Chương III -
Trở lại Constantinople, người ta có thể nhìn thấy mười lăm chiếc thùng rỗng chồng lên nhau, đang “lắc lư” đi qua một con đường hẹp và đông. Nếu dưới chồng thùng rỗng này có người thì cũng khó mà nhìn thấy.
Tuy vậy, lát sau, chúng ta có thể nhận ra Stavros đang vác chồng thùng rỗng đó. Hôm nay là một ngày mùa hạ nóng bức, và Stavros ướt đẫm mồ hôi, có vẻ mệt mỏi.
Ngồi dưới bóng mát một nhà kho, những người phu khuân vác đang ăn trưa, Stavros không có gì để ăn trưa, nhìn những kẻ khác ăn. Một người phu tên Gabaret, ăn đã no, và định ném mẩu bánh còn lại đi.
Stavros vội ngăn lại: “Đừng. Đừng vất đi.”
Chàng giật lấy và ăn ngấu nhiến.
Gabaret: “Tại sao mày không lấy vài xu mua bánh mà ăn?”
Stavros mỉm cười. Nhưng nụ cười của chàng bây giờ có một cái gì bí hiểm.
Đằng sau một tiệm ăn. Vào ban đêm, đầu mùa đông. Stavros và vài người nghèo khổ đang đứng chờ ném thức ăn thừa ra. Ngay khi thức ăn ném ra họ vội vàng chạy đến lượm. Một con chó cũng cố gắng chen vào, nhưng Stavros đuổi nó đi.
Gabaret nhìn chàng. Lão là một người có học trong đám phu khuân vác. Lão độ năm mươi tuổi, khôn khéo, chua chát rắn rỏi, Stavros làm lão ta chú ý.
Gabaret: “Ê, anh kia. Coi kìa.”
Lão chỉ ra đường.
Một con lừa mẹ và lừa con mới đẻ đi qua. Chủ hai con lừa đã khuất sau một cánh cửa, bận việc trong chốc lát, Gabaret chế giễu: “Sữa tươi đó.”
Ngày tháng trôi qua, tháng mười một lạnh và mưa nhiều, Stavros và Gabaret đang làm việc. Bây giờ Gabaret thấy thương chàng thanh niên, và họ làm việc cặp chung với nhau. Stavros rắn rỏi, dẻo dai.
Lúc này là buổi chiều một ngày dài đen tối, u ám, và cũng là lúc những người phu khuân vác được trả tiền. Vài con điếm trẻ đứng chờ gần đó. Một con điếm khá hấp dẫn, nhìn Stavros chăm chú.
Gabaret: “Tao lạnh quá. Đêm nay tao cần ngủ với gái. Mày có muốn đi theo tao không?” Stavros lắc đầu. Lão tiếp: “Tao trả tiền cho mày mà.” Stavros lại lắc đầu. “Mày cần món đó.”
Gabaret làm một cử chỉ thô bỉ diễn tả cái sự cần thiết đó. Stavros không thèm nhìn. “Tôi chẳng cần gì cả”.
Gabaret: “Mày đã bao giờ ngủ với gái chưa?” Stavros lắc đầu. “Mày có muốn ngủ với một con không?”
Stavros: “Cha tôi không muốn tôi làm chuyện đó”.
Gabaret làm một cử chỉ thô tục chế giễu cha của Stavros. Lúc đó, Stavros vừa được trả tiền công và bỏ đi.
Gabaret: “Mày đi đâu đó?”
Stavros: “Tôi còn phải làm một việc khác.”
Gabaret: “Lúc này? Việc khác? Ban đêm?” Stavros gật đầu. “Cầm cái này”. Lão trao cho Stavros cái móc hàng mà những người phu luôn luôn mang theo người. “Thà mày lấy cái này để tự tử còn hơn”.
