← Quay lại trang sách

Chương XIX ❖ 1 ❖

Cả mùa hè nóng bỏng trôi qua. Johnson chẳng còn bao nhiêu thời gian để chuẩn bị cho năm bầu cử. Vấn đề chiến tranh Việt Nam đã trở thành một sự kiện cực kỳ quan trọng có tính chất sống còn đối với cuộc đời chính trị của ông ta.

Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân Mỹ chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức bắt đầu vào tháng Hai năm 1965, với chiến dịch mang tên mật mã:"Sấm rền" (Rolling Thunder), với hy vọng làm cho Hà Nội phải "quỳ gối" trong vòng hai đến sáu tháng. Bốn năm trước đó, tướng Maxwell Taylor đã khuyên người tiền nhiệm của Johnson, Tổng thống Kennedy (người quyết định đưa quân Mỹ vào cứu nguy cho chính quyền Sài Gòn), là: "Bắc Việt Nam cực kỳ dễ bị phá bằng việc ném bom thông thường". Đã hai năm qua, những chiến dịch Sấm rền tiêu phí mỗi tháng một phần tư tỉ đô-la, không làm rung động quyết tâm của người dân miền Bắc trong sự nghiệp chiến đấu để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Những luồng người và luồng hàng từ Bắc chảy vào Nam không hề suy giảm mà còn tăng lên nhiều. Tinh thần của quân đội Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam vẫn không được cứu vãn. Những nhà lãnh đạo chính trị của nước Việt Nam Dán chủ Cộng hòa chưa hề tỏ dấu hiệu nao núng trước sức mạnh của những trận ném bom đe dọa đưa miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá.

Trong năm 1967, tổng số quân Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh xâm lược ở Việt Nam đã lên tại bốn mươi tám vạn, bao gồm bốn mươi phần trăm số sư đoàn bộ binh, năm mươi phần trăm lực lượng không quân chiến thuật, một phần ba lực lượng hải quân của Mỹ.

Kẻ dao động lại chính là những nhân vật quan trọng trong giới cầm quyền Mỹ. Từ mùa đông năm 1965, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara đã nhiều lần đến trang trại của Johnson ở bang Texas, tỏ vẻ nghi ngờ kết quả cuộc chiến tranh này. Ông ta không tin là những chiến dịch sấm rền trên miền Bắc Việt Nam sẽ đạt được hiệu quả mà tổng thống Mỹ mong muốn. Số người trong chính phủ Mỹ ngả theo chiều hướng muốn ngừng ném bom trên miền Bắc, do McNamara khởi xướng, mỗi ngày một đông hơn. Rồi đến lượt chính tổng thống Mỹ dao động.

Đầu năm 1967, Johnson cho tiếp tục cuộc phản công chiến lược lần thứ hai tại miền Nam với cuộc hành quân Cedar Falls tại khu "Tam giác sắt". Kế tiếp sau đó, vào đầu tháng 02-1967, là cuộc hành quân thứ hai Gadsen về phía biên giới Cam-pu-chia, chuẩn bị cho đòn chiến lược mới Junction City sắp được tiến hành. Trên miền Bắc, Johnson chủ trương gây "áp lực không thương tiếc" bằng cách dùng không quân đánh mạnh, cô lập Hà Nội với Hải Phòng, cô lập Hà Nội, Hải Phòng với những khu vực khác, làm tê liệt những đường giao thông từ Bắc vào Nam, từ các nước ngoài vào miền Bắc. Có sáu hệ thống mục tiêu: điện lực, công nghiệp, giao thông, cơ sở quân sự, kho nhiên liệu, hệ thống phòng không và không quân. Địch mở rộng những hoạt động pháo kích của hải quân ra đến vĩ tuyến 20, thả thủy lôi một số cửa biển và sông ngòi của ta.

Cùng lúc đó, Johnson gửi một bức thư "thiện chí" tới Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bức thư đề ngày tám tháng Hai năm 1967:

“Thưa Chủ tịch, Tôi viết thư này gửi Ngài với hy vọng có thể chấm dứt cuộc xung đột ở Việt Nam.

Cuộc xung đột này đã gây ra thiệt hại nặng nề về số người chết và bị thương, về tài sản bị phá hoại và vê sự đau khổ của con người. Nếu chúng ta không tìm được một giải pháp đúng đắn và hòa bình thì lịch sử sẽ nghiêm khắc phê phán chúng ta (!).

... Chính là để đáp ứng với nghĩa vụ đó mà tôi trực tiếp viết thư gửi Ngài.

... Có một cố gắng tốt để khắc phục vấn đề này và tiến lên trong việc tìm kiếm một giải pháp hòa bình. Đó là chúng ta thu xếp một cuộc nói chuyện trực tiếp giữa những đại diện được tin cậy, cuộc nói chuyện đó sẽ tiến hành một cách bảo đảm bí mật và không công bố.

... Tôi sẵn sàng ra lệnh chấm dứt ném bom nước Ngài và ngừng đưa thêm lực lượng Mỹ vào miền Nam Việt Nam ngay khi nào tôi được bảo đảm là việc thâm nhập vào miền Nam bằng đường bộ và đường thủy đã chấm dứt.

... Nếu Ngài có ý kiến gì về hành động mà tôi đề nghị thì điều hết sức quan trọng là tôi nhận được những ý kiến đó càng sớm càng hay.

Chào ngài - Lyndon Johnson” Một tuần sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời Tổng thống Mỹ:

"Nước Việt Nam cách xa nước Mỹ hàng vạn dặm. Nhân dân Việt Nam chẳng hề động chạm đến nước Mỹ. Nhưng trái với lời cam kết của đại diện Chính phủ Mỹ tại hội nghị Genève năm 1954, Chính phủ Mỹ đã không ngừng can thiệp vào Việt Nam gây ra và mở rộng chiến tranh xâm lược miến Nam Việt Nam nhằm chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Từ hơn hai năm nay Chính phủ Mỹ còn dùng không quân và hải quân đánh phá nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một nước độc lập, có chủ quyền.

