← Quay lại trang sách

Chương XXVII ❖ 1 ❖

Trên đường về nhà, Hảo phân vân khi nghĩ đến điều Hoàn viết trong thư: "Em sắp có chuyện cần đến chị góp ý kiến" và "chị viết thư rủ anh Quỳnh về để nhận các em". Rõ ràng là cô em mới năm thứ nhất đại học đã bắt vào chuyện yêu đương. "Các em" là những ai trong khi Thắng đã đi bộ đội? Chắc là Tết này Hoàn đưa người yêu về giới thiệu với gia đình.

Hảo nhớ đến chuyện yêu đương giữa Thùy và Đông ngày trước.

Một tình yêu đến sớm với các cô sinh viên thường không lợi gì cho việc học tập. Nhất định mình phải khuyên nhủ Hoàn. Mình sẽ bảo nó lui chuyện đó lại đến lúc ra trường, hoặc ít nhất là vào năm thứ ba thứ tư.

Niềm mong mỏi được gặp lại mẹ, được sống một cái Tết êm ấm trong gia đình, đã kèm thêm nỗi băn khoăn vì chuyện của cô em. Hoàn vốn giống tính mẹ kín đáo, nói năng nhẹ nhàng, nhưng khi đã có ý kiến rối thì không dễ thay đổi. Hoàn học rất khá về các môn tự nhiên. Khi thi đại học bạn bè đều khuyên nên ghi nguyện vọng vào Tổng hợp, Bách khoa, hoặc sư phạm để được học ở Hà Nội. Bách khoa, Tổng hợp là những trường đầu đàn, còn học sư phạm thì sau này khi ra trường có thể xin vẽ ở gần nhà. Nhưng Hoàn cứ quyết định thi vào Xây dựng, một trường đại học có điểm chuẩn thấp và ở mãi tận Hương Canh, Vĩnh Phú. Hảo khuyên em, Hoàn cũng không nghe và chỉ nói: "Em thích Xây dựng". Với vấn đề này càng không dễ...

Tàu ngày Tết đông kinh người. Chiến tranh vẫn không làm cho mọi người quên cái Tết cổ truyền, ngày mà những người con cần tụ tập dưới mái gia đình. Bộ đội đi tàu cũng rất đông. Có những toa tàu dành riêng cho bộ đội. Đây là những người đi thẳng ra tiền tuyến. Có người được về nhà trong dịp Tết trước khi đi xa. Hảo phải ngồi trên một toa đen chở hàng không có mái. Suốt đêm, cô không chợp mắt.

Thành phố Nam Định như già yếu đi vì chiến tranh. Dân phố đã sơ tán nhiều. Những ngôi nhà mái ngói bọc rêu, cửa đóng im ỉm.

Những cánh cửa lùa cũ kỹ. Những bức tường lâu ngày chưa dược quét vôi lại. Hai bên hè phố, gạch lát vỡ thêm nhiều, lại có thêm những hố tránh bom làm mất cả lối đi. Thương Nam Định quá! Thành phố dệt êm đềm này là đối tượng của bom đạn địch suốt mấy năm qua. Đã không kiến thiết được gì thêm, lại bị tàn phá. Hảo đi qua thành phố lúc nào không hay. Mỗi lần trở về Nam Định, cô lại thấy thành phố quê hương của mình như bé nhỏ đi.

Hoàn đang ngồi rửa lá gói bánh chưng ngửng đầu thấy chị, mắt sáng lên.

- Em đang lo chị không về.

- Mợ đâu?

- Mợ còn phải đi làm sáng hôm nay. Cụ lúc nào cũng bận.

Hảo nhìn quanh thấy nhà trống vắng, mọi vật chẳng khác gì lần trước cô về. Cô mừng khi nghe em nói mẹ bận bịu nhiều. Có công việc mẹ sẽ khuây khỏa di...

- Chị về có một mình thôi à?

- Còn mấy mình nữa!

- Anh Quỳnh đâu?

- Anh ấy đi mặt trận hơn một tháng nay rồi!

- Anh Quỳnh cũng đi?

- Chuyến này, ai mà không đi!

Mặt Hoàn đang tươi tỉnh bỗng trở thành trầm ngâm.

- Nhà gói bánh chưng à?

- Mợ định đem đi luộc nhờ. Nhưng em bảo cụ luộc ở nhà. Ngôi canh nồi bánh chưng cho vui để đón giao thừa nghe Bác Hồ chúc Tết.

Hảo bầy mấy gói mứt, kẹo lên bàn thờ.

- Nhà chưa có cành đào à?

- Trưa nay, ở nhà máy về mợ sẽ mua.

Hảo đưa cho em mấy gói tôm, mực mua của cửa hàng hợp tác trước khi về và gói bóng, hàng của cơ quan phân phối cho cán bộ. Việc nhà, Hoàn thạo hơn Hảo nhiều. Những năm trước, mỗi dịp Tết về gia đình, mọi việc chuẩn bị, nấu nướng vẫn do mẹ và cô em gái chỉ huy.

- Mợ có khỏe không?

- Mợ gầy...

Hai chị em nhìn nhau. Cả hai đều cảm thấy như mình có lỗi.

- Biết vậy, ngày đó em nghe chúng nó thi quách vào Sư phạm.

Mấy chị em đi hết, chẳng còn ai ở nhà với mẹ. - Cô em gái nói.

Nó nghĩ đến mẹ nhiều hơn mình... Nhìn cô em hết chạy xuống bếp, lại lên nhà, hai tay thoăn thoắt, Hảo thấy rõ Hoàn lớn hẳn lên. Nó đã có bóng dáng một người chủ gia đình. Nó giống như mẹ, một cô gái thành Nam tán tảo, ngọt ngào. Nếu nó lấy chồng trước mình thì cũng không phải là chuyện lạ...

- Nơi em học ngày nào cũng nhìn thấy máy bay của anh Quỳnh...

- Hoàn nói.

- Em làm như chỉ có một mình anh Quỳnh lái máy bay?

- Sao chị cứ ngăn không cho em lại chỗ anh Quỳnh!

- Vì anh ấy bảo chị đừng đến sân bay... Anh ấy đi vắng luôn. Vừa rồi địch lại hay đánh sân bay.

- Đúng đấy chị ạ. - Hoàn xác nhận - Em mà như chị, nếu nó đánh sân bay, anh ấy có cấm, em cũng cứ đến...

Nếu mình chỉ ở cách anh ấy một đoạn đường như nó, chắc chắn mình sẽ làm như vậy.

- Em cứ đinh ninh lần này chị về thể nào anh Quỳnh cũng về, ai ngờ chuyến này cả anh Quỳnh cũng đi...

