Chương 2
Cô gái - rất kỳ lạ nếu gọi cô ta là Inara, khi ông đã biết đó không phải tên thật - vẫn còn ngủ, khuôn mặt vùi trong cổ áo khoác của ông, khi Victor đến và kiểm tra với các kĩ thuật viên trực đêm đang ngáp ngắn ngáp dài. Một trong các kĩ thuật viên đưa cho ông một chồng tin nhắn: các bản báo cáo từ bệnh viện xuyên suốt đêm qua, từ các đặc vụ ở biệt thự, tiểu sử của càng nhiều người liên quan càng tốt. Ông lật qua hồ sơ trong lúc uống cà phê từ căng tin - chỉ khá hơn tí ti so với thứ nước vẩn đục đáng ngờ còn nằm trong bình ở bếp của đội - cố khớp những bức ảnh với tên người trong câu chuyện của cô gái.
Mới sáu giờ sáng Yvonne đã đi vào, hai mắt sưng húp vì thiếu ngủ. “Buổi sáng tốt lành, đặc vụ Hanoverian.”
“Ca trực của cô tám giờ mới bắt đầu cơ mà; sao cô không ngủ đi?”
Cô chuyên viên chỉ lắc đầu. “Không ngủ nổi. Tôi đã ngồi suốt đêm trong phòng con gái tôi, đu đưa cái ghế và nhìn nó đăm đăm. Nếu có kẻ nào…” Cô lại lắc đầu lần nữa, lần này gay gắt hơn, như đang rũ hết mọi ý nghĩ tồi tệ. “Tôi đi làm ngay khi mẹ chồng tôi đủ tỉnh táo để chăm cháu.”
Ông định bảo cô ấy tìm một văn phòng mà chợp mắt, nhưng ông không nghĩ có bất kì ai trong đội này ngủ ngon đêm qua. Ông chắc chắn là không rồi, bởi bị ám ảnh với những bức hình chụp hành lang và kí ức xa xôi về các cô con gái của mình, chạy quanh sân trong bộ trang phục cánh bướm. Rất dễ để những cơn ác mộng bắt kịp một khi bạn không có gì để làm.
Victor nhấc cái túi vải dưới chân lên. “Tôi có bánh cuộn quế vừa nướng cho cô nếu cô giúp tôi một việc này,” ông nói và nhìn cô đứng bật dậy với nguồn năng lượng bất ngờ. “Holly cho tôi quần áo để đưa Inara; cô có thể dẫn cô ấy xuống phòng thay đồ và để cô ấy tắm được không?”
“Con gái anh đúng là một thiên thần.” Cô liếc nhìn cô gái đang ngủ qua cửa kính. “Mặc dù tôi ghét phải đánh thức cô ấy.”
“Là cô thì tốt hơn Eddison.”
Cô bước ra khỏi phòng kĩ thuật mà không nói thêm lời nào và một lát sau, cánh cửa dẫn tới phòng thẩm vấn mở ra chỉ với một tiếng kẹt khẽ khàng nhất.
Thế là đủ; cô gái ngồi lên thành một đống bù xù tóc và chăn, lưng cô dựa vào tường đến khi xác định được Yvonne, người đang đứng ở ngưỡng cửa với hai bàn tay mở rộng và giơ ra. Họ nhìn nhau chằm chằm đến khi Yvonne cố nở nụ cười nhẹ. “Phản ứng tốt đấy.”
“Thỉnh thoảng hắn lại đứng ở ngưỡng cửa; lúc nào hắn cũng có vẻ thất vọng nếu chị không biết hắn ở đó.” Cô ta ngáp và duỗi người, các khớp xương kêu răng rắc vì cái cáng không thoải mái.
“Chúng tôi nghĩ cô có thể thích tắm,” Yvonne nói và giơ ra chiếc túi vải. “Chúng tôi có ít quần áo sẽ rất vừa với cô và cả xà phòng nữa.”
“Tôi có thể hôn chị nếu tôi là kiểu người như thế.” Trên đường ra cửa, cô ta gõ vào lớp kính. “Cảm ơn ông, đặc vụ FBI Victor Hanoverian.”
Ông cười nhưng không cố trả lời.
Trong lúc cô gái đi vắng, ông vào phòng thẩm vấn để tiếp tục đọc lướt qua các tin tức mới. Một cô gái khác đã chết trong đêm, nhưng những người còn lại đều có thể sống sót. Tính cả Inara là mười ba người. Mười ba người sống sót. Có lẽ là mười bốn, còn tùy cô ta có thể kể gì về chàng trai. Nếu cậu ta là con của Thợ Làm Vườn, liệu cậu ta có dự phần vào việc mà cha và anh đã làm không?
Cô ta còn đang trong phòng thay đồ thì Eddison đến, mày râu nhẵn nhụi và lần này mặc một bộ vest. Cậu ta thả một cái hộp bánh quy bơ lên bàn. “Cô ta đâu?”
“Yvonne đưa cô ấy xuống phòng tắm.”
“Ông nghĩ hôm nay cô ta có kể gì cho chúng ta không?”
“Theo cách riêng của cô ấy.”
Một cái khịt mũi cho ông biết đồng sự của ông nghĩ gì về ý tưởng đó.
“À thì.” Ông đưa cho cậu ta chồng giấy tờ ông đã đọc xong và trong một lúc, chỉ có tiếng sột soạt của những trang giấy và tiếng húp thảng hoặc từ cốc cà phê.