Việc làm ban đêm của Stavros là rửa chén bát trong một tiệm ăn. Mặt chàng trắng bệnh như xà phòng. Một con bếp, khoảng mười lăm tuổi liếc mắt với chàng. Chàng chăm chú vào công việc. Cô ả đành thôi, kiếm thức ăn.
Một buổi sáng mùa đông. Tuyết rơi. Trong một nhà kho thaapsm nơi chưa những chiếc xe kéo được dùng để chở thực phẩm, hàng hóa từ kho ra chợ, hay từ chợ này đến chợ khác, Gabaret đi lại phía một chiếc xe kéo, và lay gọi một người nằm đó. Stavros nhảy dựng lên, rút dao ra, như một con thú dữ, sẵn sang đối phó với mọi đe dọa.
Stavros: “Té ra ông ở đây, đâu cũng đầy dẫy bọn trộm cắp. Như ranh. Mấy giờ rồi vậy?”
Gabaret: “Dậy đi thôi. Dến giờ rồi. Người ta bắt đầu làm việc cả rồi. Mày không lạnh sao? Stavros lắc đầu. “Tối nay mày đến nhà tao mà ngủ”. Stavros lại lắc. “Mày cần ngủ được một giấc ngon”.
Stavros: “Tôi không cần gì cả”.
Rồi với vẻ lanh lẹn vui tươi, chàng nhảy xuống khỏi chiếc xe kéo.
Stavros: “Lạy Chúa. Thôi đi. Đi. Ông bạn già”.
Stavros và lão già kéo hai chiếc xe kéo tay qua những con đường ngập tuyết, song song bên nhau.
Gabaret: “Tiền vé tầu bao nhiêu?”
Stavros: “Một trăm lẻ tám đồng.”
Gabaret: “Bây giờ mày được bao nhiêu rồi?”
Stavros: “Việc gì đến ông!”
Gabaret: “Bao nhiêu rồi?”
Stavros: “Bốn đồng mấy cắc. Rồi sao?”
Gabaret: “Mày hy vọng sống bao lâu nữa?”
Stavros không trả lời. Huýt sáo một cách bực bội. Gabaret nhìn chàng.
Gabaret: “Cái áo đệm lót lưng của mày mục rồi!”
Thời tiết thay mùa. Ánh nắng vàng vọt chiếu xuống khu chợ. Mùa xuân đã sang. Một cuộc cãi vã diễn ra. Một người phu từ chối vác một kiện hàng quá nặng. Hắn ta ném kiện hàng xuống đất.
Người phu: “Kiện hàng này chỉ có súc vật mới chịu nổi. Đi kiếm một con lừa!”
Người cai nhìn quan tìm kẻ không bao giờ từ chối một công việc nặng nhọc nào. Hắn gọi lớn: “Ê! Mỹ! Mỹ!”
Stavros đang ngồi trên lề đường vá lại tấm đệm lót lưng nghe gọi, đứng lên, khoác tấm đệm lót lưng lên vai, xóc xóc cho ngay ngắn trên lưng rồi chạy lại bên người cai. Chàng đã phải chấp nhận đương đầu với những người phu khác trong công việc, vì họ ghen tức với chàng, khó chịu với chàng, một người không bao giờ từ chối bất cứ công việc gì. “Mỹ! Mỹ!” tiếng đôi đó đã thành biệt hiệu của chàng và được gọi lên với tất cả giọng khinh bỉ có thể có được bởi những đồng nghiệp của chàng.
Thời gian trôi qua. Mùa hạ lại đến. Gabaret đi qua khu chợ, trộm một trái dưa hấu từ một chiếc xe đi ngang. Lão đi về phía Stavros, đang nằm ngủ trên một đống rau cải thối. Chàng trai ôm chặt tấm đệm lưng dùng để khuân vác, làm như đó là tất cả gia tài trên đời này của chàng. Mặt chàng bây giờ xanh xao, mệt mỏi. Chàng sắp đến hồi kiệt sức.