Chính phủ Mỹ đã phạm tội ác chiến tranh, phá hoại hòa bình và chống lại loài người, ở miền Nam Việt Nam, nửa triệu quân Mỹ và quân chư hầu dùng vũ khí tàn ác nhất và những thủ đoạn chiến tranh dã man nhất, kể cả bom na-pan, chất độc hóa học để giết hại hàng loạt đồng bào chúng tôi, phá hoại mùa màng, triệt hạ làng mạc.

Ở miền Bắc Việt Nam, hàng ngày máy bay Mỹ trút hàng chục vạn tấn bom đạn, phá hoại các thành phố, xóm làng, nhà máy, cầu đường, đê đập, tàn phá cả nhà thờ, đình chùa, nhà thương, trường học. Trong thư Ngài tỏ ra thương xót trước những đau thương tàn phá ở Việt Nam. Xin hỏi Ngài ai đã gây ra những tội ác tầy trời ấy? (...).

Nhân dân Việt Nam chúng tôi rất thiết tha với độc lập tự do và hòa bình. Nhưng trước sự xâm lược của Mỹ, nhân dân Việt Nam đoàn kết một lòng, không sợ hy sinh gian khổ, đã đứng lên kháng chiến và quyết kháng chiến đến khi giành được độc lập, tự do thật sự và hòa bình chân chính (...).

Chính phủ Mỹ đã gây ra chiến tranh xâm lược Việt Nam thì con đường đưa đến hòa bình ở Việt Nam là Mỹ phải chấm dứt xâm lược. Chính phủ Mỹ phải chấm dứt vĩnh viễn và không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, phải rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam; phải thừa nhận Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; phải để nhân dân Việt Nam tự giải quyết công việc nội bộ của mình (...).

Nhân dân Việt Nam quyết không khuất phục trước vũ lực và quyết không nói chuyện trước sự đe dọa của bom đạn.

Sự nghiệp của chúng tôi là chính nghĩa. Mong Chính phủ Mỹ hãy hành động hợp với lẽ phải.” 21 tháng Hai năm 1967, Mỹ mở cuộc hành quân lớn nhất trong cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam, cuộc hành quân Junction City. Địch đã tập trung bảy lữ đoàn Mỹ, một trung đoàn thiết giáp và hai chiến đoàn ngụy, tổng cộng hai mươi sáu tiểu đoàn (hai mươi hai tiểu đoàn Mỹ) đánh sâu vào căn cứ Dương Minh Châu của ta ở dọc biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia. Cuộc hành quân này bị ta đánh bại. Hàng ngàn quân Mỹ thương vong, hàng trăm xe quân sự (phần lớn là xe bọc thép) bị phá hủy, hơn một trăm máy bay bị bắn rơi, bắn cháy, hàng trăm súng lớn và súng cối hạng nặng bị phá hủy. Viên thượng tướng Mỹ chỉ huy cuộc hành quân này bị cách chức.

Trên miền Bắc, địch đánh lại các kho dầu và một số sân bay, có ngày dùng tới một trăm năm mươi lần chiếc máy bay đánh vào khu vực Hải Phòng.

Thượng tuần tháng tư năm 1967, Johnson lại gửi tới Chủ tịch Hồ Chí Minh một lá thư thứ hai.

“Thưa Chủ tịch, Dĩ nhiên tôi lấy làm thất vọng vì Ngài đã không trả lời một cách tích cực cho bức thư của tôi gửi Ngài ngày 8 tháng Hai.

Nhưng tôi xin nhắc lại với Ngài những lời nói sau đây của Abraham Lincoln với người Mỹ năm 1861:

"Giả sử bạn đi vào chiến tranh, bạn không thể bao giờ cũng đánh được; và khi cả hai phía đều tổn thất nhiều và cả hai đều không được lợi lộc gì, bạn sẽ thôi đánh nhau thì vấn đề tương tự xưa nay là những điều kiện liên lạc với nhau lại hiện ra trước mắt bạn"...

... Chắc chắn đã rõ ràng là đến một ngày nào đó, chúng ta phải thỏa thuận xác lập lại và làm cho có hiệu lực các hiệp định Genève năm 1954 và 1962"

Không hiểu có phải tổng thống Mỹ vì bối rối nên mất sáng suốt. Mười ba năm đã trôi qua sau hiệp định Genève năm 1954. Bao nhiêu xương máu của đồng bào hai miền đã đổ xuống vì sự nghiệp giải phóng Tổ quốc. Chúng ta có thể nào quay về với sự chia cắt trên dòng sông xanh ở đất Quảng Trị, cái giới tuyến tạm thời đó từ bao lâu nay đã bị xóa nhòa.

Bức thư được trao cho sứ quán của ta tại Mátxcơva và đã bị trả lại ngay trong ngày hôm đó.

Tại miền Nam, Mỹ mở một loạt những cuộc hành quân mới tiếp theo cuộc hành quân Junction City và liên tiếp bị thất bại.

Trên miền Bắc, Johnson kiên quyết gạt bỏ đề nghị ngừng ném bom trên vĩ tuyến 20 của McNamara, mở rộng thêm một loạt mục tiêu mới cho các trận ném bom được tăng cường độ gấp nhiều lần. Suốt mùa hè sang đến mùa thu, không quân Mỹ đánh mạnh vào Hà Nội, Hải Phòng và các đường giao thông.

- Những chiến dịch Sấm rền nối tiếp nhau đã mang con số mới: 57.

❖ 2 ❖

Vào cuối mùa hè năm 1967, cách đánh mới của đoàn Sao Vàng đã được xác định.

Mỗi lần đi họp trên Quân chủng, trung đoàn trưởng Luân và chính ủy Khang không còn đến nỗi khó ăn khó nói. Trung đoàn Sao Vàng đã chính thức báo cáo với bộ tư lệnh quân chủng họ đã tìm ra cách tiến công có hiệu quả vào đội hình lớn của máy bay địch bằng những biên đội nhỏ.

