Chương XXX ❖ 1 ❖
Trung tuần tháng Ba năm 1968, Johnson quyết định tăng quân số Mỹ ở miền Nam Việt Nam lên tới mức cao nhất: 549.500 người, và động viên lực lượng dự bị.
Nhưng đến ngày 30 tháng Ba, Westmoreland sau khi về Mỹ trở lại Sài Gòn, đã tuyên bố thay đổi chiến lược "Tìm và Diệt" của quân Mỹ tại miền Nam Việt Nam bằng chiến lược "Quét và Giữ". Như vậy, những cuộc hành quân quy mô lớn sẽ giảm, quân đội Mỹ chuyển sang một cuộc chiến tranh "nặng về chống du kích". Y còn tuyên bố: quân đội ngụy sẽ thay quân Mỹ trên toàn chiến trường và giữ vai trò chính.
Chỉ sau hai mùa khô trực tiếp đọ sức với ta trên chiến trường Việt Nam, Mỹ đã cảm thấy không thể tiếp tục cuộc chiến tranh này và tính đường rút lui.
Ngay ngày hôm sau 31 tháng Ba, Johnson tuyên bố ném bom hạn chế từ nam vĩ tuyến 20 trở vào để "nhằm tiến tới một giải pháp thương lượng". Ông ta đồng thời loan tin sẽ thôi không ra tranh cử tổng thống Mỹ một nhiệm kỳ mới. Sau này, Johnson nói: "tôi thực sự không tin mình có thể sống sót nếu ở lại Nhà Trắng thêm một nhiệm kỳ nữa".
Nhiều hãng thông tấn phương tây bình luận: "lệnh hạn chế ném bom 31 tháng Ba của Johnson chỉ là thay đổi tiêu điểm chứ không thay đổi cường độ ném bom". Riêng trên những tuyến đường giao thông vận tải của ta tại Khu Tư, cường độ đánh phá của địch đã tăng lên nhiều lần từ sau khi Johnson tuyên bố ném bom hạn chế. Có ngày địch dùng từ 300 đến 350 lần chiếc máy bay, gần bằng tổng số lần chiếc trong những ngày cao điểm khi chúng còn đánh phá khắp miến Bắc. Chúng huy động thêm cả những hạm tàu có cỡ pháo 406 ly đến vùng biển của ta, bắn vào các đường giao thông.
Những chiến sĩ không quân tiến về phía nam, đuổi theo máy bay địch:
Do địch đã hạ nấc thang đánh phá trên miền Bắc, cuộc hành quân của Tú lần này đàng hoàng hơn.
Đồng chí tham mưu phó trung đoàn đưa hẳn một đoàn ba xe chỉ huy, hai xe vận tải chở người và đồ đạc, một xe cấp dưỡng, một xe xăng dầu, và một xe con nữa đi chuẩn bị cơ sở.
Vài ngày sau, Tú lên đường cùng với cơ quan chỉ huy gồm các cán bộ tác chiến, dẫn đường, quân báo, một số đồng chí liên lạc và làm công việc phục vụ.
Xe chạy ban ngày. Thỉnh thoảng họ dừng lại nghỉ trên những thị trấn ở dọc đường 1. Những cửa hàng ăn, giải khát đã mọc lên rất nhanh. Ban đêm, ngủ nhờ nhà đồng bào. Số giường phản hiếm hoi của nhà chủ nhường bao giờ cũng dành cho các đồng chí lái máy bay và lái xe. Lái xe là người vất vả nhất trong cuộc hành quân. Nhưng các anh lái xe thường từ chối, họ thích ngủ trong xe hơn. Các cán bộ, chiến sĩ khác mắc võng ngủ ngoài hiên. Có anh nằm gọn trong một chiếc nong.
Đông tổ chức săn bắn để cải thiện cho những bữa ăn.
Hoạt động này bị Tú hạn chế một phần. Tú không cho bắn chim.
Mũi súng săn của họ chỉ có thể nhằm vào những chú cầy, cáo, những con nhông xuất hiện trên dọc đường.
Đoàn xe nghễu nghện đi giữa ban ngày trên con đường đầy rẫy những hố bom, trò chơi săn bắn trên dọc đường mang lại cho họ một ý niệm rõ ràng về thắng lợi đã đạt được. Tuy chưa phải là tất cả, nhưng một vùng trời đã thuộc về ta.