Gabaret nhìn chàng trai, rồi lấy mũi giày đạp vào nách chàng ta, làm cho Stavros thức dậy. Chàng ngơ ngác nhìn, hốt hoảng: “Mấy giờ rồi?”
Gabaret: “Còn dư thì giờ”.
Lão bẻ đôi quả dưa, đưa cho Stavros một nửa.
Stavros: “Tôi không thể nào mở mắt nổi. Lúc nào tôi cũng muốn ngủ gật.”
Gabaret: “Mày đừng lo làm gì cho mệt. Mày sắp chết rồi.” Lão vỗ nhẹ vào bụng Stavros: “Thằng nhỏ nặng mấy đồng cân rồi?”
Stavros: “Cái gì? À tôi hiểu. Bảy đồng mấy hào.”
Gabaret ngấu nghiến ăn dưa: “Tiền lẻ! Có hai thứ tiền. Tiền lẻ và tiền chẵn. Tiền lẻ như một con điếm. Mày nhìn đồng tiền coi. Nó đã chạy qua tay mọi người. Buổi sáng mày thức dậy, só đã sang tay người khác. Nhưng tiền chẵn thì khác. Tiền chẵn như số tiền mày cần…”
Stavros đã ngã xuống lại. Gabaret cầm miếng dưa còn trên tay Stavros và ăn nốt.
Stavros và Gabaret đứng ngắm mặt trời xuống trên bến tàu. Khu bến tầu là nơi những đôi tình nhân thường thích đi dạo mát. Hai cô gái đi qua. Gabaret nhìn thấy Stavros nhìn theo một cách thèm thuồng.
Gabaret: “Té ra mày cũng là người như ai.” Lão trở về đề tài ruột của lão: “còn tiền chẵn thì lại biết sinh đẻ. Nó sinh đẻ rất mau. Bằng cách nào thì tao không biết, nhưng nó sinh ra đồng con đồng cháu lẹ lắm. Cứ mỗi lần mày nhìn lại, nó đã có thêm đầy đàn con cháu, đứa sau khỏe mạnh to lớn hơn đứa trước, và lại mắn đẻ hơn. Đối với những kẻ như chúng ta chỉ có hai cách để kiếm được tiền chẵn. Ăn trộm. Hoặc nếu còn trẻ như mày chẳng hạn, thì cưới nó. Nhưng cứ coi tao đây. Tao đã làm việc như con vật từ ngày tao biết đi và mang. Bây giờ mày coi đó. Tao sống khốn khổ đói rách nhất trên trần gian này.”
Lão nhìn Stavros, lúc đó vẫn còn nhìn theo hai cô gái.
Gabaret “Nếu tao ở vào địa vị mày! Có vài cô gái xấu xí, nhưng lại được những ông cha rất giầu!”
Hai gã đàn ông đến dẫn hai cô gái đi. Stavros cúi đầu xuống. Chàng có vẻ thất vọng, chẳng hiểu vì sao.
Gabaret: “Chúng mình cũng nên đi kiếm hai cái bẫy chuột đó đi.”
Lão ôm ngang lưng Stavros, bắt chước bộ điệu của những cặp nhân tình. Stavros đẩy lão ra. Rồi Gabaret nói bằng giọng thân mật đơn giản: “Đi. Theo tao. Mày cần cái đó lắm.” Rồi lão biểu diễn cho Stavros thấy cái mà chàng cần lắm, bằng cách lúc lắc vai…
Stavros: “Tôi không cần gì cả.”
Gabaret: “Mày cần cái đó. Sau giờ làm việc, mày đến nhà tao. Tao để dành cho mày một con…”
Stavros do dự, rồi bước lại gần Gabaret và thì thầm: “Tôi chưa…chưa bao giờ… Tôi không biết…không biết làm sao cả…”
Gabaret: “Đừng lo. Chúng nó sẽ dạy cho mày!”
Nhà của Gabaret chỉ là một túp lều xập xệ. Ánh sáng từ cánh cửa rọi vào soi rõ một cô gái trẻ. Khó nhìn thấy nàng xấu đẹp ra sao.
