là nhiều, đánh hay lùi? Đánh! Vì thua nên chúng phải vào thêm. Không thể lùi, lại phải tiếp tục đánh. Nếu chúng vào thêm nữa vì chúng lại thua, thì ta lại phải đánh tiếp. Nếu đánh vài năm không được, phải đánh thêm nhiều năm. Bác Hồ nói: "mười năm, hai mươi năm". Vì đây là vấn đề đạo lý... Còn đánh giặc cách nào... thì cũng như chúng mình đi trên Trường Sơn này, đường không có thì cùng nhau mở đường mà đi...

Bác Thắng mở đài sớm hơn nửa giờ để nghe buổi phát thanh quân đội.

Một đơn vị Quân Giải phóng nguyện đánh địch ở miền Nam mạnh hơn nữa để trả thù cho những đồng bào bị hy sinh trong trận máy bay Mỹ ném bom vào Thủ đô.

Ngày hôm nay, không quân ta đã đánh thắng một trận mới trên bầu trời miền Bắc.

Tin này có kèm theo băng ghi âm lời một chiến sĩ lái máy bay.

Từ chiếc loa nhỏ vang lên một giọng nói quen thuộc. Mới nghe câu mở đầu, Trọng đã nhận ngay ra giọng cậu ta: "Với chúng tôi, bọn F.4 này không phải là xa lạ. Đó là những tên kẻ cắp rất nham hiểm mà chúng tôi đã nhiều lần gặp trên chợ trời..." Cậu ta vẫn dùng tiếp cái giọng thật thà, vui vẻ, đượm chút văn hoa, kể lại trận đánh. Cái tỉnh táo, khôn ngoan của cậu ta là sau khi nghe kể chuyện, mọi người vẫn không hiểu cậu ta đánh địch theo cách nào, đã hạ nó bằng súng hay bằng tên lửa... Nhưng chỉ riêng giọng nói đó đã làm cho Trọng yên tâm một phần. Máy bay ta vẫn cất cánh. Những người lái vẫn bình tĩnh, vui vẻ. Không phải kẻ thù đang uy hiếp ta, mà chúng vẫn phải rút chạy trước không quân ta. Trận đánh của máy bay địch vào Thủ đô đã không làm cho mọi người xao xuyến.

- Ai nói thế, bạn Trọng?- Anh trợ lý tuyên huấn hỏi.

- Cậu Hoa.

- Hoa trước đây đã hạ một Con ma trong trận đánh cùng với Đông phải không?

- Cậu ấy đấy!

- Cậu này chắc hay tán.

- Tán kiểu nông dân, nhưng tán giỏi.

- Chồng Diệu Lan phải không?

- Đích thị rồi!

- Thế là ông lại bỏ lỡ một đề tài... - Đồng chí trợ lý có vẻ tiếc cho Trọng.

Sau khi tắt đài, bác Thắng quay sang hỏi Trọng:

- Anh đi lại trên sân bay nhiều, có biết Quỳnh không?

- Biết quá! Bác cũng biết Quỳnh? - Trọng hấp tấp hỏi lại - Cậu ấy quê ở trong này.

- Tôi chưa gặp Quỳnh bao giờ, mặc dù anh ấy là người nhà.

Trọng chợt nhớ ra bác Thắng đã nói gia đình quê ở Nam Định.

- Vậy bác là...

- Tôi là bố vợ tương lai của Quỳnh. Con gái tôi đã viết thư báo tin cho tôi. Nhưng đó vẫn là chuyện nằm trong tương lai. Đang chiến tranh, với những chiến sĩ lái máy bay biết thế nào!... Nhưng tỏi rất mong có một con rể là phi công. Tôi yêu các cậu ấy quá!

- Bác là bác Tiến?

- Sao anh lại biết tên tôi? - Đến lượt người nói chuyện với Trọng ngạc nhiên.

- Nếu bác xưng danh là Tiến thì tôi nhận ra bác từ lâu rồi!

- Thắng là tên đứa con út của tôi. Ở đây, mọi người đều có bí danh.

- Tôi có cầm theo thư của cô Hảo gửi cho bác?

- Cháu Hảo gửi thư cho tôi! - Giọng bác Thắng mừng rỡ hẳn lên. - Anh cũng quen cháu? Cháu vẫn công tác ở Quảng Ninh phải không anh?

- Tôi gặp cô ấy từ hồi mùa hè ở Hà Nội. Cô ấy lên Hà Nội chuẩn bị báo cáo, sau lại quay về Quảng Ninh. Bây giờ thư mới đến tay bác là quá chậm.

- Gặp anh thì thư cháu không chậm nữa rồi!...