Anh đang ở nơi nào, anh có thấy máy mắt không...? Nếu bây giờ có một phép lạ, anh bỗng về đây, tối nay em sẽ bắt cả nhà đi ngủ hết, ở nhà này em có quyền to như vậy, chỉ mình anh cùng với em ngồi canh nồi bánh chưng đợi giao thừa... Chỉ một ý nghĩ đó đã khiến cho lòng em rộn ràng, ánh sáng tràn vào nhà, hoa đào nở tung, em thấy cả một mùa xuân...

❖ 2 ❖

Hảo không hiểu là mẹ mình yếu hay khỏe. Đúng như lời Hoàn nói, mẹ gầy đi, tóc có bạc thêm chút ít, nhưng người mẹ như rắn chắc lại và mẹ nhanh nhẹn, hoạt động hơn trước rất nhiều. Khách đến làm việc với mẹ tới tấp: công đoàn nhà máy, hội liên hiệp phụ nữ, hội mẹ chiến sĩ, các bác dân phòng người nào cũng vội vã; họ bàn bạc những công việc tưởng chừng như thiếu mẹ là không xong, về nhà, thấy cô con gái lớn, mẹ nắm lấy hai tay, nhìn Hảo suốt từ đầu đến chân một lúc, rồi nói: "Tết này, mợ rất mong con về!". Nhưng sau đó, mẹ quay ra tiếp khách, và chạy ngược chạy xuôi chẳng biết đến những đâu, trao hết việc nhà cho Hoàn và Hảo.

Hoàn đã trình bày câu chuyện riêng của mình với chị. Thì ra không phải cô em gái muốn đi lấy chồng... Hoàn có một cậu bạn trai từ hồi bắt đầu học cấp ba. Cậu này quê ở nông thôn. Năm vừa rồi, Tuấn - tên cậu ta - thi vào Đại học Quân sự không được. Theo Hoàn nói, Tuấn học khá nhưng thi không đỗ vì trường Đại học Quản sự lấy điểm cao. Đợt này Tuấn được gọi đi bộ đội. Trúng tuyển xong, Tuấn lên Vĩnh Yên tìm Hoàn, và nói là yêu Hoàn. Đáng lẽ cậu ta chưa định nói chuyện này nhưng biết mình sắp đi xa, có thể lâu ngày mới gặp lại, nên đem tâm sự giãi bày. Cậu ta muốn Tết này sẽ đến thăm nhà và chào gia đình Hoàn trước khi đi...

Thoạt nghe, Hảo tưởng chuyện không có gì. Ngày Hảo còn ở tuổi Hoàn cũng đã có những trường hợp như vậy. Một đôi cậu học sinh tới bày tỏ tình cảm với cô khi hết năm học cuối cùng. Hảo lựa lời từ chối, rỗi mọi chuyện cũng qua.

- Vậy em định thế nào?

- Em chưa biết quyết định ra sao... Em hỏi ý kiến của chị.

- Chị hỏi thật... Em đã yêu cậu ấy chưa?

Hoàn ngập ngừng rồi nói:

- Trước kia em chỉ coi Tuấn là bạn, em có cảm tình với cậu ấy, nhưng em chưa bao giờ nghĩ Tuấn sẽ đặt vấn đề với mình. Nhưng từ lúc Tuấn lên gặp em lấn ấy, thái độ của Tuấn rất chân thành, em mới biết Tuấn chú ý đến em từ lâu, và em thấy thương Tuấn.

- Em nên suy nghĩ kỹ... Tình yêu không thể chỉ là tình thương?

- Em cũng biết như vậy. Bây giờ Tuấn sắp đi xa...

- Em vẫn có thể giữ tình bạn với Tuấn. Chớ nên lầm lẫn tình yêu với tình thương.

Hoàn ngồi im. Hảo tưởng như vậy là giải quyết xong. Nhưng rối Hoàn lại nói:

- Em vẫn phân vân chị ạ...

Hảo nhận thấy Hoàn có vẻ trầm lặng, suy nghĩ, khác với thói quen ít nói nhưng vô lo mọi khi. Cô biết vấn đề phức tạp hơn. Nhưng Hảo vẫn chỉ đánh giá đây là ý nghĩ bổng bột của người mới lớn, cô sẽ lựa lời khuyên Hoàn quên đi để tập trung vào việc học tập, chỉ cần nói ít lời khuyến khích cho bạn vui trước khi lên đường.

Buổi chiều, Hảo đang vợi nước đổ thêm vào nổi bánh chưng thì mẹ về. Bà giục Hoàn ra chợ mua thêm rau.

Hoàn đi rồi, mẹ ngồi ghé vào bên Hảo, hỏi ngay:

- Em Hoàn đã nói chuyện gì với con chưa?

- Rồi ạ.

- Con góp ý kiến với em thế nào?

- Con chưa nói gì nhiều, nhưng con định bảo nó chỉ nên giữ tình bạn, nó mới vào đại học năm đầu chưa nên nghĩ tới chuyện đó.

Bà ngồi im một lát rồi nói:

- Mợ thấy khó lắm đấy!

Hảo nhìn vẻ lo lắng của mẹ, hỏi lại:

- Nhưng em Hoàn nói trước khi Tuấn lên Vĩnh Yên thì nó có nghĩ gì đến cậu ta đâu?

- Đúng là như thế... Nhưng sau khi thằng Tuấn đặt vấn đề thì nó lại suy nghĩ nhiều, thoạt đầu thì nó thương, nhưng bây giờ mợ cho rằng nó đã yêu.

Hảo biết mẹ không mấy khi lầm trong chuyện này.

- Mợ đã gặp Tuấn bao giờ chưa?

- Hổi chúng nó còn cùng học cấp ba, nó đến mãi nhà này. Thằng bé xinh xắn, ngoan... Mợ đã nghĩ hai đứa có thể sẽ yêu nhau. Nếu bình thường, thì không có chuyện gì! Nó yêu nhau, sau này cho nó xây dựng với nhau. Nhưng bây giờ thằng Tuấn lại đi xa.. Điều mợ suy nghĩ nhiều, là hai đứa cùng một tuổi! Nhìn nét mặt hai đứa, chỉ ít năm nữa là con Hoàn sẽ già hơn nó. Em con, mẹ biết tính nó... Nó đã hứa hẹn với ai thì bao năm nó cũng chờ. Lỡ thằng Tuấn di một mạch mười năm như bố con thì sao? Em con chờ, nhưng khi nó trở về, hình thức chênh lệch, nó lại thay đổi ý kiến... "Trai ba mươi tuổi đang xoan...". Nó chẳng sao nhưng còn con mình...