Stavros đứng trước cửa. Nét mặt chàng biểu lộ rõ sự thèm khát một hơi ấm đàn bà.
Giọng cô gái: “Vào đây. Vào đây đi anh. Rồi đóng cửa lại.”
Stavros đi về phía cô gái.
Sau đó, Stavros nằm trên bụng cô gái, ngủ say như chết. Cả hai trần truồng. Một tấm vải rách phủ hờ lên thân thể chàng trai. Không cái gì có thể đánh thức chàng dậy được lúc này. Chàng đang ở trong tình trạng kiệt sức hoàn toàn. Nhưng nàng thì không. Nàng tìm thấy gói tiền của chàng giấu trong thắt lưng. Nàng khéo léo móc ra từng đồng tiền một.
Buổi sáng, trong khu chợ, phu phen đang chất hàng lên. Người cai gọi:
“Mỹ! Mỹ!”
Gabaret nhìn quanh, nhưng không thấy tăm hơi Stavros đâu cả. Một kiểm hóa viên chỉ kiện hàng cho Gabaret. Nhưng lão đặt kiện hàng xuống và bỏ chạy đi. Từ xa chúng ta có thể nghe được tiếng gọi: “Mỹ! Mỹ!”
Trong căn phòng của Gabaret, Stavros đang bới tung tóe tất cả mọi đồ đạc, tìm kiếm số tiền của chàng, Gabaret bước vào.
Stavros: “Gabaret!”
…”Tiền của tôi…Con điếm đó…Nó đâu rồi. Tôi cần phải kiếm ra nó. Tìm nó ở đâu?”
Gabaret: “Tao không biết nó ở đâu nữa.”
Stavros: “Tôi cần phải kiếm ra nó. Chín tháng. Tôi làm việc chín tháng trời, được bấy nhiêu! Ông tìm ra nó ở đâu vậy? Nó là ai?”
Gabaret: “Nó là con gái tao.”
Stavros: “Con gái…Lạy Chúa tôi!”
Gabaret: “Đúng vậy.”
Stavros: “Nếu vậy…nếu vậy thì…”
Gabaret: “Tao không biết nó ở đâu.”
Stavros: “Nếu vậy thì làm sao ông…?”
Gabaret: “Đêm qua tao gặp nó dọc đường.”
Stavros: “Nhưng nó ở đâu?”
Gabaret: “Thì ở cả chỗ đó. Chắc vậy. Có một xóm.”
Stavros: “Nó sống bằng cách đó sao? Đi làm điếm sao?”
Gabaret: “Mày trẻ con quá sức tưởng tượng. Nó có gì khác để có thể bán nuôi miệng?”
Stavros: “Gabaret! Gabaret, tôi đã làm việc chín tháng trời!”
Gabaret: “Nó đã làm ơn cho mày.”
Stavros: “Sao?”
Gabaret: “Tao nói là nó đã làm ơn cho mày.
Stavros đấm Gabaret với tất cả sức bình sinh. Bây giờ Stavros rất khỏe, có nắm tay rất cứng. Gabaret văng vào tường, dội ra, trong tay đã cầm con dao nhắm vào cổ họng Stavros, tay kia túm tóc Stavros lão gần như không kiềm chế nổi mình. Lão kịp dừng lại cố giằn cơn giận điên người.
Gabaret: “Đáng lý tao phải giết mày. Mày biết không? Tao không thương mày đến cái độ đó đâu. Mày biết không, mày không phải là một đứa trẻ. Mày biết không? Nếu mày đã làm như vậy, mày phải có gan làm tiếp. Mày biết không?”. Rồi giọng thách thức: “Tao nói nó đã làm ơn cho mày”. Hắn chờ đợi nói tiếp: “Mày tưởn mày có thể để dành được một trăm lẻ tám đồng theo cách đó sao? Sức người có hạn! Lão nhìn chàng trai: Đáng lý tao phải giết mày.” Rồi tiếp: “Thôi! Theo tao.”