Những người lái máy bay Mic 21 đoạn tuyệt hẳn với chiến thuật đánh gần. Mỗi người đã có trên dưới một trăm giờ bay. So với những đối thủ của họ, có trên dưới ngàn giờ bay, sự chênh lệch còn quá xa, nhưng cũng đã cho phép họ đọ cánh với kẻ địch trên bầu trời. Họ đã nhìn ra một điểm yếu của địch ở chính sự gắn bó liên kết chặt chẽ của những máy bay trong một đội hình lớn. Máy bay địch bị lệ thuộc vàc đội hình và tốc độ của chuyến bay trong suốt quá trình tiến vào mục tiêu của các trận ném bom. Nhược điểm này cho phép người lái ta tận dụng tốc độ lớn của máy bay mới, nắm thời cơ thuận lợi, bất ngờ đột phá vào giữa đội hình, mở những cuộc tiến công chớp nhoáng.

Địch nhiều lần không kịp trở tay trước những đòn đột kích nhanh và mạnh của ta.

Khi những máy bay tiêm kích hộ tổng kịp thời dàn đội hình đối phó thì máy bay ta đã hoàn thành trận đánh và mất dạng.

Trong cả mùa thu, nhiều trận đánh đẹp của không quân ta diễn ra trên bầu trời.

Những người lái đã nhằm trúng đối phương, bắn rơi những máy bay cường kích địch, buộc những chiếc khác phải trút bom đi để đối phó. Suốt thời gian này, chỉ có hai đồng chí lái phải nhảy dù. Nhiều đợt tiến công của máy bay địch nhằm vào Thủ đô Hà Nội và các thành phố trên miền Bắc, đã bị phá vỡ từ trước khi bay tới mục tiêu.

Nhưng những trận đánh liên tiếp cũng mang lại cho đoàn Sao Vàng những khó khăn mới. Số người lái của ta còn quá ít. Nhiều người phải trực liên miên cả tuần, tinh thần lúc nào cũng căng thẳng đợi chờ pháo lệnh cất cánh. Có những người phải xuất kích nhiều lần một ngày. Tối về lại họp kiểm điểm rút kinh nghiệm. Họ không chỉ thiếu thời giờ nghỉ ngơi mà thiếu cả thời giờ tắm giặt. Người lái phải cắt tóc ở nhà trực chiến giữa hai đợt xuất kích.

Những người chỉ huy còn bận bịu hơn. Ngoài những giờ có mặt ở sở chỉ huy theo dõi tình hình địch, chỉ huy trận đánh, từ sáng đến tối, họ phải dành nhiều thời gian cho những cuộc rút kinh nghiệm chung và riêng với từng người lái, lập phương án tác chiến thường là kéo dài tới quá nửa đêm, những chuyến đi báo cáo với cấp trên... Họ lại còn phải tranh thủ bay huấn luyện. Trung đoàn trưởng Luân có lúc tới họp ở bộ tư lệnh Quân chủng với bộ râu chưa kịp cạo và đôi ủng bay.

Máy bay càng trở nên thiếu thốn. Một số chiếc bị mất trong chiến đấu, trong các tai nạn chưa được bổ sung. Những chiếc khác bị hỏng hóc, thiếu phụ tùng thay thế. Những máy bay còn lại phải dùng trực chiến suốt ngày đêm, không có thời gian đưa vào xưởng kiểm tra định kỳ theo chế độ. Anh em thợ máy chong đèn thâu đêm trên đường băng, sửa chữa từng phần cho những máy bay phải ở nguyên vị trí để trực chiến ngày hôm sau.

Nhưng đây chính lại là thời kỳ mà mọi người cảm thấy phấn chấn nhất. Chưa bao giờ họ có một niềm tin vững chắc như lúc này.

Người lái khi rời đường băng, không còn nghĩ là mình phải sẵn sàng hy sinh để đánh đổi lấy một kinh nghiệm mở đường đi tới chiến thắng. Họ tin rằng mình sẽ trở về với một ngôi sao đỏ mới trên cánh bay.

- Người chỉ huy trước đây, mỗi lần trên bàn tiêu đồ xuất hiện máy bay địch, là một lần khắc khoải, lo âu trước những quyết định của mình. Không cho máy bay cất cánh thì có phải là mình vừa bỏ lỡ một thời cơ diệt địch, mặc cho chúng tự do mang bom đạn tới trút vào mục tiêu? Cho máy bay cất cánh thì có phải mình vừa sa vào bẫy địch, mình đang đem hy sinh đi một cách vô lý những vốn liếng ít ỏi và quý giá đầu tiên của quân đội?... Ngày nay, họ bắt đầu tin vào những phán đoán, quyết định của chính mình. Các anh đã thấy được cá tính của từng người lái qua đường bay thể hiện bằng vạch chì đỏ trên bàn tiêu đồ. Nghe hai tiếng "phát hiện!", các anh hiểu là người lái bị động hay chủ động. Chỉ qua một lời báo cáo ngắn ngủi, các anh biết người lái đang suy nghĩ gì.

Đã có một sự đồng cảm giữa người chỉ huy và người đi chiến đấu. Có lần họ không dự kiến được hết những trường hợp phức tạp xảy ra từ sở chỉ huy, người lái đang chiến đấu đã biết ngay mình cần phải làm gì. Ngược lại, một khẩu lệnh của người lái trong lúc chiến đấu cũng đủ để người chỉ huy hiểu được hành động sắp tới của anh.

Một hôm, tư lệnh trưởng Quân chủng tới sân bay.

Ông sục vào nhà trực chiến, ông gặp Tú, Đông, Quỳnh, Hoa đang trực.

- Tại sao toàn cán bộ trực thế này?

Tú đáp:

- Báo cáo đồng chí, anh em,lái trực nhiều, ngày hôm nay chúng tôi phải để anh em nghỉ.