Cô bỗng thấy mẹ già hẳn đi... Mẹ đã vắt kiệt cuộc đời cho các con. Những ngày qua; nỗi cô đơn vì chiến tranh đã nhiều lúc day dứt cô. Cô định về tìm nơi ẩn náu dưới mái nhà êm ấm, trong tình yêu thương của mẹ, của em. Nhưng ở đây cũng không yên. Lấn sau mình về, chắc mẹ còn gầy hơn, tóc mẹ sẽ bạc nhiều hơn vì có thêm chuyện này...

Tối ba mươi, hai chị em ngồi bên nồi bánh chưng. Hoàn ngập ngừng nói với chị:

- Em quyết định rồi chị ạ... Em sẽ bảo Tuấn cứ yên tâm đi chiến đấu, em nhất định chờ. Em còn phải học những bốn năm, Tuấn ở nhà hay đi thì cũng vậy, chúng em vẫn phải chờ nhau... Em sẽ chờ...

Hảo buột miệng:

- Lỡ hơn bốn năm thì sao?

Hoàn ngơ ngác nhìn chị:

- Đã chờ thì hơn bốn năm em vẫn chờ... Chị bảo sao?

Hảo im lặng, trách mình đáng lẽ không nên nói với em một điều như vậy, và cô lại nghĩ đến mẹ.

❖ 3 ❖

Sáng mồng hai, Hảo đang ngồi một mình thì một anh bộ đội trẻ măng bước vào.

Anh chiến sĩ mặc bộ quần áo màu lá cây xanh bóng, đeo một chiếc ba-lô chậc căng, bộ mặt tươi đỏ, nhanh nhảu chào Hảo:

- Chị ạ... Chắc chị chưa biết em?

Hảo đoán chính là cậu ta.

- Chú Tuấn phải không?

- Vâng ạ. Em đã được coi ảnh của chị nhiều lần... Anh Quỳnh có về không ạ?

- Anh Quỳnh không về được.

- Em cũng nghĩ thế, mặc dù Hoàn nói với em nhất định Tết này anh Quỳnh về. Em quên chưa chúc Tết chị...

Hảo mỉm cười. Tuấn lúng túng một lát rồi nói:

- Em chúc anh chị sang năm mới mạnh khỏe, chị công tác tốt và anh Quỳnh thì... bắn rơi thêm nhiều máy bay Mỹ.

- Tôi chúc chú lên đường bình an.

- Chi ạ... - Tuấn ngập ngừng - Các anh ấy nói kiêng chúc người đi chiến đấu bình an.

Hảo nhìn Tuấn, không hiểu vì sao lại có sự kiêng cữ này. Tuấn nói tiếp:

- Chị chúc như vậy thì cấp trên đưa em về coi kho!

- Vậy thì chúc chú sớm lập nhiêu chiến công vậy.

Chú bộ đội trẻ đã làm cho ngày đầu xuân vui hẳn lên. Tuấn ngó quanh:

- Bác và Hoàn đi đâu ạ?

- Mợ tôi đi chúc Tết. Hoàn sang hàng xóm, hẹn sẽ về ngay.

Hảo rót nước và mở một hộp mứt mời khách. Cô chưa biết nên nói chuyện với Tuấn ra sao. Từ sau khi trao đổi với mẹ đến giờ, Hảo cũng có những ý nghĩ như mẹ về chuyện giữa Tuấn và Hoàn.

- Chú đi bộ đội được bao lâu rồi?

- Thưa chị, đúng năm tuần.

- Bao giờ phải trở về đơn vị?

- Chiều hôm nay ạ.., không phải là về đơn vị, em lên Thường Tín nhập trạm, rồi đi thẳng vào chiến trường.

- Tôi tưởng phải học tập một thời gian rồi mới đi?

- Trên nói... không kịp. Chúng em vừa đi đường vừa học cũng còn phải hàng tháng mới tới nơi. Bọn chúng em vào bộ đội chỉ muốn đi thẳng luôn. Chờ đợi sốt ruột lắm chị ạ...

- Chú đi xa mà gia đình không có ai đưa tiễn à?

Tuấn cười:

- Em phải nói dối là đơn vị em đang tập hành quân, được phép tạt vội về nhà mấy buổi... Em ngại nhất là cảnh tiễn đưa. Nếu biết em sẽ đi xa, thế nào mẹ em cũng khóc. Em chỉ sợ mẹ khóc thôi, còn trên đời này em không sợ cái gì?

- Có sợ bạn gái khóc không? - Hảo vừa hỏi vừa chăm chăm nhìn Tuấn.

- Em nghĩ là... khi chúng em lên đường đi chiến đấu, trừ các bà mẹ, sẽ không có ai khóc.

- Chú cũng phải báo cho gia đình biết là chú đi xa chứ?

- Dọc đường em sẽ viết thư về. Em không muốn để mẹ buồn trong những ngày đầu năm.

Hảo ngập ngừng rồi nói:

- Em Hoàn đã nói chuyện với tôi... Tôi chỉ muốn hỏi chú, chú đã cân nhắc kỹ lưỡng về chuyện giữa chú với Hoàn chưa?.

- Em đã có hơn một năm để cần nhắc từ lúc em xin thi vào trường Đại học Quân sự. Hoàn đã bảo em phải chờ chị về để hỏi ý kiến...

- Ý kiến của chị à... - Hảo nhìn ra ngoài thấy Hoàn đang vội vã đi vào, cô nói tiếp - vấn đề này hai em tự quyết định với nhau.

Hảo lấy xe đi chúc Tết bên quê nội, để cô em ở nhà nói chuyện với anh bộ đội trẻ.

Trời mưa lâm thâm. Những hạt mưa phùn vào xuân đã ấm hẳn lại. Cô đạp xe thong thả trên đường và chợt nhận ra chỉ riêng cô đi chơi xuân một mình... Từ đêm qua đến giờ mình đã suy nghĩ, tính toán đủ mọi điều ngược xuôi cho cô em. Mình đã coi thường tất cả những ai có lối tính toán như vậy đối với tình yêu. Nhưng mình đã làm không khác gì họ đối với chính em mình... Nếu ngày hôm nay có anh đi bên em thì không ngày xuân nào đẹp bằng. Nhưng hôm nay, em chỉ có một mình, em vừa đi vừa tưởng như có anh ở bên, trong nỗi cô đơn mà em đang phải chịu đựng này em cũng thấy có một cái gì rất đẹp...

Cô chợt nhận thấy mọi người đang tụ tập trước loa truyền thanh ở ngã tư. Hảo vội đạp xe tới và dừng lại. Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin đêm qua quân ta đã tiến công ở hầu khắp các thành phố, thị xã, thị trấn ở miền Nam. Bộ đội ta đã tiến vào Huế và thành phố Sài Gòn...

Cô như không còn tin ở đôi tai của mình.

Suốt ngày Đài tiếng nói Việt Nam liên tiếp nhắc lại và đưa thêm những tin mới vế cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt tại miền Nam.