Lão đi ra. Stavros đi theo.
Vartuhi là một con điếm. Phòng nàng trên gác một quán rượu, nơi dân ăn chơi Thổ đến ngồi nghe nhạc và khiêu vũ. Phòng nàng không rộng lắm. Nhưng cái giường, sau một tấm rèm kết bằng hạt, thì khá rộng, Vartuhi đang bận đi khác. Ngọn đèn dầu duy nhất soi sáng căn phòng.
Cánh cửa mở toang ra. Gabaret và Stavros nhào vào phòng. Gabaret bước thẳng đến giường, nắm con gái của lão kéo lên. Ông khách nhảy xuống khỏi giường, chạy qua lại trong phòng, la hét như con gà bị đuổi. Stavros đứng chắn trước cửa. Không thể nghe Gabaret nói gì con gái lão ta, nhưng chắc chắn toàn là những lời chửi bới. Lão đánh cô gái. Cô ta gào lên.
Gabaret: “Mày đem tiền của nó cho thằng nào rồi?”
Vartuhi: “Đừng. Đừng. Ông chủ. Dưới kia kìa. Thôi.”
Lão lại tát cô ả. Cô ta lại gào lên.
Vartuhi: “Ông ta sắp đuổi con đi. Đuổi con ra đường.”
Gabaret bỏ nàng xuống, quay ra nói với Stavros: “Đi”.
Cả hai đi ra ngoài.
Vartuhi chạy ra cửa, gọi với theo lão: “ông muốn tôi bị đuổi ra đường sao chớ? Nếu không có phòng không có giường, tôi còn là gì? Một con vật.”
Ông chủ tiệm, một người Thổ to lớn, có mặt dưới nhà, đang hầu tiếp hai viên chức cảnh sát thành phố mặc đồng phục đàng hoàng. Họ đang ăn bánh ngọt, những giọt mật ong chảy rền xuống cằm, và uoosg trà nóng bằng những chiếc cốc bé tí xíu. Gabaret và Stavros vừa bước vào.
Ông cảnh sát: “Đi chơi điếm thì phải phòng bị điếm lột.”
Ông chủ tiệm: “Con gái ông hả? Ba tháng nay nó không trả tiền phòng cho tôi.”
Vợ ông chủ tiệm, một người to béo như chiếc thùng, nặng gần một trăm ký lô, từ bếp đi lên.
Bà vợ: “Tuần tới, nó lại tiếp tục mắc nợ ông nhà tôi. Chỉ tuần tới thôi. Ông nhà tôi kiên nhẫn hết chỗ nói…”
Viên chức cảnh sát đột nhiên la lên một tiếng: “Aahahaha! Bọn tao đang nhậu nhẹt…” Ông ta làm một cử chỉ dữ dằn. “Cút! Cút gấp! Cút ngay trước khi tao nổi giân!”
Gabaret quay sang nhìn Stavros chờ chàng ta quyết định! “Mày còn muốn nói gì nữa không?”
Stavros: “Lạy Chúa!”
Chàng bước ra thất thểu! Gabaret đi theo sau.
Đến một góc dọc bờ sông, Stavros tìm được một chỗ đứng khóc. Gabaret theo kiểu của lão ta, cố gắng khuyên bảo chàng trai.
Gabaret: “Mày biết không. Tao vẫn còn giận cành hông đây.” Rồi giọng lão dịu dàng hơn: “Đáng lý tao phải giết mày. Thật thế. Tao phải giết mày.” Chàng trai vẫn không thể chận được tiếng khóc. “Mày đấm tao. Mày đấm tao nặng lắm. Rất nặng. Mày khỏe thật!”
Kiểu đó không hiệu nghiệm, nên chỉ lão ta đổi cách:
“Mày muốn giết nó? Được rồi. Đến đó mà giết nó đi. Tao đâu có cản.”