- Các anh đã tìm người thay thế chưa? Tôi tìm đâu ra bốn cán bộ một lúc?

Tú lúng túng. Đông đáp:

- Thủ trưởng không lo mất cán bộ. Chúng tôi bảo đảm có lệnh cất cánh là ra đi sẽ đem thắng lợi trở về. Bất kể cuộc chiến đấu thế nào, nếu chúng tôi không trở về xin coi như vi phạm kỷ luật.

- Lúc đó tìm đâu ra các anh mà thi hành kỷ luật?

Sau đó, ông tới sở chỉ huy.

Nghe trung đoàn trưởng báo cáo tình hình xong, ông nói:

- Các đồng chí cứ làm việc bình thường, coi như không có tôi ở đây.

Trung đoàn trưởng Luân biết ông muốn theo dõi tình hình làm ăn của anh và sẽ không can thiệp vào công tác chỉ huy.

Trên màn ra-đa hiện lên một dải nhiễu. Triệu chứng địch sắp hoạt động. Ngày hôm qua, ta vừa phá được một đợt đánh lớn của địch, bắn rơi hai máy bay.

Lát sau, một tốp địch xuất hiện. Chúng bay ở độ cao trung bình. Tốc độ của chúng không lớn lắm. Hiện tượng của những máy bay đi làm nhiệm vụ ném bom. Ra-đa ước tính tốp này gồm tám chiếc.

Luân hạ lệnh cho các biên đội trực chiến vào cấp một.

Những máy bay địch sắp vượt qua biên giới.

Đông chí dẫn đường, ống nói để sát miệng, hết nhìn đường chỉ xanh trên bàn tiêu đổ lại nhìn trung đoàn trưởng. Anh muốn nhắc nhở đồng chí chỉ huy: "Nếu không cất cánh ngay sẽ lỡ thời cơ".

Trung đoàn trưởng đứng trầm ngâm.

Đường chỉ xanh đã vượt qua biên giới.

Tư lệnh trưởng từ nãy đến giờ ngồi bình thản, bắt đầu đưa mắt liếc nhìn trung đoàn trưởng.

Đồng chí dẫn đường nói:

- Máy bay địch bay về hướng sân bay!

Đường chỉ xanh không ngừng kéo dài thêm. Rõ ràng những máy bay địch mỗi lúc một tiến đến gần sân bay. Và thời cơ cất cánh đã bị lỡ.

Một cuộc oanh kích đang nhằm vào đầu họ.

Không khí sở chỉ huy căng thẳng thêm vì sự có mặt của tư lệnh trưởng Quân chủng.

Đường chỉ xanh đã tiến đến gần sân bay.

Những cặp mắt lại hướng về trung đoàn trưởng.

Luân vẫn đứng bình thản nhìn bàn tiêu đồ. Cũng lúc đó máy bay địch đổi hướng.

Chúng bay vòng trở lại. Luân hơi mỉm cười.

Không khí sở chỉ huy trở nên nhẹ nhõm.

Máy bay địch đi xa dần và mất hút.

Lúc đó tư lệnh trưởng mới hỏi Luân:

- Nếu vừa rối đúng là tám thằng cường kích đến ném bom vào đầu các anh thì sao?

Luân đáp:

- Báo cáo anh: không thể là máy bay cường kích.

- Anh căn cứ vào đâu?

- Chúng tôi có rất nhiều căn cứ. Hôm qua, địch vừa bị ta đánh đau, nếu hôm nay địch vẫn tiếp tục vào, tất nhiên chúng phải có những thủ đoạn mới. Nhiễu của địch sáng nay không nhiều, vừa thưa vừa hẹp. Rõ ràng là chúng không cố tình che đậy cho máy bay như mọi ngày. Lại không thấy xuất hiện máy bay tiếp dầu. Nếu địch sắp đánh lớn, sao lại không có loại máy bay này? Sau đó, máy bay địch xuất hiện. Chúng bay giống như những máy bay cường kích vào đánh lớn... Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận rằng đây chỉ là một trò nhử mồi, chúng đã dùng những máy bay tiêm kích giả làm cường kích để kéo máy bay ta vào bẫy của chúng... Chúng bay tới sát sân bay thấy máy bay ta không động tĩnh, chúng đành phải quay lại vì không muốn chạm vào vùng hỏa lực phòng không bảo vệ sân bay.

Tư lệnh trưởng ngồi im. Khi ông không phản đối tức là ông đồng ý.

Rồi ông nhận xét:

- Các anh có cơ sở để ăn nói rồi đấy!

Tiếng cười rộn lên trong sở chỉ huy.

Chờ ngớt tiếng cười, ông nói tiếp:

- - Nhưng tôi bảo đảm là sắp đến lúc chúng nó trút bom xuống đúng đầu các anh...

❖ 3 ❖

Đồng chí cục phó Cục quân y tới nhà trực chiến vào bữa ăn sáng..

Đang có báo động cấp hai, những người lái còn ở ngoài đường băng túc trực sẵn sàng bên máy bay.

Anh mở mâm cơm đặt giữa bàn, xem món ăn. Cơ quan hậu cần của trung đoàn đã cố gắng cung cấp cho người bay những bữa ăn theo định lượng. Nhưng các món ăn đều bị nguội.

Anh nuôi đứng bên phàn nàn:

- Báo cáo thủ trưởng, hai lần anh em đã cầm bát cơm lên lại phải bỏ xuống vì báo động.

- Anh em thường ăn có hết không?

- Nhà bếp khó nấu nướng quá thủ trưởng ạ. Các anh ấy thích tương cà, bún ốc, riêu cua, những bát canh rau cải nhưng chúng tôi không dám phục vụ vì đó toàn là những thứ bác sĩ cấm, vì ăn vào nó sinh hơi, khi bay cao bụng sẽ chướng lên. Và cho ăn như vậy, sẽ không hết tiền... ăn thịt mãi cũng chán nên bỏ nhiều.