“Ramirez nói Thượng nghị sĩ Kingsley đã cắm chốt ở hành lang bệnh viện,” Eddison nói mấy phút sau đó.
“Thấy rồi.”
“Cô ấy bảo cô con gái không muốn gặp thượng nghị sĩ; tuyên bố cô ta chưa sẵn sàng.”
“Thấy cả chuyện đó rồi.” Victor thả mấy tờ giấy của ông lên bàn và dụi mắt. “Cậu có trách cô bé được không? Cô ấy lớn lên cùng máy quay phim, mọi việc cô làm đều phản ánh lên bà mẹ. Cô ấy biết - có lẽ là rõ hơn bất kì người nào khác - rằng cơn lũ truyền thông đang chờ đón họ. Gặp mẹ cô ấy chỉ là bước khởi đầu thôi.”
“Có bao giờ anh thắc mắc liệu chúng ta có thật sự là người tốt?”
“Đừng để cô ấy tác động đến cậu.” Ông cười trước ánh nhìn thảng thốt của đồng sự. “Chúng ta có một công việc hoàn hảo không? Không. Chúng ta có làm một việc hoàn hảo không? Không nốt. Chuyện ấy là bất khả thi. Nhưng chúng ta làm việc của mình và đến cuối cùng, chúng ta làm nhiều việc tốt hơn hẳn gây hại. Inara rất giỏi né tránh; cậu không được để cô ấy lay chuyển mình.”
Eddison đọc một bản báo cáo khác trước khi nói thêm điều gì. “Patrice Kingsley - Ravenna - bảo Ramirez rằng cô ấy muốn nói chuyện với Maya trước khi quyết định có gặp mẹ hay không.”
“Muốn xin lời khuyên à? Hay muốn ai đó quyết định thay mình?”
“Không nói. Vic…”
Victor chờ cậu ta nói nốt.
“Làm sao chúng ta biết cô ta không giống Lorraine? Cô ta chăm sóc những cô gái khác. Làm sao chúng ta biết việc ấy không phải là để lấy lòng Thợ Làm Vườn?”
“Chúng ta không biết,” Vic bảo. “Chưa. Dù cách này hay cách khác, chúng ta cũng sẽ tìm ra.”
“Trước khi chết vì tuổi già sức yếu hả?”
Vị đặc vụ lớn tuổi hơn đảo mắt và quay lại với chồng giấy tờ.
Cuối cùng người bước vào với Yvonne lại là một cô gái khác hẳn, tóc cô đã được chải thẳng xuống tận hông. Quần bò không vừa lắm, chật ních chỗ hông cô và khuy không cài để nới rộng ra thêm một chút, nhưng các lớp viền áo bên trên đã gần như che lấp hết phần đó, và chiếc áo len màu lá mạ ôm ấp những đường cong mềm mại. Đôi dép tông mỏng khẽ loẹt quẹt trên sàn nhà trong lúc cô bước đi. Lớp băng gạc đã được tháo bỏ và Victor nhăn mặt trước những vết bỏng tím đỏ quấn quanh hai bàn tay cô, điểm thêm các vết rách từ kính và vụn gỗ đâm vào trong lúc họ bỏ trốn.
Cô ta trông theo ánh mắt ông xuống hai bàn tay mình và giơ chúng lên để nhìn kĩ hơn, đồng thời thả người xuống chiếc ghế ở đầu bàn bên kia. “Cảm giác còn đau hơn cả bề ngoài cơ, nhưng các bác sĩ bảo rằng miễn là tôi không ngốc nghếch, tôi sẽ không gặp tổn thất nào về chức năng đâu.”
“Các phần còn lại của cô thì thế nào?”
“Có vài chỗ bầm tím đáng yêu, các vết khâu ửng hồng và sưng một chút quanh mép, nhưng không hẳn là mưng mủ. Lúc nào đó, bác sĩ có lẽ nên xem xét chỗ ấy. Nhưng, ông biết đấy, tôi còn sống, riêng phần đó đã hơn rất nhiều người mà tôi biết rồi.”
Cô ta đang chờ đợi ông bắt chuyện về chàng trai. Ông có thể thấy điều đó trên mặt cô, trong sự căng thẳng ở đôi vai, trong cái cách các ngón tay bên này ấn vào sẹo ở bàn tay bên kia. Cô ta đã chuẩn bị cho chuyện đó. Vì vậy thay vì hỏi, ông đẩy cái cốc còn lại qua - sô cô la nóng thay vì cà phê, cân nhắc đến vẻ chán ghét của cô với cà phê hôm qua - và mở lớp giấy bạc bọc bánh quế. Ông đưa một cái cho Yvonne, người lẩm bẩm câu cảm ơn rồi rút lui vào phòng quan sát.
Lông mày Inara nhíu lại với nhau trước hình ảnh ấy, đầu cô nghiêng nghiêng như một chú chim lúc săm soi nội dung bên trong. “Loại cửa hàng bánh ngọt nào mà lại gói đồ bằng giấy nhôm thế kia?”
“Cửa hàng được biết đến là mẹ tôi.”
“Mẹ ông vẫn còn làm bữa sáng cho ông?” Miệng cô mấp máy thành một kiểu cười với ít vẻ ngạc nhiên hơn. “Bà ấy có làm luôn cả bữa trưa đặt trong túi giấy nâu không?”