Cững chẳng kết quả gì cả.
Giọng Gabaret trở nên chăm sóc và thiện cảm thiệt sự: “Cách nào thì cũng đến lúc mày phải sáng mắt ra, để thấy rõ sự thật.” Lão bắt chước giọng Stavros: “Những chuyện lớn! Những chuyện lớn!” Rồi đổi giọng chế giễu: “Họ sẽ hãnh diện về tôi. Chèng đéc ơi!”
Stavros hét lên đau đớn: “Đừng nói nữa!”
Bây giờ giọng Gabaret trở nên độc ác, chế nhạo: “Họ sẽ hãnh diện về tôi. Một ngày nào đó, họ sẽ hãnh diện về tôi! Haahaaaa!”
Stavros: “Họ sẽ hãnh diện!”
Gabaret: “Bây giờ mày chẳng là gì cả. Ngày sau mày cũng sẽ không là gì cả!”
Stavros: “Tôi sẽ thành công. Tôi phải thành công. Tôi thành công. Tôi sắp rời chỗ này. Có một chỗ khá hơn.”
Gabaret: “Chỗ nào cũng thế thôi. Này mày thử cho tao biết, từ ngày mày bỏ nhà ra đi, mày có gawoj được giữa người theo đạo Chúa một người nào làm đúng lời Chúa dạy chưa? Mày đã gặp được giữa loài người một người nào đáng là người không?”
Stavros: “Ông đó.”
Gabaret: “Tao? Mày đã không nhìn vào mặt tao? Mày không biết tao. Mày không biết tao là…”
Trong một phòng hầm, một nhóm chính trị bí mật đang nghe Gabaret thuyết trình. Lão ta là một trong những lãnh tụ của nhóm bí mật. Stavros ngồi trong đám khán giả.
Gabaret: “Tôi có một ý kiến cho thế giới này. Phá hủy tất cả để làm lại hết. Quá bẩn thỉu, không cách gì quét sạch được. Cần một mồi lửa để thiêu hủy tất cả. Cần một trận lụt để cuốn trôi tất cả.”
Lại một cuộc họp khác. Một phòng hầm khác. Một đêm khác. Phần lớn cũng những người đó.Stavros cũng có mặt. Trong chàng có vẻ kiệt quệ chán nản, và chàng đến đây, chỉ vì chàng không biết trông nom vào đâu khác. Bầu không khi của cuộc họp lần này có vẻ bí mật hơn, những âm mưu hơn. Câu chuyện diễn ra trong những tiếng thì thầm. Mọi người chú ý nhìn ra cửa. Họ như đang chờ đợi một người nào.
Một người: “Tôi phải nói rằng nạn nhân chính của đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ là nhân dân Thổ. Một ngày nào đó, Thổ Nhĩ Kỳ sẽ là một cường quốc”.
Stavros: “Sau khi tôi chết, tôi không cần biết đến.”
Gabaret giải thích chế giễu chàng trai: “Hắn vẫn còn nghĩ rằng trên trần gian này, ở một nơi nào đó, có một đời sóng sạch sẽ, no ấm. Đúng vậy không? Nước Mỹ? Đúng không?”
Một người trông thật dữ dăn, hơi khập khễnh, từ một góc phòng bước ra: “Đừng nói đến nước Mỹ với tôi: Tôi đã sang đó. Tôi đã góp công xây nhà cho họ.”
Hắn kéo áo lên, để hiện ra một vết sẹo dài: “Tôi bị ngã. Sau đó? Không ai cần đến tôi nữa. Nếu có tiền thì ở Mỹ anh sẽ là một nhân vật quan trọng. Nhưng nếu không có tiền, thì ở đó, cũng như đây thôi. Đời sống là đặc ân cho người giầu.”
Gabaret, nói thay cho Stavros, chế giễu: “Hắn vẫn không thay đổi ý kiến.” Stavros gượng cười, gật đầu thật nhẹ.