- Những bữa ăn ở nhà thì sao?.

- Ở nhà thì cũng có những bữa các anh ấy ăn hết.

Đồng chí cục phó đứng ngẫm nghĩ. Như vậy thì nguyên nhân chính không phải ở chỗ những thức ăn này không hợp với khẩu vị của người lái.

Tiếng ủng bay lộp bộp lên ngoài. Đã hết báo động. Những người bay đang trở về.

Quỳnh và các bạn đứng nghiêm chào đồng chí thượng tá mang phù hiệu quân y.

Cục phó nhìn những anh lái tầm vóc khác nhau, người bó chặt trong bộ quần áo kháng áp. Nét mặt họ linh lợi, nhưng nước da khô, quầng mắt thầm, dấu hiệu của sự mệt mỏi, căng thẳng về thần kinh. Anh ngỏ ý muốn được nói chuyện với họ sau bữa cơm.

Cục phó quay ra ngoài khi họ bước lại bên bàn ăn.

Trước khi tới đây, nghe những trận đánh diễn ra hằng ngày giữa máy bay ta và máy bay địch, anh tưởng họ là một đội ngũ đông đảo. Nhưng bây giờ, anh thấy họ chỉ là một nhúm người đứng lọt thỏm trong căn nhà trống trải trên sân bay vắng vẻ. Anh nhìn mấy chiếc máy bay bé nhỏ, hiền lành như những thứ đồ chơi, nằm trên đường băng rồi lại nhìn vòm trời cao rộng.

Khi cục phó quay vào, căn nhà đã nhộn nhịp hơn lên vì sự có mặt của một đội văn công xung kích.

Mấy cô gái định rút lui. Họ đã biết những người lái sắp phải làm việc với cấp trên.

Cục phó vội ngăn họ. Anh biết câu chuyện của mình không thể mang lại sự bổ ích cho họ trong lúc này bằng những bài hát và mấy bản nhạc. Anh yêu cầu đội xung kích cứ tiếp tục chương trình biểu diễn và mình sẽ làm việc sau.

Một cô văn công có giọng hát hay đã gửi cả tâm hồn của mình vào cầu hát. Lời ca của cô như một dải lụa mềm, màu sắc êm dịu bay múa trong căn phòng. Nhưng anh nhận thấy những người lái chỉ tiếp nhận nó với thái độ lịch sự.

Đội xung kích có vẻ lưu luyến lúc ra về.

Cục phó chưa hiểu tại sao những người trẻ tuổi này lại không có sự rung động thực sự trước tài nghệ điêu luyện của cô gái. Nhưng họ đã tỏ ra chăm chú trước mỗi câu hỏi của anh.

Anh đang cẩn hiểu xem tình trạng sức khỏe của họ như thế nào, công tác chuyên môn của các anh có thể làm những gì thêm để chăm sóc cho họ trong cuộc chiến đấu.

Cục phó nêu một cầu hỏi dè dặt:

- Sức khỏe của con người được biểu hiện ra ở người trẻ trong những nhu cầu về sinh lý. Cái này rất tự nhiên... Tôi muốn hỏi các đồng chí có những biểu hiện như thế nào về mặt này?

Không ai mỉm cười. Cũng không ai đỏ mặt. Ai nấy đều suy nghĩ dường như muốn có một câu trả lời thật chính xác.

Rồi Quỳnh nói:

- Không biết các đồng chí khác như thế nào... Tôi chưa có gia đình và tôi sẽ không trở thành thầy tu...

- Thầy tu thì cũng vẫn có những nhu cầu tự nhiên như mọi người - Đông xen ngang.

Quỳnh nói tiếp:

- Nhưng gần đầy, chúng tôi gần như không nhớ tới cái nhu cầu mà đồng chí vừa nói.

- Tối về sinh hoạt xong chỉ còn kịp lên giường lăn ra ngủ. - Một người khác xác nhận lời Quỳnh.

- Bọn chúng tôi quên mất con người còn có chức năng sinh đẻ... Nhưng đó chỉ là vào thời gian này. Xin báo cáo với thủ trưởng tôi đã có vợ và hai con. - Đông nói tiếp.

Cục phó nhận thấy câu hỏi của mình được trả lời một cách nghiêm túc.

Anh lại hỏi:

- Hàng ngày, chúng tôi vẫn gửi tới các đồng chí mỗi người một số thuốc, trong đó có những loại sinh tố rất cần cho người bay... Chúng tôi dự định sẽ biến các loại sinh tố này thành những viên kẹo... (anh vừa nói vừa liếm môi) kẹo hạnh nhân, kẹo chanh, kẹo cam hoặc cà phê... cho dễ ăn, các đồng chí thấy có nên không?

- Không nên. - Quỳnh vội vã đáp ngay - Mỗi lần được phát kẹo, chúng tôi thường bỏ không ăn vì... nó chỉ là kẹo. Nếu các đồng chí cứ để nguyên viên thuốc thì chúng tôi sẽ không quên vì... uống thuốc là nhiệm vụ.

- Cục phó đã hiểu... Cuộc chiến đấu hiện nay đang làm cho những người bay hết sức mệt mỏi. Nếu họ còn tiếp tục chịu đựng được thì không phải là do những bữa ăn có định lượng, những viên sinh tổ, những thức ăn tinh thần... Những thức đó đều rất cần. Nhưng cái giúp cho họ còn đứng vững được lại chính là nhiệm vụ.

❖ 4 ❖

Sư bà đã dành cho trung đoàn trưởng Luân và chính ủy Khang một chỗ nghỉ trong căn trái của nhà chùa. Với chỗ ở này, những người chỉ huy lại gần sân bay hơn. Họ chỉ cách sân bay hai ki-lô-mét theo đường chim bay. Từ đây, bất cứ lúc nào cũng có thể nhìn thấy máy bay ta lên xuống sân bay.