“Thậm chí còn viết lời nhắn, bảo tôi hãy lựa chọn đúng vào hôm nay,” ông nói dối không chớp mắt và cô ta phải bặm môi để ngăn nụ cười khỏi lan rộng ra. “Nhưng cô chưa bao giờ được làm thế, đúng không?” Ông nói tiếp, càng dịu dàng hơn.
“Một lần,” cô ta chỉnh lại, và giờ thì không còn chút hài hước nào nữa. “Cặp vợ chồng ở bên kia phố đã đưa tôi ra bến xe buýt ấy, nhớ không? Bà ấy đã làm bữa trưa cho tôi, và bên trong có một tờ giấy nhắn, nói rằng họ vui mừng được biết tôi như thế nào, họ sẽ nhớ tôi ra sao. Số điện thoại của họ ở đó, và họ bảo tôi hãy gọi khi nào tới chỗ bà để cho họ biết là tôi đã an toàn. Hãy gọi bất kể khi nào tôi muốn, chỉ để nói chuyện. Họ kí tên bằng những cái ôm, cả hai người, thậm chí cả con bé cũng có một hình loằng ngoằng bằng bút sáp ở cuối thư.”
“Cô đã không gọi phải không?”
“Một lần,” cô ta lại nói, gần như thì thầm. Đầu ngón tay cô lần theo từng đường cắt, từng vết xước. “Khi tôi tới bến xe gần nhà bà, tôi đã gọi để bảo họ rằng tôi tới nơi rồi. Họ đòi nói chuyện với bà, nhưng tôi bảo bà đang gọi taxi. Họ bảo tôi cứ gọi lại bất kể khi nào tôi muốn. Tôi đứng ở vỉa hè bên xe, chờ một chiếc taxi, và cứ nhìn chằm chằm vào tờ giấy ấy một cách ngốc nghếch. Rồi tôi ném nó đi.”
“Tại sao?”
“Bởi vì giữ lại nó quá giống như tự làm đau mình.” Cô ta ngồi thẳng trên ghế, bắt tréo chân chỗ đầu gối và tựa khuỷu tay vào bàn. “Dường như trong đầu ông có một hình ảnh lạ lùng về tôi là đứa trẻ lạc lối, kiểu tôi đã bị ném ra lề đường như một túi rác, hay thú hoang bị đâm chết, nhưng lũ trẻ như tôi ư? Chúng tôi không lạc. Có thể chúng tôi là những đứa duy nhất không bao giờ lạc. Chúng tôi luôn biết chính xác mình ở đâu và có thể đi đâu. Và không thể đi đâu.”
Victor lắc đầu, không sẵn sàng tranh cãi điểm này nhưng cũng không thể đồng ý với nó. “Tại sao các cô gái ở New York không báo cáo việc cô mất tích?”
Cô ta đảo mắt. “Chúng tôi không có kiểu quan hệ ấy.”
“Nhưng các cô là bạn mà.”
“Phải. Những người bạn đều đang chạy trốn khỏi những thứ khác. Trước khi tôi chuyển vào, chiếc giường đó trống bởi cô gái cuối cùng đã đột nhiên dọn đồ và đi mất. Đuổi theo sát nút cô ta là một ông chú tức điên, muốn biết cô đã làm gì với đứa bé mà lão cưỡng bức cô đến có thai ba năm trước. Bất kể ông có trốn cẩn thận đến đâu, luôn luôn có ai đó có thể tìm ra ông.”
“Chỉ khi họ đang tìm thôi.”
“Hoặc nếu ông thực sự không may tới mức đó.”
“Ý cô là sao?” Eddison hỏi.
“Sao, anh nghĩ tôi muốn Thợ Làm Vườn bắt cóc tôi sao? Cả một thành phố để tôi chìm nghỉm, nhưng hắn vẫn tìm được tôi.”
“Việc đó không giải thích…”
“Có đấy,” cô ta nói đơn giản. “Nếu anh là một loại người cụ thể.”
Victor uống cà phê, cố quyết định xem nên đẩy cuộc nói chuyện này theo hướng cần thiết hay cứ mặc nó theo hướng hên xui. “Kiểu người nào kia, Inara?” Dần dà ông cũng thúc ép.
“Nếu ông mong bị nhìn lướt qua hoặc bỏ quên, ít nhất lúc nào ông cũng phải hơi ngạc nhiên khi có ai đó nhớ ra ông. Lúc nào ông cũng phải ở ngoài tầm hiểu thấu những sinh vật kì lạ kia, cái đám thực sự mong ngóng người ta nhớ tới mình và quay lại.”
Sau đó cô ta từ tốn tận hưởng thời gian của mình, ăn bánh cuộn quế, nhưng Victor có thể nói cô ta còn chưa kết thúc với dòng suy nghĩ ấy. Có lẽ nó còn chưa được thành hình trọn vẹn - con gái út của ông đôi khi cũng làm vậy, đang nói thì ngưng bặt cho đến khi con bé nghĩ ra những câu còn lại. Ông không chắc đó có phải lí do của Inara không, nhưng đó vẫn là kiểu khuôn mẫu mà ông biết nên ông đá Eddison dưới gầm bàn để bảo cậu ta im lặng khi miệng đồng sự của ông há ra định nói.