❖ 2 ❖Những sân bay mới làm hoặc mới sửa chữa ở phía nam đều là sân bay dã chiến nền đất. Ta lại phải che mắt bọn địch, không được để đường băng hiện hình lên giữa cảnh vật chung quanh. Đúng hơn, chúng ta chỉ sửa sang những dải đất hoang có độ nén tốt, tạm đủ chiều dài tối thiểu cho máy bay phản lực hạ và cất cánh. Đài chỉ huy sân bay là một túp lều nhỏ. Chữ T, dấu hiệu đầu đường hạ cánh, là hai cuộn vải trắng dải vội trên mặt đất trước khi máy bay xuống sân, ngay sau đó lại được cuốn cất đi.
Có sân bay nằm dọc một thung lũng hẹp, ba bề núi cao, một đầu là vực sâu, không có bảo hiểm. Người lái yêu cầu có gió ngược khi hạ và cất cánh, nếu không được như vậy thì gió phải thổi ngang. Nhưng tại đây chỉ có gió một chiều và không bao giờ có gió ngang.
Trừ sân bay Đồng Hới có một hàng đèn, còn tại các sân bay khác, máy bay sẽ phải hạ hoặc cất cánh ban đêm bằng những bó đuốc tẩm dầu do người cầm trên dọc đường băng. Họ phải giụi tắt lửa ngay khi nghe tiếng máy bay địch.
Một trở ngại lớn nữa là do chiều ngang quá hẹp của dải đất Khu Tư và địa hình phía tây nhiều núi non nên các sân bay này đều nằm gần bờ biển. Chúng ta sẽ rất khó giữ bí mật khi di chuyển máy bay, và khi cất cánh cũng dễ bị kẻ địch từ các tàu sân bay ngoài biển lao vào đè đầu.
Trước khi chuyển vào phía nam, những người lái đã phải đánh dấu vôi trên sân bay Nội Bài, tập cất cánh và hạ cánh ở sân bay ngắn và hẹp.
Hôm nay, Quỳnh và Nhự, hai người chỉ huy của hai đại đội, bay tới một sân bay mới để rút kinh nghiệm.
Tới khu vực sân bay, hai chiếc máy bay theo nhau lượn vòng.
Quỳnh căng mắt nhìn vẫn không nhận ra đường băng. Anh được biết đường băng chỉ rộng ba mươi mét. Dưới cánh bay là một bãi đất đỏ, lởm chởm cỏ xanh, có vẻ không bằng bặn chút nào.
Qua vòng lượn thứ hai, Quỳnh mới nhìn thấy chứ T màu trắng trên bãi đất.
Cũng lúc đó, Nhự nói:
- Chữ T đấy! Anh bay qua sân bay đi, tôi quan sát cho. Nếu thấy đúng đường băng thì anh xuống trước.
- Quan sát nhé!
Quỳnh giảm tốc độ bay dọc trên đường băng mà anh phán đoán qua dấu hiệu chữ T.
- Đúng rồi đấy! Anh đáp xuống đi. - Nhự lại nói.
Quỳnh thả càng và xin phép hạ cánh.
Anh từ từ kéo cần lái vẽ phía mình và giảm vòng quay đến tốc độ nhỏ nhất cho hai bánh sau của máy bay tiếp đất. Đáng lẽ như mọi sân, chiếc máy bay anh sẽ chạm đường băng êm ru, nhưng lần này, nó nhảy lên rất mạnh làm anh có cảm giác bánh xe sắp gãy. Anh cố giữ vững hướng đường băng và từ từ hạ nốt bánh trước. Máy bay anh vẫn tiếp tục nhảy lên chồm chồm, như chiếc xe chạy trên một bãi đất toàn ổ gà, khiến Quỳnh phát hoảng. Khi đã nhìn rõ trước mặt là những tấm ghi máy bay nằm lẫn với cỏ và đất đỏ anh mới yên tâm bóp chặt phanh, thu cánh tà và thả dù giảm tốc.
Chiếc máy bay dừng lại ở đầu mút đường băng.
Quỳnh xuống máy bay. Mấy đồng chí thợ máy chạy tới vui mừng reo lên:
- Đẹp quá?
Quỳnh nhìn lại, cả đường băng đã biến đi trong một đám bụi màu đỏ. Chiếc máy bay của Nhự phải tiếp tục lượn vòng chờ cho bụi tan đi.