Trên những mái nhà cũ kỹ rêu phong, những bức tường gạch đổ nát vì bom đạn, vừa xuất hiện những đóa hoa muôn màu nhảy múa dưới mưa xuân đầm ấm.

Buổi tối hôm đó, Hảo cùng Hoàn tiễn Tuấn ra ga. Cô nhìn thấy những đoàn tàu đi vào chở đầy bộ đội.

Mùa xuân này mọi người đều xuôi về phía nam. Cả Tuấn cũng đi về phía đó.

Lúc hai chị em quay về nhà. Hảo có cảm giác như thành phố trống vắng hẳn. Tất cả thanh niên đều ra mặt trận. Ở thành phố nhỏ này chỉ còn có hai chị em cô.

❖ 4 ❖

Hảo về tới cơ quan. Tin chiến thắng lan tràn tại đây. Hệ thống loa phát thanh mở suốt ngày. Quân ta đánh vào tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn.

Cờ của Mặt trận Giải phóng tung bay trên cột cờ tại cố đô Huế. Hàng chục vạn quân đội Sài Gòn tan rã. Có những anh cán bộ mở đài bán dẫn nghe suốt đêm. Mấy bác quê ở miến Nam quây quần quanh ấm trà bàn chuyện trở về quê hương.

Mấy ngày qua, Hảo đã động viên mẹ: "Tình hình này, Tuấn có đi bộ đội cũng chỉ vài năm rồi về, trong khi đó ở nhà Hoàn vẫn đi học, đây mới chỉ là hai bên hẹn ước với nhau chứ có phải cưới xin gì đâu!".

Mồng ba Tết, lại có thư của dượng từ chiến trường gửi ra. Dượng cũng nói: "ngày sum họp của gia đình chắc không còn lâu nữa!". Khi hai chị em ra đi, mẹ đã vui một phần. Nhưng mẹ vẫn nói: "Chưa biết thế nào!". Mẹ hy vọng nhưng chưa hoàn toàn tin cuộc chiến tranh này ngày một ngày hai sẽ kết thúc. Hảo biết đây là tâm lý của một người phụ nữ đã sống nhiều năm chịu đựng sự chờ đợi. Thà giảm bớt đi một phần vui hy vọng còn hơn hy vọng quá nhiều rồi lỡ chẳng may lại thất vọng. Phải cổ dè sẻn niềm vui và làm quen với nỗi buồn. Những chuyện không may lớn nhất vẫn có thể xảy ra vào trước giờ phút kết thúc chiến tranh. Và cô đã chẳng góp phần làm cho mẹ mừng vui một cách quá đáng.

Hảo đang lau chùi lại đồ đạc ẩm mốc sau những ngày cô vắng nhà thì Lý bước vào.

- Quà tôi đâu? Bà giới thiệu với tôi mãi kẹo sìu và bánh đậu xanh Nam Định, chuyến này về nhà ăn Tết ắt hẳn phải có!

- Thành phố sơ tán hết, tìm đâu ra! Có đói thì mình bóc bánh chưng cho mà ăn. Trước khi đi, mẹ mình nhất định bắt phải mang theo mấy chiếc.

- Người đẹp cho ăn gì mà chẳng thấy ngon!

- Năm mới chẳng cần phải tán mới được ăn đâu.

Hảo bóc bánh chưng mời Lý.

Lý ăn một miếng khen chiếu lệ rồi buông đũa. Dường như cậu ta muốn gặp Hảo để nói chuyện gì. Quả nhiên, chỉ ít phút sau Lý bắt đầu dốc bầu tâm sự:

- Bà xem, cả trạm này có việc gì là không đến cái thân tôi. Cần đi công tác Cẩm Phả, Móng Cái, là tôi. Đi tìm địa điểm ở những nơi khó khăn Cái Bầu, Cái Tráp, cũng tôi. Lao động, tự vệ, cũng tôi... Thấy mình dễ bảo nên cái gì thủ trưởng cũng gọi tên mình.

- Mỗi người mỗi việc... ông nhận việc này thì người khác nhận việc khác chứ có ai được chơi!

- Nhưng bà đã biết chuyện Viện giao nhiệm vụ cho trạm mình cử một đoàn đi điều tra ở Khu Tư chưa?

- Điều tra gì?

- Điều tra rau câu.

- Bao giờ đi?

- Viện nói nên đi sớm. Johnson đang dồn bom đạn xuống Khu Tư.

Nghe nói lại có tôi đấy!

Mắt Hào bỗng sáng lên:

- Đi Khu Tư hay chứ! Mình chưa bao giờ được đặt chân lên tuyến đường phía nam. Tết vừa rồi người đi vào như nước, trông mà thèm!

Lý bĩu môi:

- Bà nói như vậy vì bà biết chắc là mình không đi! Trong lúc chúng tôi đi Khu Tư thì bà cũng đi... nhưng bà đi Tây...

- Ai bảo ông như vậy?

- Còn phải ai bảo, nữ ở trạm thì lần này chọn ai đi học nước ngoài?

- Tổ chức chưa nói với mình chuyện ấy... Nhưng lỡ mình chưa muốn đi học thì sao?

Lý liếc mắt nhìn Hảo với vẻ không tin:

- Trong thời buổi này, tôi chưa thấy ai từ chối đi học nước ngoài bao giờ? Cũng có mấy anh, mấy chị khi chưa được đi còn ỏe họe nhưng khi đã gọi đến tên là có nhường ai đâu!

- Mình không ỏe họe, mình chưa muốn đi cũng có lý do riêng của mình...

- Như vậy thì mời bà đi điều tra... Chỉ cần bà xin đi điều tra là bà Tuyến sẽ tôn bà làm chị.

- Mình không cần ai tôn mình làm chị.

- Nếu bà đi, tôi xin theo bà ngay. Không ai cãi là bà đã có kinh nghiệm về công tác điều tra.

- Tôi chẳng cần ông cho tôi đi tàu bay giấy, ngã đau lắm... - Hảo vừa nói vừa mỉm cười.

- Vì đã có người cho bà đi tàu bay thật.

Khi Lý đi rồi Hảo ngồi nhớ lại nhưng ngày đi điều tra. Mình chỉ mới biết một vùng bờ biển nhỏ hẹp của đất nước. Đất nước mình có hơn hai ngàn ki-lô-mét bờ biển... Nếu cần, em sẽ ở mãi với vùng nước lợ. Cả cuộc đời làm công tác khoa học của em nếu dành cho nó không phải là nhiều. Nhưng bây giờ em muốn đi tiếp. Em sẽ theo anh tới miền đất mà anh đang đi. Khó khăn, bom đạn chẳng làm em ngần ngại. Cứ nghĩ tới nơi đó đang có anh thì không gì làm em sợ hãi. Em muốn nhìn thấy cặp mắt anh vui mừng và kinh ngạc khi thấy em cũng có mặt ở vùng đất lửa. Em muốn được gặp anh tại đó trong ngày thanh bình đầu tiên của đất nước. Em cũng sẽ đi nếu không có anh, vì lần đầu đi điều tra, em chưa có anh. Nhưng bây giờ ở đó đã có anh, chắc biển sẽ đẹp hơn nhiều. Lần này, anh chẳng thể cấm em tới tìm anh. Ở giữa chiến trường, bom đạn làm cho mọi người đều trở nên bình đẳng. Em không muốn làm cô gái ngày xưa náu mình trong phòng khuê ra cửa đón người yêu trong giờ khải hoàn, chinh phu ngồi trên mình ngựa trở về...