Eddison lừ mắt với ông và đẩy ghế của mình ra xa vài phân, nhưng không nói gì.
“Các con gái của chị Sophia mong mẹ chúng quay về,” cô ta khẽ nói tiếp. Cô liếm lớp đường trên mấy ngón tay bị thương của mình và nhăn mặt. “Chúng đã ở cùng gia đình bố mẹ nuôi của mình được… chà, chúng đã ở đó gần bốn năm khi tôi bị bắt. Bất kì ai cũng sẽ hiểu nếu chúng từ bỏ hi vọng. Nhưng chúng không từ bỏ. Bất kể chuyện gì xảy ra, bất kể sự việc có tệ thế nào, chúng cũng biết là mẹ chúng đang đấu tranh vì chúng. Chúng biết chị ấy sẽ luôn luôn, luôn luôn quay về vì chúng. Tôi không hiểu. Tôi không nghĩ mình sẽ có lúc hiểu. Nhưng mà, tôi đã bao giờ có một Sophia đâu.”
“Nhưng cô có Sophia mà.”
“Đã từng,” cô chữa lại. “Và chuyện ấy không giống nhau. Tôi không phải con gái chị ấy.”
“Nhưng là gia đình cô ấy. Phải không?”
“Bạn bè. Không giống nhau.”
Ông không chắc là mình tin điều đó. Ông cũng không chắc cô ta tin. Có lẽ với cô ta, giả vờ như mình tin vào điều đó thì dễ dàng hơn.
“Các con gái ông luôn tin rằng ông sẽ về nhà, đúng vậy không, đặc vụ Hanoverian?” Cô vuốt một tay dọc cánh tay áo len mềm mại. “Họ sợ một ngày kia ông có thể chết trong lúc làm nhiệm vụ, nhưng họ không tin bất kì thứ gì có thể ngăn ông lại khi ông còn sống.”
“Giữ mồm tránh xa các con gái anh ấy ra,” Eddison quát, và cô ta cười mỉa.
“Anh có thể trông thấy con gái ông ấy trong mắt ông ấy mỗi lần ông ấy nhìn tôi hay một trong mấy bức ảnh kia. Họ chính là lí do ông ấy làm việc đang làm.”
“Đúng thế,” Victor nói và uống nốt cà phê. “Và một trong số chúng đã gửi tới một thứ khác cho cô.” Ông thò tay vào túi và lấy ra một thỏi son bóng màu dâu đậm. “Cái này từ con gái lớn của tôi, cũng là đứa đã cho bộ quần áo.”
Nó làm cô gái giật mình mỉm cười, một nụ cười thật sự làm cả khuôn mặt cô bừng sáng trong giây lát, đôi mắt lấm tấm màu hổ phách của cô nheo lại. “Son bóng.”
“Con bé bảo đó là kiểu của con gái.”
“Tôi hi vọng vậy; màu này cực kì không tôn da.” Rụt rè mở mắt, cô gái bóp ống son cho đến khi một chấm màu lấp lánh rỉ ra. Cô lăn nó dọc môi dưới, tô môi trên mà không làm nhòe ra hay thiếu một điểm nào bất chấp việc mắt cô không hề đảo tới chỗ cái gương một chiều. “Chúng tôi thường trang điểm trên tàu trên đường đi làm. Hầu hết chúng tôi có thể trang điểm cả mặt mà không cần soi gương.”
“Tôi phải thừa nhận đó không phải việc mà tôi có bao giờ muốn thử,” ông nói khô khốc.
Eddison xốc thẳng chồng giấy, so mép của chúng chính xác cạnh mép bàn. Victor nhìn cậu ta, đã quá quen với sự cưỡng chế ấy nhưng vẫn còn buồn cười vì nó. Eddison trông thấy ông đang nhìn và cau mày.
“Inara,” cuối cùng Victor nói, và cô gái miễn cưỡng mở mắt. “Chúng ta cần bắt đầu.”
“Des,” cô ta thở dài.
Ông gật đầu. “Hãy kể tôi nghe về Desmond.”
Tôi là người duy nhất thích tìm đến những chỗ cao bên trong Vườn nên tôi là người duy nhất tìm được khu vườn kia. Bên trên rìa đá nhỏ, có một khóm cây nhỏ như thế này - và khi dùng từ khóm, ý tôi là năm cây - mọc thẳng lên tận trần kính. Ít nhất hai lần mỗi tuần, tôi trèo lên một trong mấy cái cây ấy, đứng lên những cành cao nhất có thể chịu nổi sức nặng của mình và áp má vào kính. Đôi khi nhắm mắt lại, tôi có thể giả vờ mình đang ở ngoài cầu thang thoát hiểm của chúng tôi, tựa vào dãy cửa sổ, lắng nghe chị Sophia nói chuyện về các con gái chị hay nghe tiếng một cậu trai trong một tòa nhà khác đang chơi vĩ cầm, Kathryn thì đang ngồi cạnh tôi. Ở phía trước và bên tay trái, tôi có thể nhìn thấy gần hết Vườn, chỉ trừ các hành lang bao quanh chúng tôi và những thứ được mỏm đá che khuất tầm mắt. Vào buổi chiều, tôi có thể trông thấy các cô gái đang chơi trò đuổi bắt hay trốn tìm dọc con suối nhỏ, một, hai cô thả mình trong cái hồ hay ngồi giữa đám đá hoặc bụi cây, với những cuốn sách, trò giải ô chữ và những thứ khác nữa.