Quỳnh nói:
- Bụi thế này thì làm thế nào khi cả biên đội cùng phải xuất kích.
Anh thợ máy vẫn vui vẻ:
- Không anh ạ... Tại bữa nay không có gió nên bụi tan chậm. Nếu có gió thì bụi hết ngay, các anh sẽ thoải mái bám đuôi nhau cùng lên...
Như vậy là mỗi lần cất cánh biên đội chiến đấu, cần phải có gió cạnh, Quỳnh nghĩ.
Khi Quỳnh thử cho máy bay cất cánh, khó khăn còn nhiều hơn.
Đường ghi trơn, độ ma sát ít, khiến anh chỉ lo trượt và lệch hướng, chạy đã được một lúc, vẫn chưa đủ tốc độ cất cánh. Anh luôn luôn có cảm giác sắp vọt ra ngoài đường băng. Khi máy bay rời mặt đất, anh mới tin là mình đã cất cánh an toàn.
Xuống máy bay lần này, Quỳnh gặp Tú.
- Tốt lắm! - Tú nói.
Cả anh ấy cũng nói như vậy! Anh ấy còn không nỡ phê bình minh đã rời đất quá muộn suýt nữa thì xảy ra tai nạn...
Tú nói tiếp:
- Ở sân bay này còn dễ, cách biển những bốn chục ki- lô-mét, có đường chân trời hẳn hoi... Vào trong kia, các đồng chí sẽ phải xuống những sân bay cách biển một, hai ki-lô-mét, phải hạ cánh trực tiếp không được phép lượn vòng, và khi máy bay cất cánh sẽ không có đường chân trời... Cậu có thấy làm được một sân bay như thế này giữa thời chiến, ngay trước mắt bọn F.4 mà chúng không hề biết..., đúng là một kỳ công!
- Quỳnh đã hiểu lời khen của Tú là dành cho bao nhiêu con người đã âm thầm chuẩn bị những bệ phóng mới dưới nắng lửa, gió Lào, những trận bão, những đợt rét cắt da, trước bọn cường kích và những họng pháo 406 ly của chiến hạm địch trên biển.
Anh biết mình sẽ còn gặp nhiều khó khăn hơn với những sân bay nằm sâu ở phía trong, nhưng anh cũng đã hiểu giá trị của mỗi mét đường băng tại vùng tuyến lửa này.
Trong đợt chiến đấu đầu tiên tại Khu Tư. Luân đã quyết định cho đoàn Sao Vàng dùng một sân bay mới nằm bên trên vĩ tuyến 20. Anh muốn tạo cho người lái một số thuận lợi trong thời kỳ làm quen với sân bay dã chiến và cuộc chiến đấu tại một vùng trời mới. Do lệnh ném bom hạn chế của Johnson, những người lái từ đây đánh với vào phía trong, sẽ có một không phận tạm thời không bị kẻ địch quấy nhiễu. Họ có chỗ luyện tập, nghỉ ngơi thoải mái và cả một hậu phương an toàn đã rút lui sau mỗi trận đánh trên không.
Trên đường vào, gần tới sân bay, một em bé xin đi xe nhờ.
Đông cho em ngôi cùng ghế và hỏi chuyện. Em bé tả làng mình.
Đông chợt nảy ra ý kiến đến thăm làng em, trước sau anh cũng phải tìm một chỗ đặt cơ quan. Tới nơi, Đông thấy mình sẽ không tìm được đâu tốt hơn. Làng không ở quá xa sân bay, không xa đường cái, lại gần đường dây tải ba thuận tiện để tổ chức mạng thông tin. Quanh làng có nhiều đầm nước và đồng ruộng cũng ngập nước. Đường vào làng cách một con ngòi nhỏ, xe có thể lội qua. Rất tốt về mặt giữ bí mật. Chẳng ai nghĩ một sở chỉ huy không quân lại ở giữa cánh đồng ngập nước thế này!
Làng trống nhiều dừa và cọ. Nhìn ngoài xanh um, chỉ thấy màu lá. Nhưng vào trong, lai quang đãng. Chỉ có điều nhà ở hơi ít, nhưng họ có thể dựng thêm những lều bạt. Một thuận lợi nữa là đồng bào rất sốt sắng. Ở đây, đã lâu không có bộ đội về.