Hai ngày nay, thời tiết xấu, máy bay địch không hoạt động. Trung đoàn trưởng và chính ủy có những phút rảnh rỗi sau bữa cơm chiều.

Sư bà vừa thắp hương buổi tối và thỉnh một hồi chuông. Những âm thanh nho nhỏ và trong trẻo của chiếc chuông con ngân nga trong không gian, lan trên cái biển màu xanh đã đượm nhiều bóng tối của những lũy tre làng và cánh đồng lúa. Một sư nữ đã nói với các anh là từ ngày bộ đội ra đây, chiều nào sư bà cũng cầu nguyện cho bộ đội gặp mọi điều tốt lành.

Hai người ngồi ở hiên sau chùa nói chuyện. Mùi hương thơm ngát từ ban thờ bay ra.

Luân bỗng nói:

- Nhìn ông Phật sao mà dễ thương! Anh có tin là mười lăm tuổi tôi đã ra chùa nghe giảng về đạo Phật... Mình thấy ông Phật hiền lành, thật là gần gụi với mình... May mà cách mạng đến sớm không thì mình đi theo ông Phật mất rồi...

Chính ủy chăm chú nhìn trung đoàn trưởng, mắt anh chợt sáng lên như vừa mới nhớ ra một điều gì.

- Tôi vừa đọc một cuốn sách viết về hai cuộc chiến tranh ở Việt Nam của một người Pháp. Tác giả viết, hồi Bác Hồ ở Pháp về bằng đường biển, trên tàu Dumont-d’Urville có một ông cố đạo. Ngày nào người ta cũng thấy Bác và ông ngồi nói chuyện. Bác đã nói với ông là công giáo và chủ nghĩa cộng sản cùng nhắm một mục đích là mang lại hạnh phúc cho con người.

- Nhưng mình vẫn thấy thương ông Phật... Ông Phật đi với chủ nghĩa xã hội này càng dễ thương.

Chính ủy lại gật gù:

- Khối cậu lái nhà mình đi vào chùa nếu bỏ bộ quần áo bộ đội thì trông như những phật tử chính cống. Nhiều cậu hiền quá! Trước kia tôi cứ nghĩ không biết những cậu này khi lên trời đánh nhau thì sẽ ra sao... Cậu Đông nói: đánh địch, không thể hiền lành!

- Nhất là với cách đánh của ta.

- Điều khiến tôi lo không phải là ở chỗ trình độ kỹ thuật của anh em ta còn non mà một số anh em quá hiền lành... Anh có nhớ cái lần cậu Đông bay khoa mục săn mục tiêu không?

Trung đoàn trưởng mỉm cười gật đầu.

Hồi đó, họ còn ở nhà trường. Các học viên đang bay huấn luyện khoa mục săn mục tiêu. Qua mấy buổi bay, những anh lái đi làm nhiệm vụ săn đuổi đều không kiếm chác được gì. Đến buổi bay thứ tư, Đông tuyên bố mình đã bắt kịp mục tiêu và nổ súng dứt điểm. Người ta lấy phim từ máy bay Đông ra rửa. Một chiếc máy bay nằm rất rõ trong cuốn phim. Nhưng ngay sau đó, nhiều người nhận ra hình máy bay in trong phim là máy bay của Quỳnh, người bay cùng biên đội đi săn mục tiêu với Đông. Máy bay Quỳnh bữa đó mang thùng dầu phụ, còn máy bay mục tiêu không có thùng dầu phụ... Đông có tính xấu hiếu thắng, thích hơn người. Và đôi lúc, anh đã dùng những mánh lới không thẳng thắn để vượt lên bạn. Tuy nhiên, tính xấu đó không đẩy anh đến chỗ làm hại người khác.

Các bạn đồng đội đã cạo cho Đông một chầu ra trò. Chuyện này chắc cũng làm cho anh khá thấm thìa. Đôi người đến nay vẫn cho rằng có lẽ anh chưa hoàn toàn sửa được cái tính đó, chỉ có điều là không ai phát hiện được...

Chính ủy nói tiếp:

- Nhưng vào cuộc chiến đấu thì những người như Đông lại làm nên chuyện... Giao việc cho cậu ta khó hơn những người khác, nhưng biết cách thì lại rất được việc...

- Nếu ngày nay Phật sống lại chắc Phật cũng đi với cách mạng để đánh Mỹ.

- Đi rồi... Ai phúc đức như sư bà chùa này. Cụ đã tham gia vào hội đồng nhân dân tỉnh và ngày nào cũng cầu trời phù hộ cho chúng mình.

- Anh có thấy là đánh nhau lâu thì các cậu nhà mình cũng mất dần tính Phật? Các cậu ấy dạo này, đã tinh khôn hơn.

- Chưa đủ.

- Đúng là chưa đủ... Phải làm cho tất cả trở thành như cậu Đông mới được việc!

Nhưng rồi sau này... hết chiến tranh, con người lại nên trở về với tính Phật?...

Trung đoàn trưởng đột ngột hỏi:

- Bao giờ thì anh cho phật tử cưới vợ đấy?

- Anh nói gì? - Chính ủy nhìn trung đoàn trưởng có vẻ không hiểu.

Trung đoàn trưởng cười rồi nói:

- Bao giờ thì anh cho cậu Quỳnh tổ chức?

Chính ủy lộ vẻ đăm chiêu:

- Công tác tổ chức xong tất cả rồi... Tôi nghĩ đến chuyện đó luôn. Bút bàn với Quỳnh thì cậu Quỳnh nói chờ cho đơn vị đỡ bấn một chút. Anh em nó tốt... mình phải chủ động mà sắp xếp thôi. Nay mai liệu có lúc nào thư thư không?

- Chắc là không. Nhưng sao không tranh thủ vào một dịp ngừng bắn? Ngày Nô-en, ngày đầu năm hay dịp Tết... Và từ nay đến lúc bầu cử tổng thống Mỹ, chắc thế nào Johnson có thêm một đôi lần tỏ "thiện chí" để mời ta đến bàn đàm phán.