Nhưng tôi cũng có thể trông ra khỏi Vườn, dù chỉ một chút. Theo tôi được biết, tòa nhà kính mà chúng tôi gọi là Vườn này thực ra là một trong hai cái, cái này được đặt bên trong cái kia như những con búp bê Nga vậy. Nhà kính của chúng tôi là cái nằm giữa, cao không tưởng, còn các hành lang bao chung quanh nó thành một hình vuông. Trần nhà trong phòng chúng tôi không thực sự cao lắm, nhưng các bức tường dâng lên mãi tuốt ngọn cây trên tận mỏm đá, bên trên màu đen và phẳng lì, còn ở mặt kia lại một cái trần kính khác, đổ nghiêng bên trên một nhà kính khác. Bản thân nó giống một đường bao hơn là hình vuông đúng nghĩa, những lối đi rộng rãi được trồng cây xanh hai bên - ít nhất ở mé mà tôi nhìn được. Rất khó trông ra, kể cả từ trên ngọn cây thế này. Chỉ là một vệt chỗ này chỗ kia, nơi tôi đứng đúng góc. Trong cái nhà kính đó mới là thế giới thực, với những Thợ Làm Vườn mà không ai phải trốn tránh và những cánh cửa dẫn ra Bên ngoài, nơi bốn mùa thay đổi và sinh mạng không bị đếm ngược tới năm hai mươi mốt tuổi.
Thế giới thực không biết Thợ Làm Vườn, chỉ biết một người đàn ông, từ con mắt người-không-phải-Bướm, có liên quan đến nghệ thuật và từ thiện, cũng như một kiểu đầu tư mạo hiểm - hay đúng hơn là nhiều kiểu đầu tư mạo hiểm, từ những gì mà hắn thi thoảng hé lộ. Người đàn ông có một ngôi nhà ở đâu đó trên mảnh đất này, kể cả từ trên ngọn cây cũng không trông thấy. Người đàn ông có một bà vợ và một gia đình.
À thì hắn có Avery, và rõ ràng là thằng khốn ấy phải từ đâu chui ra chứ, thế nhưng…
Còn có một bà vợ.
Và bà ta vẫn cùng Thợ Làm Vườn đi bộ ở nhà kính ngoài gần như mọi buổi chiều từ hai đến ba giờ, bàn tay bà ta vòng qua khuỷu tay hắn để nương tựa. Bà ta gầy gò tới mức gần như người bệnh, với mái tóc đen và phong cách không chê vào đâu được. Từ tít đầu này, đó là tất cả những gì tôi nhìn được. Họ đi bộ chậm rãi xuống góc hình vuông, thỉnh thoảng dừng chỗ này chỗ kia để ngắm một bông hoa hay cái cây rõ hơn, rồi lại chậm rãi bước đi đến khi ra xa khỏi tầm nhìn hạn chế của tôi. Họ còn quay lại vài lần nữa trước khi kết thúc cuốc đi dạo.
Bà ta là người quyết định tốc độ của họ và bất kể khi nào bà ta bị tụt lại, hắn sẽ quay sang đầy quan tâm. Đó cũng là sự dịu dàng mà hắn đã tỏ bày với các cô Bướm của mình, nhẹ nhàng và thành thật theo cái cách làm tôi nổi cả da gà.
Với sự dịu dàng ấy, hắn đã chạm vào lớp kính của các bể trưng bày hay khóc bên xác Evita. Nó nằm trong cái cách hai bàn tay hắn run lên khi trông thấy những gì Avery đã gây ra cho tôi.
Đó là tình yêu, theo kiểu hắn biết.
Hai, ba lần mỗi tuần, Avery đi cùng họ, lầm lũi đằng sau và hiếm khi ở lại trọn một giờ. Gã thường chỉ đi bộ một vòng rồi bỏ vào Vườn, nơi gã kiếm tìm một cô nào đó ngọt ngào và vô tội, và thật dễ dàng trao cho gã nỗi sợ mà gã thèm khát.
Hai lần mỗi tuần, trong hai ngày liên tiếp trùng khớp với lịch bảo dưỡng buổi sáng của chúng tôi, còn có một đứa con trai trẻ hơn, mang màu tóc và dáng vẻ mảnh mai của bà mẹ. Như với mẹ cậu ta, các chi tiết không rõ do khoảng cách, nhưng rõ ràng bà ta mê mẩn cậu. Khi cậu ta đi cùng, bà ta chen giữa chồng và cậu ta.
Suốt nhiều tháng, tôi đã quan sát bọn họ mà không bị trông thấy, cho đến một ngày kia, Thợ Làm Vườn ngẩng lên.
Nhìn thẳng vào tôi.
Tôi vẫn để nguyên má áp vào lớp kính như thế, cuộn tròn lại trong đám cành lá trên cái cây của tôi và không cử động.
Phải ba ngày sau chúng tôi mới nói về chuyện đó, và còn ở bên trên giường của một người lạ, thậm chí không phải là một cô Bướm.
Victor hít vào thật sâu, gạt đi hình ảnh đời sống bình thường quái dị ấy. Hầu hết những tên điên mà ông đã bắt dường như đều rất bình thường ở bên ngoài. “Hắn đã bắt cóc một cô gái khác ư?”