Tú đến nơi, đồng ý ngay địa điểm mới. Các anh em lái đều trầm trồ khi đứng ngắm những rặng dừa. Đông vui vẻ nhưng vẫn không quên nói: "Đã đi đến đâu! Muốn hiểu thế nào là rừng dừa thì phải về Tam Quan quê mình!".
Sở chỉ huy ở trong một vườn dừa, dưới những chiếc lều bạt. Bảng tiêu đồ đặt trên một tấm phản vốn là chiếc giường cá nhân của bộ đội đem theo.
Đông vừa tranh thủ bay tập về, đi ngang sở chỉ huy. Tú ngồi trong, gọi vọng ra:
- Mời tham mưu trưởng vào đây, trao đổi một tí.
Đông lịch bịch đôi ủng đỏ bước vào, ngồi xuống chiếc ghế dài chính anh đã mượn của trường học cấp hai trong làng đem về.
- Chiều nay, anh Viễn vừa gọi điện.
- Chính ủy quân chủng?
- Bây giờ anh ấy là chính ủy của Đường dây 559. Anh Viễn đến tỉnh đội Thanh Hóa, biết bọn mình đang ở đây, tối nay anh Viễn sẽ vào thăm và bàn công việc với bọn mình. Tiếc rằng cậu Hùng lại vừa bay ra Nội Bài.
- Đồng chí ấy sẽ gặp Hùng ở Hà Nội?
- Không, đồng chí ấy có việc chỉ tới Thanh Hóa rồi lại vào đường dây.
- Hay tôi điện cho Hùng bay vào ngay?
- Không cần. Ngày mai anh ấy đã đi rồi.
- Vậy anh Viễn định bàn với mình chuyện chi?
- Chính ủy muốn chúng mình bắn hạ một vài thằng trinh sát OV.10 trên đường 12. Anh ấy nói bọn này rất "ác ôn". Anh em ta giấu xe kỹ mà nó vẫn phát hiện được cho bọn F.4 và B.52.
Chúng né tránh những trận địa cao xạ của ta cũng rất tài...
- Dùng máy bay thì nó không chạy đâu được!
- Cậu tính chuyện đó đi! Coi như đây là chỉ thị của chính ủy. Anh ấy không còn trực tiếp lãnh đạo bọn mình nhưng hiện nay lại là người lãnh đạo ở chiến trường... Mình muốn giao nhiệm vụ cho Hùng.
Mắt Đông sáng lên.
- Không nên... Hùng bay tốt, nhưng chưa quen đánh với loại tốc độ nhỏ. Thằng OV.10 này chỉ bay vài trăm ki- lô-mét giờ...
- Hai trăm thôi...
- Càng nhỏ lại càng khó đánh. Phải trao cho người quen đánh với tốc độ nhỏ.
- Cậu bảo trao cho ai...?
- Cho tôi. - Đông đột ngột nói bằng một giọng quả quyết.
- Nhưng dạo này cậu ít bay?
- Có đâu anh, từ hôm ở Vĩnh Linh ra, tôi bay gần bằng thằng Quỳnh.
Tú ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Đồng ý. Tối nay, nếu chính ủy vào, cho cậu hứa trước với chính ủy...
- Anh hứa hộ tôi. Tôi chỉ quen khi làm xong rồi mới báo cáo.
Tú nhìn Đông. Gần đây, anh đã tin tưởng ở Đông. Luân vừa qua cũng khen ngợi khi nghe Đông báo cáo những quy luật hoạt động của máy bay địch ở hành lang.
- Tùy cậu... Nhưng cố gắng làm sớm. Đi một người hay hai?
- Một thôi!... Thằng nhép!
- Cậu vừa mới nói với mình là khó mà đã chủ quan ngay.
- Khó chỉ ở chỗ nó có tốc độ nhỏ...
❖ 4 ❖- Bổn giờ chiều. Đông được lệnh cất cánh.
Sở chỉ huy cho bay ở độ cao bốn ngàn mét với tốc độ một ngàn ki-lô-mét giờ.
Máy bay của Đông qua Đô Lương. Một vùng rừng núi hiện ra trước mắt. Mặt trời còn tương đối cao nhưng phía xa rừng cây đã ngả màu tối sẫm.