❖ 1 ❖

Quỳnh và Hùng trở về Nội Bài sau khi bộ đội ta đã rút khỏi thành phố Huế. Tú và Đông sẽ về sau vì còn đi thăm một số sân bay đang được sửa gấp trên dọc đường.

Cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1968 khởi đầu vô cùng hào hùng và quyết liệt. Có những ngày họ tưởng như cả miền Nam sắp giải phóng.

Tình hình tại chỗ chưa cho phép các chiến sĩ không quân triển khai cuộc chiến đấu với bọn B.52. Họ thấy có thể tổ chức một sở chỉ huy cho không quân nếu dựa vào một đơn vị ra-đa (chứ không phải là một đơn vị tên lửa như dự kiến lúc đầu). Nhưng vẫn còn khó khăn lớn là ra-đa ta chưa nắm được địch. Địch đã biết ta có một số đơn vị tên lửa tại Vĩnh Linh, nên rất chú ý đề phòng. Trên màn huỳnh quang, máy bay B.52 được che phủ bằng một màn nhiễu ngày càng dày đặc.

Các chiến sĩ ra-đa cần phải có thêm thời gian. Và những sân bay của ta từ Vinh trở vào cũng chưa hoàn toàn sửa xong. Cuối cùng, Quân chủng đã biến bộ phận Tú thành một sở chỉ huy bổ trợ để điều khiển những máy bay vận tải ban đêm tới thả dù tiếp tế đạn dược và lương thực cho bộ đội ta đang chiến đấu trong thành phố Huế. Những người lái được lệnh nghiên cứu kỹ quy luật của các loại máy bay địch hoạt động tại hành lang, chuẩn bị cho nhiệm vụ chiến đấu mới trong thời gian tới.

Đêm đêm, Quỳnh và Hùng ngồi tại sở chỉ huy theo dõi đường bay của các máy bay địch trên bảng tiêu đồ. Họ chỉ thích thú được ít buổi đầu rồi sau đó đâm chán. Riêng Đông có vẻ say sưa hơn. Anh đã bắt chước trung đoàn trưởng Luân, làm một tập sơ đồ ghi lại tỉ mỉ những đường bay của máy bay địch. Riêng hoạt động B.52 thì những tình báo không rõ ràng. Nhưng Đông vẫn có một tập ghi lại những đường bay của B.52 do anh phán đoán. Anh rất sính công việc này làm cho Tú nảy ra ý nghĩ có thể đưa Đông lên làm công tác tham mưu ở trung đoàn.

Đông còn để ra một sáng kiến được Tú chấp thuận, là đưa tổ lái lên một mỏm núi để theo dõi bằng mắt những hoạt động của máy bay địch. Đối với Quỳnh và Hùng thì đây chỉ là những cuộc đi bộ và leo núi cho đỡ chốn chân vì nằm ngồi gò bó mãi trong hầm. Họ thích quang cảnh bên bờ nam sông Bến Hải hơn là những chiếc máy bay địch tới ném bom, trừ những lúc chúng phải đối phó với tên lửa và súng cao xạ của ta. Nhưng Đông thì lần nào cũng say sưa quan sát, ghi chép.

Quỳnh ngồi nhìn Đông vẽ những đường lượn rắc rối và hình thù những chiếc máy bay địch với ý nghĩ: không hiểu hắn mất công vào những trò này làm gì!

Nhân sáng kiến của Đông, Quỳnh đã đề nghị cho anh và Hùng đi sâu sang bên kia sông Bến Hải để quan sát máy bay địch hoạt động.

Anh rất thèm được đặt chân lên miền đất quê hương. Thực ra, bên kia sông Bến Hải vẫn là đất Quảng Trị. Từ đó tới Quảng Nam quê hương anh còn khá xa. Và phần lớn đất đai bờ bên kia Bến Hải đã nằm trong vùng kiểm soát của ta. Nhưng cái ranh giới chia cắt tạm thời hai miền đã tạo nên một miền Nam và một miền Bắc khiến cho anh có cảm giác bờ bên này là đất Tổ còn bờ bên kia mới chính là quê hương mình.

Những ngày Tết Mậu Thân, tiếng súng sục sôi bên kia bờ Bến Hải, tin thắng lợi liên tiếp bay về làm cho lòng Quỳnh nhiếu lúc như sôi lên.

Anh nhìn những đoàn bộ đội, dân công, những đoàn xe vận tải, xe đạp thổ nườm nượp đi về phía bên kia, cảm thấy như mình là một người đứng ngoài cuộc, một người bị bỏ rơi. Có lúc anh đã nảy ra ý nghĩ hay là mình cứ liều đi theo họ. Anh cảm thấy cái giây phút sung sướng tuyệt vời khi được đặt chân trên dải cát mịn màng pha cả nước ngọt của Trường Sơn và nước mặn của Biển Đông, đó là huyện Thăng Bình, quê hương anh... Nhưng đề nghị này không được Tú chấp thuận. Việc đưa người qua bên kia Bến Hải vượt khỏi thẩm quyến của Tú.

Bộ đội từ ngoài đi vào nghe giọng nói của Quỳnh và Đông lại lầm tưởng hai người ở trong mới ra. Họ mang cả bánh chưng ngày tết, thuốc lá và lương khô tặng các anh. Sự hiểu lầm này càng khiến cho Quỳnh ngao ngán.

Khi trận đánh tại thành phố Huế đã kết thúc, không còn cần tới những chuyến bay tiếp tế ban đêm nguy hiểm, Quỳnh thấy mình không còn việc gì để làm. Và anh cảm thấy đây chưa phải là trận đánh cuối cùng để kết thúc chiến tranh.

Cũng lúc đó có lệnh của Quân chủng cho họ quay trở ra.

❖ 2 ❖

Quỳnh về được vài ngày thì Luân từ trên Quân chủng xuống. Anh đã trở thành tham mưu trưởng Quân chủng. Luân xuống đơn vị nắm tình hình và duy trì chế độ bay. Từ ngày lên Quân chủng, hễ rảnh rỗi một đôi ngày, anh lại phóng xe xuống trung đoàn để bay. Phạm vi công tác của anh ngày nay rộng hơn trước. Nhưng anh đã nói thẳng với nhiều người nếu cấp trên cho anh được lựa chọn, anh sẽ xin trở lại trung đoàn bay cho tới hết chiến tranh.