“Hắn bắt vài người mỗi năm, nhưng không bao giờ trước khi cô gái tiền nhiệm đã được đánh dấu hoàn toàn và ổn định cuộc sống ít nhiều.”
“Tại sao?”
“Tại sao hắn bắt mấy người một năm ư? Hay tại sao hắn chờ giữa các lần?”
“Đúng vậy,” Victor đáp, và cô ta cười mỉa.
“Vì lí do thứ nhất - hao mòn nguồn lực. Hắn không bao giờ bắt nhiều người hơn mức Vườn có thể đáp ứng, vì thế nói chung hắn chỉ đi mua sắm khi nào một trong các cô Bướm bị chết. Không phải lúc nào cũng thế, nhưng thường xuyên. Còn thứ hai…” Cô ta nhún vai và xòe hai lòng bàn tay úp lên mặt bàn, ngắm những đốm da cháy ở khắp mu bàn tay. “Một cô gái mới là khoảng thời gian căng thẳng trong Vườn. Tất cả mọi người đều nhấp nhổm, nhớ lại hồi chính mình bị bắt và sự thể ra sao khi họ tỉnh dậy lần đầu tiên, rồi những giọt nước mắt không thể tránh khỏi lại càng làm mọi chuyện tệ hơn. Một khi cô gái mới đã ổn định, mọi thứ sẽ lắng xuống trong một thời gian, cho đến cái chết tiếp theo, cặp cánh tiếp theo vào bể trưng bày, cô gái mới tiếp theo. Thợ Làm Vườn luôn luôn - gần như luôn luôn - nhạy cảm đặc biệt với tâm trạng chung trong Vườn.”
“Đó có phải lí do hắn để cho Lyonette đóng vai trò như người hướng dẫn không?”
“Vì việc ấy có ích, đúng vậy.”
“Vậy làm sao lại đến lượt cô làm việc ấy?”
“Bởi vì ai đó phải làm, và Bliss thì quá tức giận, những người còn lại quá nhút nhát.”
Người đầu tiên mà tôi giúp không phải cô gái ngay sau tôi mà là cô sau nữa, vì Avery đã mang bệnh cúm vào Vườn và nó đã gây ra cả một trận phong ba với các cô gái.
Lyonette ốm lê ốm lết. Chị ấy tái nhợt và đổ mồ hôi, mái tóc nâu vàng bết vào cổ và mặt, bồn cầu thì trở thành người bạn thân thiết hơn tôi biết chừng nào. Bliss và tôi bảo chị hãy nằm yên trên giường, cứ để Thợ Làm Vườn tự xử đống hỗn độn của hắn một lần, nhưng ngay khi các bức tường nhấc lên để chúng tôi ra khỏi phòng, chị ấy đã mặc lại quần áo và lảo đảo ra ngoài hành lang.
Vừa chửi thề tôi vừa mặc váy và chạy theo chị cho đến khi có thể vòng một cánh tay chị lên vai mình. Chị ấy chóng mặt đến nỗi không thể bước đi mà không dùng một tay chống vào tường. Chị không ngần ngại né những bể trưng bày như vẫn thường làm, thậm chí sau gần năm năm. “Sao cứ phải là chị cơ chứ?”
“Bởi vì ai đó phải làm,” chị thì thào và dừng lại để ngăn cơn buồn nôn. Một lần nữa. Mặc dù chị ấy đã phải quỳ trước bồn cầu trong phần lớn thời gian của mười tám tiếng vừa qua.
Tôi không đồng ý, ở thời điểm ấy thì không.
Có lẽ là không bao giờ.
Thợ Làm Vườn rất, rất giỏi đoán tuổi, giỏi hơn bất kì bà đồng digan nào mà tôi từng nghe nói tới. Vài cô gái vào vườn ở tuổi mười bảy, nhưng hầu hết là mười sáu. Hắn không bắt cóc tụi trẻ hơn - và nếu hắn nghĩ có khả năng mười lăm tuổi đổ xuống, hắn bảo mình sẽ chọn một người khác - nhưng hắn cố không chọn già hơn. Tôi đoán hắn muốn có trọn vẹn năm năm mỗi khi có thể.
Những thứ gã đàn ông ấy cảm thấy thoải mái để chia sẻ với các con tin của mình… hay có lẽ chỉ với tôi.
Cô gái mới nằm trong căn phòng cũng trống không y như nơi tôi đã tỉnh lại lần đầu. Phòng tôi dần dà đã bắt đầu tích tụ các điểm nhấn cá nhân, nhưng lúc này thì cô ấy chỉ có một cái ga chun xám thô kệch và không còn gì khác. Da cô ấy tối màu và khi kết hợp cùng các đường nét khác, tôi đoán có một sự hòa trộn chủng tộc: Mexico và châu Phi, như sau này tôi sẽ biết. Cô ấy không cao hơn Bliss là bao, và ngoài chuyện có một bộ ngực trông như thể một món quà ngày quinceanera, cô ấy gầy như cây sậy. Những cái lỗ nhỏ hành quân lên hết tai bên này và gần hết tai bên kia. Một cái lỗ khác ở rìa cánh mũi và cả một cái lỗ ở quanh rốn, gợi ý rằng chúng cũng đã được xỏ khuyên.
Buổi lễ mừng tuổi mười lăm của các cô gái gốc Mexico.