Không phải chàng đã quên được cứu cánh của chàng. Chẳng qua lúc này chàng không biết được cách nào đạt đến cứu cánh thôi. Chợt mọi người im lặng. Một người vừa bước vào, đi đến cái chỗ dành sẵn cho chủ tọa, và cất tiếng nói.
Lãnh Tụ: “Ai muốn đi ra, nên ra ngay bây giờ.”
Gabaret làm mọt cử chỉ ra hiệu cho Stavros nên đi ra. Nhưng Stavros lại ngả người sâu lún trong ghế. Cánh cửa sau họ đã khóa lại. Cuộc họp khai mạc.
Lát sau. Một quả bom được giấu trong tấm vải đệm lưng của phu khuân vác. Những người đứng quanh trái bom thì thào.
Lãnh tụ: “Tôi nhắc lại. Sau vụ nổ chúng ta chia tay nhau. Một tháng sau kể từ hôm nay, chúng ta gặp lại nhau. Ngoài đường các đồng chí không nhận mặt nhau. Hiểu rõ không?”
Mọi người gật đầu, cả Stavros.
Ngay lúc đó, các cửa sổ bật tung. Cảnh sát và những mũi súng chĩa vào phòng. Ngọn đèn dầu duy nhất bị bắn tắt. Từng tràng đạn nối tiếp nhau. Những tiếng thét đau đớn, những tiếng kêu tuyệt vọng. Rồi những tiếng súng im. Cánh cửa bị phá tung. Chút ánh sáng ban đêm tràn vào. Khói sung lắng xuống. Vụ tàn sát trông thật khủng khiếp, ghê tởm. Những xác chết như còn cố vùng vẫy. Rồi tất cả trở nên yên tịnh, ngoại trừ tiếng rên nhỏ của kẻ hấp hối.
Trong một quân y viện, hai bác sĩ quân y đi ra một nhà xác. Họ dừng lại bên một tấm ván, nhìn xuống.
Ông bác sĩ thứ nhất: “Thật quá đáng. Nhìn hắn coi. Chưa đến tuổi trưởng thành. Hắn chỉ muốn một cái gì đó. Tự do. Phải không?
Ông bác sĩ thứ hai: “Xxxiii”.
Ông ta chỉ một người lính trở nên nghiêm nghị:
“Anh kia. Lại đây. Anh có biết khi nào người ta sắp chết không?”
Stavros nằm trên tấm ván. Chàng chỉ còn thoi thóp. Một vết thương chạy dài trên trán chàng. Chàng sẽ không bao giờ xóa mất vết tích đó.
Người lính: “Tôi có thể biết khi nào thì một con lừa sắp chết.”
Bác sĩ: “Giống nhau. Đối với tên này, chỉ còn vài giờ đồng hồ. Dưới nhà bếp có một chiếc xe chất đầy xác bọn chúng nó. Anh khiêng nó vất lên đó. Hắn coi như chết rồi.”
Chiếc xe chở xác đi qua ruộng đồng. Đống xác trên xe được phủ một tấm chiếu rách. Một cái xác từ tư rơi xuống, tuột khỏi chiếc chiếu, chạm đất, nhẹ nhàng, trong lúc chiếc xe vẫn tiếp tục chạy.
Cái xác còn sức sống. Với một cố gắng tuyệt vọng, cái xác lê được ra khỏi mặt đường. Rồi Stavros lăn xuống đường rãnh bên đường. Cố gắng đó đã làm chàng kiệt sức. Chàng nằm yên đó, cố thở vào. Một con chó hoang lửng thửng đi đến bên.
Một vách đá dựng đứng bên bờ biển Marnor. Các binh sĩ lần lượt ném những xác chết xuống vực.
Xác Gabaret rơi xuống biển. Nước biển bắn tung lên. Cái xác lềnh bềnh lên xuống một lúc, rồi chìm ngỉm. Trên mỏm đá, xa xa, vài người đứng nhìn. Trong đó có cô điếm Vartuhi. Nàng quay đi.