Luân xuống ngay đại đội bay gặp Quỳnh.

- Thế nào, nhà thơ, vào Vĩnh Linh dự giao thừa Tổng tiến công, thích chứ? Bọn mình ở nhà ghen với các cậu. Đáng lẽ chuyến đi vừa rồi là của mình.

- Báo cáo anh vừa thích vừa buồn!

- Chuyện gì mà lạ vậy! Nhớ người yêu?

- Nhớ người yêu thì chỉ nhớ chứ không buồn...

- Tại sao buồn?

- Tất cả mọi người đều có công việc, bộ đội và dân đều vào Nam tham gia tiến công đồng loạt, riêng tôi và Hùng thì đêm ngồi tham quan ở sở chỉ huy, ngày lại leo lên núi tiếp tục ngồi tham quan.

- Cậu hiểu sai nhiệm vụ rồi! Quân chủng cho các cậu đi nắm thực tế ở chiến trường để nay mai đánh địch chứ không phải đi xem hội!

Luân tiếp tục giải thích một hồi về sự cần thiết phải nắm quy luật hoạt động của địch vì một ngày gần đây đơn vị Quỳnh sẽ chuyển vào đánh địch ở hành lang. Rồi Luân hỏi dồn Quỳnh về những quy luật hoạt động của máy bay địch. Nghe Quỳnh trả lời xong, Luân nói:

- Chỉ đáng điểm 2. Cậu thu hoạch rất xoàng!

- Anh Tú sẽ báo cáo với anh rõ hơn... Anh cũng nên hỏi cậu Đông.

Cậu ấy đã có cả một tập dầy những sơ đồ bay của các loại máy bay địch.

- Đông làm như vậy à?

- Vâng.

- Đáng lẽ tất cả các cậu đều phải làm như vậy. Khi Đông về, bảo cậu ấy mang tất cả tài liệu lên Quân chủng gặp mình ngay... Tại sao cậu lại không làm như Đông?

- Tôi nghĩ là tôi làm nhiệm vụ đánh B. Thấy những tình báo về B.

không rõ ràng, tôi đầm chán.

- Các cậu phải đánh cả B, cả F, cả A.C.130 nữa! Ở hành lang có loại máy bay gì, các cậu sẽ phải đánh hết! Cậu vẫn còn giữ cách nhìn của một chiến đấu viên chứ chưa có cách nhìn bao quát của người chỉ huy...

Quỳnh ngồi lặng im. Đồng chí chỉ huy đã nhận xét đúng về mình.

- Nhưng riêng cậu vẫn phải đặc trách loại B. Cố gắng bay cho thật tốt để sớm diệt lấy một vài thằng B. Đây là chuyện đau đầu của Quân chủng. Ai dám bảo một ngày kia chúng nó không đưa B. ra Hà Nội? Quần chủng đã chỉ thị cho ra-đa, tên lửa phải nghiên cứu thật khẩn trương cách đánh B... Đã bay phục hồi chưa?

- Quân y bắt tôi nghỉ nốt ngày hôm nay, mai mới được bay. Tôi đã ôn tập ở buồng lái xong.

- Đi hai tháng có nhớ bay không?

- Dạ... - Quỳnh tủm tỉm cười - Cũng bằng nhớ người yêu.

Luân cũng cười:

- Thế cũng tạm được, nhưng đáng lẽ phải nhớ hơn. Ngày mai, mình kiểm tra cho cậu... À này, anh Khang dặn mình bảo Bút cho cậu về Hải Phòng ít ngày thu xếp chuyện riêng. Nay mai... nếu địch tụt vài nấc thang, ngoài này sẽ rỗi một chút, nhưng khi các cậu vào trong kia thì lại bận hơn...

Quỳnh nín lặng. Anh đã nghĩ đến chuyện gặp lại Hảo và đang phân vân không biết có nên viết thư cho cô lên đây không. Nếu mình về đó, cô ấy sẽ hết sức bất ngờ. Phải đem lại cho cô ấy những cái vui bất chợt chứ không thể để cô ấy chỉ có chờ đợi... Mình cũng muốn thăm lại cái cơ quan rất mến khách, rất nhiệt tình. Lần này nếu anh Bút nói chuyện ấy, mình sẽ không chối từ...

❖ 3 ❖

Chuyến bay phục hồi chiều nay của Quỳnh sắp kết thúc tốt đẹp.

Sự thèm muốn bay nhiều ngày đã làm cho đáu óc anh phấn chấn khi được ngồi lại trong buồng lái, bàn tay điều khiển cần lái của anh như linh ra. Quỳnh đã giải quyết mọi tình huống trong khi bay rất chính xác.

Giống như một cầu thủ lâu ngày không được chạm tới trái bóng, giờ trở lại sân cỏ, bỗng thấy mình đá hay hẳn lên.

Từ sáng đến trưa, địch hoạt động mạnh. Buổi chiều, không gian êm ả. Các mạng lưới ra-đa đều báo cáo về không có địch. Như lời hẹn sáng hôm qua, Luân đã lên chiếc máy bay tập hai chỗ ngồi cùng với Quỳnh. Để phòng xa, họ vẫn mang theo hai quả tên lửa. Theo dõi chuyến bay, Luân tỏ vẻ hài lòng.

Quỳnh bắt đầu hạ độ cao, giảm bớt tốc độ, lượn vòng quanh sân bay chuẩn bị hạ cảnh. Anh định tâm sẽ đáp nhẹ xuống đường băng như một chiếc lá để kết thúc mỹ mãn chuyến bay trước cặp mắt của người chỉ huy. Máy bay đã ở độ cao một ngàn mét. Tốc độ chỉ còn năm sáu trăm ki-lô- mét giờ. Vòng bay ở trên sân đã sắp kín. Bỗng từ đài chỉ huy sân bay có tiếng hô rất gấp:

- F.4 bám phía sau!

Liền ngay đó, có tiếng hô tiếp:

- Ngoặt trái!

Quỳnh vội cho máy bay vòng gấp. Nhìn lại qua vòm kính, anh thấy hai đụn khói đang to dần. Mình vừa tránh được hai phát tên lửa!

Quỳnh biết mình và trung đoàn trưởng đã rơi vào một tình thế rất hiểm nghèo. Nhiên liệu của anh không còn nhiều. Anh chuẩn bị hạ cánh nên độ cao và tốc độ máy bay đều thấp không thể sử dụng tên lửa để đối phó với quân địch. Anh chỉ còn hy vọng đài chỉ huy sân bay sẽ thông báo kịp thời mỗi lần máy bay địch phóng tên lửa, và sẽ chọn được thời cơ hạ cánh như Bản - Mẫn đã làm trước đây.