“Sao hắn phải tháo hết ra thế?”
“Có thể vì hắn nghĩ chúng xấu xí,” Lyonette rên lên, sụp xuống sàn bên cạnh hố ga không nắp đậy.
“Tai em có lỗ khuyên đôi khi em tới. Giờ vẫn còn này.”
“Có thể hắn nghĩ cái của em đẳng cấp.”
“Thêm cả cái khuyên ở vành tai phải nữa.”
“Maya, đừng có lằng nhằng nữa. Thế này đã khổ lắm rồi, được chưa?”
Kì lạ thay, chính câu đó đã đủ để ngăn tôi lại. Không chỉ rõ ràng là chị ấy đang rất khổ sở vào thời điểm bấy giờ. Mà còn vì một ẩn ý nữa. Cố gắng hiểu tại sao Thợ Làm Vườn làm những việc đó là một hoạt động vô ích, ngoài ra còn hoàn toàn không cần thiết nữa. Chúng tôi không cần biết tại sao. Chúng tôi chỉ cần biết hắn làm gì thôi.
“Không phải chị có thể đi được đâu đâu, nhưng cứ chờ ở đây.”
Chị ấy đập tay và nhắm mắt lại.
Có hai chiếc tủ lạnh trong căn bếp thông với phòng ăn của chúng tôi. Một cái đựng các nguyên liệu nấu ăn cho chúng tôi và lúc nào cũng bị khóa, Lorraine cầm chiếc chìa duy nhất. Cái kia đựng các loại đồ uống và đồ ăn vặt mà chúng tôi được phép ăn giữa các bữa chính. Tôi chọn lấy hai chai, nước cho Lyonette và nước hoa quả cho tôi, rồi chôm một cuốn sách từ thư viện để đọc to lên cho chị ấy nghe trong lúc chờ cô gái mới tỉnh dậy.
“Có cả một thư viện ở đó à?” Eddison hỏi một cách khó tin.
“Có chứ. Hắn muốn chúng tôi được vui khi ở đó. Điều ấy có nghĩa là chúng tôi phải có việc mà làm.”
“Hắn cho các cô loại sách vở gì?”
“Thực ra là bất kì cái gì chúng tôi đòi.” Cô ta nhún vai và ngồi lại trên ghế, hai tay khoanh hờ trước ngực. “Đầu tiên hầu như chỉ có sách kinh điển, nhưng những người thực sự thích đọc sách trong số chúng tôi bắt đầu viết một danh mục mong muốn để ở cạnh cửa, và thi thoảng hắn lại thêm vào khoảng vài chục cuốn. Vài người chúng tôi còn có những cuốn sách riêng, quà tặng từ hắn, được giữ lại trong phòng.
“Và cô là một trong số những độc giả ấy.”
Cô gái bắn cho cậu ta cái nhìn khinh miệt, rồi cân nhắc lại. “Ồ phải rồi, lúc nói đến đoạn ấy anh đã không ở đây.”
“Đoạn nào?”
“Đoạn mà tôi giải thích việc sống ở trong Vườn thực sự buồn chán muốn chết.”
“Nếu đó mà là chán thì rõ ràng cô đã không làm đúng,” cậu ta lẩm bẩm và làm cô gái phá ra cười.
“Khi nó là lựa chọn của tôi thì không chán,” cô ta thừa nhận. “Nhưng ấy là chuyện trước Vườn.”
Victor biết ông nên lôi câu chuyện quay về câu hỏi chính, nhưng hình ảnh hai người bọn họ đồng thuận về một việc gì đó quả thực quá hấp dẫn nên ông mặc kệ, thậm chí lờ đi dấu hiệu nói dối thoáng qua trên mặt cô gái.
“Và tôi đoán cuốn yêu thích của cô là Poe?”
“Ồ không, Poe có một mục đích: để làm phân tâm. Tôi thích truyện cổ tích. Không phải loại sến chảy nước của Disney đâu, mà là các phiên bản đã ‘diệt khuẩn’ của Perrault kia. Tôi thích những câu chuyện thật hơn, khi điều khủng khiếp xảy ra cho tất cả mọi người và anh thực sự hiểu rằng nó không dành cho trẻ em.”
“Không ảo tưởng?” Victor hỏi, và cô ta gật đầu.
“Chính xác.”
Cô gái mới rất lâu mới tỉnh lại, đủ lâu để ngay cả Lyonette cũng cân nhắc đến chuyện gọi Lorraine. Tôi đã thuyết phục chị ấy không làm vậy. Nếu cô gái kia có sắp chết vì thuốc mê đi nữa thì một y tá cũng chẳng làm gì được để ngăn lại và bản mặt dúm dó của mụ khốn ấy không phải là thứ đầu tiên mà tôi sẽ muốn thấy. Lyonette dùng câu ấy để ép buộc tôi thành gương mặt đầu tiên mà cô gái mới trông thấy.
Xét đến tình cảnh Lyonette trông như người chết được ủ ấm lại, thậm chí tôi còn không tranh cãi… nhiều lắm.
Mãi cuối chiều cô gái cuối cùng mới ngọ nguậy và tôi gập cuốn Oliver Twist lên một ngón tay để xem cô ấy có thực sự tỉnh không. Chúng tôi có thêm khoảng hai giờ đọc sách nữa trước khi ông có thể coi là cô ấy tỉnh táo đôi chút. Theo các hướng dẫn của Lyonette, tôi rót một cốc nước để sẵn và vò nước vài cái khăn để giúp cô ta đỡ đau đầu. Khi tôi gập một cái khăn dưới cổ cô gái, cô ta đánh vào tay tôi và chửi thề bằng tiếng Tây Ban Nha.