Những người đi trên đường vào thành phố nhìn thấy một cái gì, do dự, rồi đi qua. Cái gì đó là Stavros, đang cố gắng bò lét vào thành phố. Đầu chàng đầy máu, quần áo rách nát. Chàng ngã xuống, dượng dậy rồi lại ngã xuống.
Chàng nằm giữa đường, chờ lấy lại sức. Đôi chân của Vartuhi hiện ra dưới mắt chàng. Nàng đến gần, đỡ chàng lên.
Trở lại quê nhà, gia đình Topouzoglou đang ngồi ngoài vườn, dưới dàn nho. Một lá thư vừa đến, mang theo tin buồn.
Ông Isaac đọc: “Tôi không biết kiếm nó ở đâu. Tôi tìm khắp nơi rồi. Nó đã biến mất tăm tích khỏi mặt đất đen tối này.”
Ông Isaac đặt lá thư xuống. Cả gia đình ngồi im lặng.
Trong thành phố Constantinople, căn phòng của Vartuhi nóng như đốt. Ông chủ nhà của nàng đứng ngoài cửa.
Ông chủ nhà: “Nếu mày có chồng thì đi chỗ khác ở. Đây là chỗ làm ăn của tao.”
Vartuhi: “Nhưng anh ấy đã đi khỏi đây rồi mà.”
Ông chủ nhà: “Tao còn đánh hơi được hắn.”
Lão ta đi qua mặt nàng, bước vào phòng và sau một lúc lục lọi, ông mở toang cánh cử tủ áo nhỏ và nông ra. Stavros nằm trong tủ. Đôi mắt chàng long lên như đôi mắt một con thú bị bẫy. Mồ hôi ướt đầm người chàng. Một tay khuất không trông thấy.
Ông chủ nhà: “Nghe tao đây nè. Ngày mai. Ngày mai phải trả tiền phòng cho tao. Ba tuần rồi tao không được đồng xu nào cả. Vậy hẹn cho máy đến mai. Tao nói lần chót.”
Lão ta bước ra ngoài. Cánh cửa phfng đóng ập lại.
Stavros nói khẽ: “Xiiii, Vartuhi, lại đây, lại đây!”
Vartuhi đến gần, ngồi xuống nền nhà. Chàng nắm lấy cánh tay nàng. Tay khuất vừa rồi hiện ra, đang nắm con dao găm của ông nội chàng.
Stavros: “Đừng để bọn đó dọa nạt em. Anh chỉ cần vài ngày nữa thôi. Anh đang mạnh lại gần. Vài ngày nữa thôi.”
Vartuhi thực tình khiếp sợ: “Vâng. Vâng”.
Stavros trao con dao găm cho nàng: “Đây. Em cầm con dao găm này. Đem bán đi. Mua cho anh ít thức ăn.”
Vartuhi: “Anh…anh…Sao anh không trở về nhà anh?”
Stavros rùng mình: “Đi đi. Đi ngay. Mua cho anh ít thịt. Bánh. Thịt.”
Vartuhi: “Vâng. Vâng. Này anh nghe đây. Anh xem anh có đủ sức đi bộ một đoạn ngắn chiều nay không. Mặt trời đang chiếu nắng. Anh đến ngồi chơi một lúc bên bờ sông. Lúc anh trở về em sẽ có một món tiền nhỏ. Rồi dần dà, em sẽ mua cho anh tất cả những thứ anh cần. Em đã hứa với cha em, và em hứa với anh em sẽ lo cho anh mọi thứ”.
Stavros: “Đừng dài dòng! Anh không cần tiền lẻ. Anh cần một bộ quần áo lịch sự. Một bộ màu xanh.”
Vartuhi: “Em có một người bạn…Anh biết…già rồi…hay đến đây. Ông ta là thợ may quần áo đàn ông…và…”