Quỳnh mở cửa dầu, cho máy bay bổ xuống lấy thêm tốc độ và cơ động. Anh định lợi dụng dãy núi Tam Đảo để lẩn tránh địch và hy vọng các đơn vị cao xạ quanh sân bay sẽ bắn lên ngăn cản địch giúp mình kịp thời. Quỳnh chưa biết gần đây địch không đánh vào khu vực sân bay nên phần lớn các đơn vị cao xạ đã được điều đi nơi khác, chỉ còn lại hai trận địa trung liên ở hai đầu sân bay.

- Tám F.4! - Luân ngôi phía sau anh nói - Chú ý cơ động trên sân.

Tám chiếc máy bay địch thay phiên nhau công kích họ.

Máy bay của Quỳnh đã xuống thấp dưới một trăm mét. Nhưng bọn tiêm kích vẫn không chịu rời anh. Hết chiếc này đến chiếc khác từ những góc độ khác nhau lao xuống bắn tên lửa liên tiếp.

Theo lời thông báo từ mặt đất, Quỳnh luôn luôn phải kéo gấp cần lái. Những đụn khói mới nối nhau hiện qua vòm kính.

Quỳnh đã bay nhiều vòng trên sân lúc vọt lên, lúc bổ xuống.

Nhưng vì luôn luôn phải cơ động để tránh tên lửa nên tốc độ máy bay anh không tăng. Một chiếc F.4 đã nằm gọn trước máy ngắm chỉ cần anh dấn thêm một chút là có thể hạ nó gọn gàng bằng một phát tên lửa, nhưng vì tốc độ chưa đủ, anh đành phải bỏ miếng mồi ngon.

Luân nhắc:

- Kéo cao lên một chút! Tăng lực, thoát ra!

Quỳnh chợt nhớ là với độ cao này khi cần thiết họ sẽ không có điều kiện để nhảy dù. Anh tăng lực, kéo cần lái cho máy bay lên độ cao năm trăm mét. Nhìn đồng hồ, Quỳnh bỗng thấy lạnh người. Kim sắp chỉ số không. Động cơ làm việc của máy bay vẫn ở chế độ tăng lực.

Tiếng thông báo của đài chỉ huy:

- Địch đi hết rồi!

Quỳnh cảm thấy nhẹ hẳn người.

- Tắt tăng lực!

Luân nhắc anh tiết kiệm chút dầu thừa còn lại trong máy bay.

Không còn thời giờ vòng sang phải, Quỳnh khéo léo đưa máy bay vòng sang trái để hạ cánh từ đầu tây sang đầu đông. Với cách này anh rút ngắn được một đoạn bay.

Bỗng Quỳnh lại nghe có tiếng hô của đài dẫn đường:

- Còn một thằng! Ngoặt gấp!

Anh mở lại tăng lực đồng thời kéo gấp cần lái cho máy bay vòng sang phải. Một quả tên lửa còn nguyên vẹn bay vụt ngay trước mũi máy bay. Nó nổ rất xa. Lần này, máy bay không bị chấn động vì trái nổ.

Máy bay Quỳnh lượn được một vòng thì tiếng máy bỗng im bặt.

Động cơ đã tắt. Tốc độ xuống rất nhanh. Người anh lao về phía trước.

Quỳnh báo cáo đài chỉ huy sân bay:

- Hết dầu!

Nhưng chiếc tiêm kích vẫn chưa chịu rời anh. Lại có tiếng hô của đài chỉ huy:

- Cơ động gấp!

Hết tốc độ rồi. Độ cao lại chỉ còn một trăm mét.

Luân ra lệnh:

- Nhảy dù!

Quỳnh nghiêng máy bay sang phải, cải bằng, và lợi dụng tốc độ thừa kéo gấp máy bay lên độ cao năm trăm mét. Bên tai anh vẫn có tiếng thét "cơ động gấp!".

Quỳnh vừa kéo máy bay lên vừa bóp dù.

Anh nhìn thấy chiếc máy bay của anh tiếp tục lao về phía trước và một quả tên lửa đang đuổi theo nó. Phía dưới anh là chiếc dù đỏ của Luân. Đạn súng máy từ sân bay đang tiếp tục bắn lên. Anh kéo nghiêng chiếc dù cho nó lao xuống nhanh.

Quỳnh nhận ra mình rơi xuống ngay gần doanh trại. Luân tiếp đất sau anh, chỉ cách Quỳnh hai chục mét.

- Tại sao cậu ra sau lại xuống trước?

Quỳnh đáp lại bằng một nụ cười. Luân cũng cười.

Từ bếp anh nuôi có tiếng quát:

- Giơ tay lên!

Đồng chí trưởng bếp lao ra với khẩu súng trường. Chưa bao giờ người chiến sĩ già này lại nhìn thấy hai chiếc dù xanh, đỏ cùng rơi xuống một lúc. Những lần trước, người lái của ta khi nhảy dù thường dùng dù trắng.

- Ra đón tham mưu trưởng Quân chủng vào đi! - Quỳnh nói.

Đồng chí bác sĩ cầm một chai rượu và hai chiếc cốc chạy tới. Anh rót rượu đẩy đưa cho Luân và Quỳnh:

- Xin chúc mừng thành công của hai anh.

Luân vừa đón cốc rượu vừa hỏi:

- Cậu là thầy thuốc mà lại đưa rượu cho người lái?

- Trong trường hợp này rượu rất tốt cho sức khỏe của các anh.

Luân vừa chạm cốc với Quỳnh vừa nói:

- Qua kiểm tra vừa rồi, cậu bay rất tiến bộ. Hôm nay cho cậu điểm 5.

Anh giơ cao cốc rượu quay quanh nhìn mọi người rồi cạn chén.

Luân kéo Quỳnh lại bàn, ngồi xuống ghế.

- Phải xem lại mấy cậu ra-đa làm ăn thế nào...? Nhưng cậu thấy có vấn đề gì qua chuyện vừa rồi?...

Quỳnh ngồi im chưa hiểu tham mưu trưởng đang nghĩ gì.

- Giá có cậu Đông ở đây nhỉ?... Tại sao lúc đó cậu không cho thằng F.4 một phát tên lửa?

- Khi đó máy bay không có tốc độ...

- Vấn đề là ở chỗ ấy... Mình đã đinh ninh cậu và mình sẽ bị chúng nó bắn rơi. Loại máy bay này không có khả năng cơ động mặt bằng như Mic 17. Bản và Mẫn bữa trước thoát khỏi bọn địch vì dùng Mic 17. Nhưng với loại này, khả năng ấy không có, càng quay vòng với địch càng mất tốc độ... Trường hợp vừa rồi mà cậu đã giải quyết được thì đúng là phải cho cậu điểm 5... Nhưng nếu cộng vào điểm 2 sáng qua thì điểm trung bình của cậu chưa phải là cao. Phải cố gắng đạt toàn điểm 5...