- Trước khi đó, cũng phải để cho anh chị gặp nhau...

Sư bà bước tới, hai tay bưng một đĩa oản chuối.

- Trời...! - Trung đoàn trưởng kêu lên - Cụ cho chúng cháu luôn thế này!

- - Các chú chẳng thiếu chi. Nhưng đây là lộc Phật, các chú ăn đi rồi Phật phù hộ cho...

❖ 5 ❖

Trung đoàn trưởng Luân ngồi gà gật ngủ trên xe.

Đêm hôm qua, anh họp ở Quân chủng đến khá khuya.

Trong cuộc họp ở Quân chủng lần này, tham mưu trưởng đưa cho Luân xem một bản tin. Một hãng thông tấn phương tây bình luận: "Máy bay Mỹ không có cách nào đỡ đòn trước cách tiến công của Mic 21 Bắc Việt hiện nay!". Đến lượt "thế giới tự do" đã phải công nhận điều này. Luân rất phấn khởi. Nhưng ngay sau đó, anh phải nghe một loạt lời than phiền của đồng chí chỉ huy đơn vị bạn, trung đoàn Sao Mai. Cuộc chiến đấu của máy bay Mic 17 liên tiếp gặp khó khăn. Mấy tháng qua, gần một chục đồng chí lái hy sinh. Quân chủng đã đề ra cần có sự phối hợp giữa hai loại máy bay: Mic cũ và Mic mới.

Các trận phối hợp diễn ra không ăn khớp. Mic 17 với tốc độ nhỏ và những khẩu pháo bắn thẳng thường chỉ đạt hiệu quả trong vòng ba, bốn trăm mét, buộc phải tiếp tục chiến thuật đánh quần. Mic 21 với tốc độ lớn và những phát tên lửa bắn từ xa vẫn sử dụng những đòn đột kích nhanh và mạnh. Họ không thể kéo dài trận đánh với hai quả tên lửa. Họ cũng không thể quay vòng với kẻ địch vì làm như vậy sẽ dẫn tới những tổn thất như trước đây.

Trung đoàn trưởng đoàn Sao Mai nói với vẻ trách móc: "Trong lúc chúng tôi quần thảo với kẻ địch thì đơn vị bạn chỉ bay vụt qua, bắn mấy phát tên lửa, chào nhau rồi mất dạng!". Điều đó đúng. Nhưng Luân chưa nghĩ ra những người lái của mình có thể làm gì khác hơn để chi viện và phối hợp với bạn.

Những người ngồi họp đều ái ngại cho đoàn Sao Mai. Sự dũng cảm của họ chỉ gặt hái được những kết quả không tốt. Trái lại, trung đoàn của Luân thì toàn giành thắng lợi và hầu như không bị tổn that.

Bỗng tư lệnh trưởng nói:

- Trung đoàn Sao Vàng mấy tháng vừa rồi làm ăn tốt. Nhưng tôi hỏi đồng chí Luân: Các anh định chơi cái trò "ba búa" này tới bao giờ?

Trung đoàn trưởng đáp:

- Báo cáo anh: Hai máy bay của chúng tôi chỉ có bốn quả tên lửa...

- Sao tôi lại không biết! Nhưng tôi không muốn là suốt hai tháng trời các anh cứ dừng lại mãi cái trò "ba búa"?...

Luân hiểu là mặc dù các anh tiếp tục chiến đấu thắng lợi nhưng mọi người đã bắt đầu không bằng lòng với những thắng lợi của các anh hiện nay. Mọi người có quyền yêu cầu như vậy. Vì so với đòi hỏi của cuộc chiến tranh thì những thắng lợi của họ đạt được hàng ngày còn quá nhỏ.

Sau đó, tới phần nhiệm vụ mới. Tư lệnh trưởng nói cả nước đang gấp rút chuẩn bị cho một nhiệm vụ lịch sử cực kỳ trọng đại. Nay mai, cuộc tiến công của không quân Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng sẽ còn mạnh gấp bội. Máy bay ta phải tiếp tục làm tốt nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô. Nhưng đồng thời họ phải sẵn sàng khi có lệnh là đưa ngay một nửa lực lượng vào chiến đấu ở mặt trận phía nam.

Về nhà đi nằm rồi Luân còn thao thức mãi. Làm cách nào để có thể phối hợp tốt hơn với đơn vị bạn? Làm thế nào để vượt lên được giới hạn của chiến thắng bắn rơi ba máy bay địch trong một trận đánh? Làm thế nào để triển khai cuộc chiến đấu ở trong kia, trên một vùng trời rất nhỏ hẹp, những sân bay dã chiến đường băng quá ngắn với loại máy bay siêu âm, trong điều kiện địch đánh phá cực kỳ ác liệt...? Tất cả những câu hỏi này đều chưa có lời giải đáp. Trước mắt anh lại hiện ra một chặng đường mới hết sức gian nan... Sáng nay, anh dậy từ lúc 4 giờ, để qua cầu Long Biên trước khi trời sáng...

- Máy bay địch!

Luân choàng thức dậy vì tiếng kêu bất thần của đồng chí lái xe hô: Chiếc xe phóng gấp thoát khỏi quãng đường trống, rồi tạt vào núp dưới những lùm cây bạch đàn ở ven đường. Trước mắt anh, những chiến sĩ tự vệ cả nam lẫn nữ của một cơ quan đang cầm súng lao ra đường hào.

Luân tỉnh táo hẳn, vội nhảy xuống xe.

Tiếng máy bay địch ầm ầm vọng lại. Xưởng định kỳ của sân bay và khu doanh trại đã hiện rõ trước mắt anh. Một đàn máy bay địch khá đông đang bay về phía đó.

Pháo chung quanh sân bay bắt đầu bắn lên dữ dội. Những chiếc máy bay không đổi hướng vẫn chiếu thẳng về phía sân bay. Bom bắt đầu rơi.