Có lẽ đã tới Tân ấp. Tại đây có đặt trạm liên lạc.
Đông bóp mi-crô làm tín hiệu. Hai tiếng loạch xoạch vang lên trong tai nghe. Trạm liên lạc đã trả lời. Để giữ bí mật, nên không dùng vô tuyến điện trên đường bay.
Dưới cánh, qua những lớp mây mỏng, chỉ còn toàn rừng núi màu tím biếc có những đám mù trắng đang bốc lên.
Sở chỉ huy bắt đầu thông báo:
- Một chiếc tốc độ chậm đang hoạt động khu vực đường 12. Độ cao bốn ngàn.
Con đường đỏ đã lượn khúc quanh co phía dưới. Đông nhiều lần đưa mắt nhìn quanh vẫn không thấy bóng dáng của địch. Chắc máy bay địch màu xám, lại bay với tốc độ nhỏ nên dễ lẫn vào nền núi buổi chiều.
Sở chỉ huy vẫn thông báo địch ở hướng cũ.
Đông cho máy bay hạ độ cao xuống ba ngàn rưỡi. Anh hy vọng nhìn thấy bóng thằng địch trên nền trời. Anh giảm thêm tốc độ và bay tiếp theo hướng 360° về phía bắc.
Quả nhiên, nó đây rồi. Thằng địch đã hiện hình trên nền một đám mây. Chiếc máy bay hai thân, hình thù khẳng khiu, nom kềnh càng, giống như một cái bừa. Anh lấy làm lạ tại sao nó như thế kia mà lại bay được.
Đông đã nhận thấy khó khăn của công việc anh sắp phải làm. Tốc độ địch rất nhỏ. Có khi còn dưới hai trăm ki-lô-mét giờ.
Địch dùng động cơ cánh quạt, nên rất ít nhiệt. Máy bay anh đang ở tốc độ thấp nhưng vẫn là tám trăm ki-lô-mét giờ. Anh chỉ mang loại tên lửa theo nhiệt.
Đông tiếp tục thu bớt ga, mở cánh cản. Tốc độ anh còn lại sáu trăm. Đây là tốc độ tối thiểu để bắn tên lửa. Với tốc độ nhỏ này khi quả tên lửa thả ra, độ rơi sẽ nhiều.
Đông vòng theo địch. Nhưng địch cũng bắt đầu bay vòng.
Nếu địch nhìn thấy mình mà cơ động thì sẽ rất khó bắn rơi nó, Đông nghĩ. Phải hành động thật nhanh. Anh kéo cần lái vọt lên, lao theo địch, cải bằng máy bay, bắn luôn một phát tên lửa.
Trái tên lửa chui sát dưới bụng máy bay địch, lóe lên một ánh lửa màu da cam.
Chiếc máy bay hai thân lộn nhào mấy vòng rồi rơi xuống.
- Địch lộn rồi! - Đông reo lên.
Sở chỉ huy lên tiếng ngay:
- Đi về!
Nhưng anh chợt lại nhận thấy chiếc máy bay ở phía dưới đã cải bằng và bay tiếp. Cái bừa xấu xí vẫn chưa rơi.
- Nó vẫn còn bay được. Bắn nốt quả nữa. - Đông báo cáo lại với sở chỉ huy.
Lần này thằng địch đã nhìn thấy anh. Mỗi lần anh lao tới, nó đổi hướng rất nhanh. Muốn bắt được địch, phải có tốc độ hơi lớn. Nhưng với tốc độ lớn mỗi lần vồ trượt, máy bay anh lại vọt cách nó một quãng xa.
Đông đã kéo theo khá mệt mà vẫn chưa đặt lại được mục tiêu vào vòng ngắm. Chiếc máy bay địch gần như dừng lại trên không và chỉ chờ anh lao tới là quay ngoắt tránh đòn. Chắc nó cũng biết mình chỉ còn một phát tên lửa và tránh được phát tên lửa này là nó sẽ ung dung bay trở về.
Núi rừng bắt đầu tối sẫm. Nếu nó hạ ngay bớt độ cao, lẫn vào núi thì nó sẽ thoát. Làm cách nào đây? Mình chỉ còn rất ít thời giờ.
Đông đã nhận thấy thằng địch này hay cơ dộng sang trái, anh quyết định kéo vào một lần cuối cùng vì trận đánh đã quá lâu, sở chỉ huy mấy lần giục về.