❖ 4 ❖

Sau khi nhảy dù, Quỳnh thấy trong người bình thường. Anh đã từ chối được khỏi phải đi kiểm tra ở viện. Nhưng hai vệt máu đỏ tụ trong mắt vì gió vẫn giam chân anh một số ngày. Đồng chí bác sĩ trẻ thay bác sĩ Phổ đã chuyển về bệnh viện chuyên khoa của không quân, vẫn giữ nguyên nền nếp của người đi trước, hàng ngày ngoài việc nhỏ thuốc hai lần, còn bắt Quỳnh uống bao nhiêu loại thuốc khác và ăn theo chế độ bổi dưỡng.

Qua chuyến đi tuyến lửa, Quỳnh đã sống với những người dân Khu Tư, được chứng kiến những bữa ăn kham khổ của đồng bào và gặp những chiến sĩ từ chiến trường ra, họ xanh xao vì thiếu ăn và sốt rét rừng, anh thấy tất cả những gì mình được hưởng trong sinh hoạt hàng ngày những năm qua đều là quá đáng. Có những bữa anh ăn không ngon và cảm thấy xót xa trước những món ăn còn để lại. Không phải chỉ có người lớn mà các cụ già, các em nhỏ đã phải nhường phần thịt, phấn sữa, phần đường này cho mình. Mà công việc của mọi người đâu có kém nặng nhọc, khó khăn, nguy hiểm so với công việc của mình!... anh thấy khó chịu mỗi lần nghe các bạn đồng đội chê những món ăn không ngon, chê sữa có nhiều đường khó uống.

Sự chăm sóc đôi lúc làm cho anh bứt rứt.

Trong thời gian Quỳnh đi vắng, trung đoàn bay đã mạnh hẳn lên.

Đơn vị được bổ sung thêm nhiều máy bay mới. Lớp trẻ đánh lên chân.

Anh em đều đã cọ xát với địch. Người ít nhất cũng đã bắn rơi từ một đến hai máy bay địch. Cách đánh mới tỏ ra có hiệu quả khá bền vững.

Nhưng ta chưa thể tổ chức được những trận không chiến lớn với địch và càng chưa thể ngăn chặn chúng không xâm phạm đến vùng trời của ta. Đoàn Sao Vàng vẫn bị kêu là chưa phối hợp tốt với đoàn Sao Mai.

Luân đã có nhận xét: "Không phải chỉ vì tính năng của hai loại máy bay khác nhau mà còn có nguyên nhân thuộc về tư tưởng. Những chiến sĩ lái Mic 21 dựa vào ưu thế tốc độ không muốn kéo dài trận đánh, ngại khó khăn nên thường bỏ bạn vì tốc độ nhỏ không thể rút khi bị địch vây đánh".

Tại đại đội bay cũng có chuyện khiến cho Quỳnh không vui.

Chính trị viên nói trong những ngày địch đánh gắt, một người lái trẻ đã mấy lần kêu bị mất ngủ, không đi trực chiến. Đông chí này hồi mới về đơn vị tỏ ra khá hăng hái.

Anh đã bắn rơi một máy bay địch. Anh bắt đầu giở chứng sau khi một người bạn thân đánh nhau với F.4 phải nhảy dù, và dù không mở.

Từ đó, người bạn cùng buồng đã nhiều lần thấy anh ta trằn trọc và hút thuốc lá cả ban đêm. Đồng chí bác sĩ trẻ mới về đơn vị nhận xét đó là triệu chứng suy nhược thần kinh. Nhưng bác sĩ Phổ một lần xuống thăm đơn vị đã nói, theo sự nghiên cứu về y học của anh, không có "bệnh suy nhược thần kinh". Anh khuyên đồng chí bác sĩ trẻ phải tìm hiện tượng mất ngủ này ở những nguyên nhân khác.

Ở đoàn bay, cách giáo dục với người lái trong trường hợp này, vì cũng ít xảy ra, chưa có nhiều kinh nghiệm. Người ta thường rất gượng nhẹ. Anh em có thể tranh cãi, phê bình nhau rất nặng khi một người lái vi phạm kỷ luật bay hay kỷ luật chiến đấu. Nhưng người ta chưa biết nên làm thế nào với một người cáo mệt không đi trực chiến. Chính trị viên và các bạn đồng đội thường chỉ nói chuyện xa xôi với anh.

Từ hôm Quỳnh và tham mưu trưởng quân chủng gặp địch phải nhảy dù, anh lái trẻ lại mất ngủ.

Tối qua, Quỳnh đến gặp anh khi anh ngồi đọc sách một mình trong buồng. Quỳnh hỏi luôn:

- Tại sao đồng chí vẫn không đi trực?

Người lái có vẻ ngơ ngác vì biết đại đội trưởng đã được bác sĩ báo cáo rõ lý do vì sao anh phải nghỉ ngơi.

- Báo cáo đồng chí, tôi bị đau đầu suốt đêm qua.

Quỳnh nhìn thẳng vào mắt anh. Anh ta không chịu đựng được cái nhìn đó, cúi xuống. Quỳnh nói:

- Tôi biết người lái phải có sức khỏe tốt trước khi bay, nhưng tôi cũng biết nhiều chiến sĩ trẻ ở Trường Sơn chỉ ăn cháo loãng và rau rừng, nằm trên giường bệnh, có lệnh ra trận vẫn tung chăn trở dậy đi cùng đồng đội. Khi các anh ấy luồn rừng, lội sông trong người vẫn lên cơn rét, nhưng bò đến hàng rào của địch là cơn sốt hết luôn.

Người lái trẻ ấp úng:

- Tôi đau đầu... không ngủ được... Quân y bảo tôi nghỉ để bảo đảm an toàn chế độ bay.

- Tối nay, nếu khó ngủ, đông chí dùng thuốc an thần. Ngày mai, đồng chí đi trực. Nếu xảy ra chuyện mất an toàn, tôi chịu trách nhiệm.

Người lái ngồi im.

- Đồng chí cố gắng đi trực ít buổi, bệnh đau đầu sẽ hết.

Quỳnh quay ra. Trong trường hợp này, anh đã không tránh khỏi giận dữ.

Sáng sớm, đồng chí bác sĩ chạy vào hỏi anh:

- Có phải đại đội trưởng lệnh cho đồng chí Vấn hôm nay đi trực?

- Phải... Cần tiếp sức cho đồng chí ấy.

Lát sau, Quỳnh nhìn thấy anh lái trẻ lên xe ra sân bay.