Cái điều mà họ đã dự kiến đang diễn ra.

Luân nhận thấy cuộc oanh kích của địch nhằm vào khu hậu cần và đường băng sân bay.

Anh nhảy lên xe, giục người lái:

- Phóng thật nhanh!

Trận ném bom có thể chưa chấm dứt. Những chiến sĩ tự vệ trên dọc đường không nói gì khi nhìn thấy trên xe là một cán bộ mang phù hiệu không quân.

Khu doanh trại đã bị trúng bom. Nhưng các đơn vị đóng tại đây đã được lệnh sơ tán.

Luân giục đồng chí lái cho xe tiếp tục chạy ra sân bay. Nơi anh cần tới ngay bây giờ là đường băng. Nếu đường băng trúng bom tức là cuộc chiến đấu của các anh bị gián đoạn.

Xe phải rất khéo léo vượt qua những bãi bom bi.

Luân gặp chính ủy Khang ngay trên đường băng. Họ chưa kịp trao đổi gì với nhau thì một đợt máy bay địch nữa lại tới.

Đứng dưới đường hào, Luân được biết có thêm hai trái bom nữa rơi trúng đường băng.

- Những trận oanh kích của địch kéo dài suốt ngày hôm đó.

❖ 6 ❖

Sân bay Đa Phúc là sân bay duy nhất trên miến Bắc có đường băng đủ tiêu chuẩn để đón nhận những máy bay lớn của nước ngoài. Trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, Mỹ vẫn dành ra một đôi chỗ để mặc cả. Bệ phóng của máy bay Mic gây khó chịu cho không quân Mỹ mỗi lần bay vào đánh phá từ lâu, nhưng mục tiêu này vẫn được tạm để sang một bên. Nhưng “tính hiếu chiến” ngày càng tăng và những đòn chặn kích hiệu quả của Mic 21 đã thôi thúc Lầu Năm góc rút sân bay Đa Phúc khỏi danh sách ít ỏi những mục tiêu nhạy cảm chưa đụng tới.

Các chuyên gia Mỹ đã tính toán việc loại trừ một sân bay trên miền Bắc không mấy khó khăn. Chỉ cần sau một hai cuộc oanh tạc là máy bay không thể nào cất cánh. Việc sửa chữa một sân bay bị ném bom cần tới nhiều thời gian, vì đối phương không thể đưa một số người đông đảo tới làm công việc này ban ngày khi các cuộc oanh kích có thể diễn ra bất cứ lúc nào. Và chừng nào họ sửa chữa xong, máy bay Mỹ chỉ cần ném bom trở lại.

Không phải chỉ có bầu trời mà cái nôi êm ấm của những người lái cũng trở thành bãi chiến trường.

Ban ngày, những chiến sĩ công binh phải tiến hành cuộc chiến đấu thầm lặng, tháo gỡ những quả bom bi vướng nổ nằm rải rác khắp nơi, lần theo những hút bom của những quả bom chờ nổ đã chui sâu ẩn mình dưới lòng đất, đợi một chiếc máy bay hay một xe chở dầu lướt qua là chồm dậy.

Những xe cần trục được điều tới để di chuyển những mảng bê-tông rạn nứt trên đường băng.

Ban đêm, hàng ngàn người từ các làng mạc chung quanh, các cơ quan đóng tại địa phương kéo tới sân bay. Họ vừa phải gánh đất đổ vào những hố bom khổng lổ vừa đẩm cho chặt để những người sửa đường băng đặt lên đó những phiến bê-tông mới. Đuốc thắp sáng thâu đêm. Thỉnh thoảng một hồi kẻng báo động vang lên. Đèn đuốc tạm thời biến mất. Công việc sửa gấp sân bay phải làm đi làm lại nhiều lần vì bệ phóng của người lái đã trở thành một mục tiêu bị máy bay địch thường xuyên đánh phá.

Và như một phép lạ, trong những ngày đường băng chưa sửa chữa xong, những chiếc Mic 21 màu sáng bạc vẫn tiếp tục xuất hiện trên bầu trời, lao vào giữa những đội hình lớn của máy bay địch đánh những đòn tối hậu.

Những máy bay ta khi cất cánh từ đường lăn, khi cất cánh từ một sân bay dã chiến kẻ địch còn chưa phát hiện. Những chuyến xuất kích không còn người đưa tiễn. Để đề phòng máy bay địch, đã có lệnh cấm tụ tập đông người trên đường băng.

Một buổi tối, những người thợ máy ở ngoài sân bay báo cáo về sở chỉ huy, sáng hôm sau chỉ có thể đưa một chiếc máy bay vào trực chiến. Trung đoàn trưởng quyết định cho những người lái nghỉ ở nhà, họ sẽ ra sân bay khi ít nhất có một chiếc máy bay thứ hai được sửa chữa xong.

Lát sau, Quỳnh tới gặp trung đoàn trưởng. Anh hỏi:

- Tại sao biên đội tôi ngày mai không ra trực ở sân bay?

- Vì thợ máy mới trao cho các đồng chí một chiếc máy bay...

- Một chiếc...! Tốt rồi! Ta đã có lần chỉ đánh địch bằng một chiếc. Đề nghị anh cứ cho chúng tôi ra trực. Lại khỏe đấy anh ạ, vì chúng tôi có những bốn người luân phiên nhau.

Luân ngẫm nghĩ rồi ưng thuận. Anh nhận thấy dù chỉ là một buổi, máy bay ta không thể vắng bóng trên bầu trời.

Anh quay lại nhìn Quỳnh, mỉm cười:

- Lợn "độc" là ác lắm đấy!

Anh nắm tay Quỳnh nhìn đôi gò má cao và xương cổ nhô ra:

- - Cho cậu trực thêm một ngày, ngày kia cậu phải vào viện kiểm tra sức khỏe. Mình không thể nhân nhượng hơn nữa, ông Phổ đã đề nghị mình đến lần thứ ba rồi...