Đông lại lao lên. Đúng là nó ngoặt sang trái. Anh cũng ngoặt theo, cải bằng, bắn nốt quả tên lửa còn lại.
Trái tên lửa nổ cách máy bay địch khoảng dăm, bảy mét.
Ánh lửa lóe lên giữa một đám khói trắng.
Chiếc máy bay địch lộn một vòng và đâm thẳng xuống đất.
Bây giờ Đông mới lại nhìn thấy con đường 12 màu đỏ lượn khúc giữa núi rừng.
❖ 5 ❖- Sau một hồi kéo co với máy bay địch, Đông cảm thấy mệt nhoài.
Anh đang định nhìn đồng hồ chỉ hướng để xác định đường bay về, bỗng thấy buồng lái tối sầm.
Đông cố định thần, xem có chuyện gì vừa xảy ra. Cả buổng lái vụt sáng đỏ như sắp bốc cháy. Toàn bộ đồng hồ, các đèn bay lại hiện rõ mồn một trước mắt anh. Tiếng ra- đi-ô lọc xọc liên tục trong tai nghe. Máy bay của anh hết bị giật sang trái lại sang phải. Những tia chớp lóe lên liên tiếp trước mắt anh.
Nguy rồi! Đông đã nhận thấy mình vừa lọt vào một đám mây tích điện. Anh vội giảm bớt tốc độ cho dễ điều khiển máy bay.
Luồng khí trong đám mây luôn luôn thay đổi, dồi lên dồi xuống chiếc máy bay. Những tia chớp ngày càng nhiều.
Bây giờ không thể nhảy dù. Nếu kéo máy bay lên, anh sẽ không thể thoát ra vì mây CB thường cao tới hơn mười ngàn mét. Chỉ còn cách kéo xuống. Anh mong là mình chỉ lọt vào cạnh trái núi mây.
Máy bay lao xuống, những ánh chớp bớt đi.
Nhưng Đông bỗng nhận thấy động cơ của máy bay đã ngừng chạy. Không biết mình còn mở máy được một lần nữa không?... Nếu máy ngừng chạy thì chỉ còn cách nhảy dù.
Nhưng trước hết vẫn là phải thoát được đám mây quái ác này! Bây giờ anh chỉ còn dùng tốc độ thừa trượt xuống, đợi máy bay ra khỏi mây. Mình có thoát khỏi nó không? Toàn bộ buồng lái vẫn đỏ rực.
Máy bay bớt rung. Màu đỏ chuyển sang màu vàng. Buồng lái chợt tối lại. Rồi lại tới một màu trắng đục như sữa. Có lẽ sắp thoát rồi! Anh tiếp tục nghĩ đến chuyện mở máy hoặc nhảy dù...
Anh đã nhìn thấy mặt trời vàng rực trên đầu núi. Đông cho máy bay bay bằng để giữ độ cao.
Đông ấn nút mở máy. Mấy giây chờ đợi kéo dài như hàng giờ.
Máy bay rung lên. Đèn trên bảng T.10 bật sáng.
Bây giờ anh mới nhớ đến đồng hồ định hướng. Và lại nghe thấy tiếng đồng chí sĩ quan dẫn đường:
- 32!... 32 đâu... 32!...
- Đây rồi! - Đông vừa đáp vừa thở phào.
- Sao mãi không liên lạc?
Đồng chí sĩ quan dẫn đường vừa như gắt vừa như reo lên.
- Không có chuyện gì. 32 đang trở về...
Có nên để mọi người biết mình đã lao vào mây tích điện không, Đông vừa bay vừa tự hỏi. Khi nhận nhiệm vụ mình coi nó như cỏ rác. Nhưng rồi nó đã làm mình mệt bở hơi tai, mình mất cả tỉnh táo, đâm đầu vào giữa đám mây CB. Nếu mình phóng trượt nốt quả tên lửa thứ hai thì nó sẽ lừng lững vừa đi vừa cười trước mũi mình! Thiếu chút nữa mình đã vứt cả máy bay, và nếu có nhảy dù an toàn thì chỉ còn cách uống nước suối, mò mẫm luồn rừng ra đường 12, xin đi nhờ xe để trở lại đơn vị...
Những ý nghĩ ấy giày vò Đông suốt trên đường về.