Tốt thôi.
Dần dà cô ấy cũng tập trung trí óc đủ để lột mấy cái khăn ra khỏi mặt và cố ngồi dậy, cả người cô lảo đảo vì cơn chóng mặt vẫn còn mạnh.
“Cẩn thận đấy,” tôi lặng lẽ nói. “Có ít nước đây, nó sẽ giúp ích.”
“Tránh xa tao ra, đồ khốn nạn biến thái!”
“Tôi không phải là người đã bắt cóc cô nên cô khỏi phải chửi. Tùy cô muốn uống nước và thuốc aspirin hay chết quách luôn, cô chọn đi.”
Lyonette rên lên. “Maya.”
Cô gái trố mắt nhìn tôi, nhưng ngoan ngoãn cầm lấy viên thuốc và cái cốc.
“Tốt hơn rồi. Cô đang bị một gã đàn ông được biết đến với tên Thợ Làm Vườn giam cầm. Hắn cho chúng ta những cái tên mới nên cô không cần phải cho chúng tôi biết tên cô đâu. Nhớ lấy nó, nhưng đừng nói ra. Tôi được gọi là Maya, còn cô gái đáng yêu bị cúm đằng kia là Lyonette.”
“Tôi là…”
“Không ai cả,” tôi gay gắt nhắc. “Không cho đến khi hắn cho cô một cái tên. Đừng làm cho mọi chuyện khó khăn hơn mức nó phải thế.”
“Maya!”
Tôi liếc sang chỗ Lyonette, chị đang nhìn tôi bằng ánh mắt tội nghiệp, thái quá, hoài nghi, kiểu cô-đang-làm-cái-quái-gì mà thường ngày chỉ dành cho Evita. “Vậy thì chị ra mà làm. Chị đã không phải là khuôn mặt đầu tiên cô ấy trông thấy, hooray! Giờ chị có thể tiếp quản nếu không thích cách em đang làm!”
Tôi chỉ có Sophia là mẫu hình bà mẹ cho tụi trẻ. Cô gái mới không bé bỏng thế, tôi cũng không phải Sophia.
Lyonette nhắm mắt lại và cầu nguyện sự nhẫn nại. Mặc dù vậy, trước khi kịp kết thúc, chị ấy đã phải gập người bên trên bồn cầu lần nữa.
Hai bàn tay cô gái mới bắt đầu run rẩy nên tôi nắm chúng trong tay mình. Đó luôn là cách giữ ấm trong Vườn, trừ đôi lần ở cái hang đằng sau thác nước, nhưng tôi biết những cơn run rẩy ấy là vì sốc nhiều hơn là lí do khác. “Chuyện thế này nhé, và nó rất đáng sợ, choáng váng lẫn bất công khủng khiếp, nhưng không có gì thay đổi cả: chúng ta ở đây với tư cách những vị khách bất đắc dĩ của một gã đàn ông sẽ tới gặp cô để bầu bạn, và thường là sex. Đôi khi con trai hắn cũng tới tìm cô. Giờ cô đã thuộc về chúng và chúng sẽ làm bất kể điều gì chúng muốn với cô, bao gồm cả việc đánh dấu cô là của chúng. Ở đây chúng ta có khá đông, và chúng ta hỗ trợ lẫn nhau khi có thể, nhưng cách duy nhất để cô thoát khỏi đây là chết nên cô sẽ phải quyết định xem sống như chúng ta thế này tốt hơn hay tồi tệ hơn cả cái chết.”
“Tự sát là tội lỗi,” cô gái thầm thì.
“Tốt, điều đó có nghĩa là sẽ có ít khả năng cô muốn tự kết liễu.”
“Chúa ơi, Maya, sao không đưa luôn cho cô ấy cái thòng lọng đi?”
Cô gái nuốt khan nặng nề nhưng - Chúa yêu cô vì điều đó - lại siết chặt tay tôi. “Cô đã ở đây bao lâu rồi?”
“Khoảng bốn tháng.”
Cô ấy nhìn sang Lyonette.
“Gần năm năm,” chị lẩm bẩm. Giá mà lúc ấy tôi biết… nhưng không thành vấn đề. Chưa bao giờ. Biết trước cũng có thay đổi được gì đâu.”
“Và chị vẫn còn sống, má luôn bảo tôi, nơi nào có sự sống nơi ấy còn hi vọng. Tôi sẽ hi vọng.”
“Chỉ cần cẩn thận với hi vọng thôi,” tôi cảnh báo cô ấy. “Một chút thì được. Quá nhiều thì lại thành méo mó.”
“Maya…”
“Thế nào, Cô gái mới, muốn đi xem một vòng không?”
“Tôi trần truồng mà.”
“Ở đây thì chẳng là gì đâu. Rồi cô sẽ quen.”
“Maya!”
“Chị có mang váy không?” Tôi cố tình hỏi, và Lyonette đỏ mặt bên dưới làn da bệnh tật. “Mà em cũng không để cô ấy mượn váy chị đâu; có khi chị đã nôn ra khắp mặt trước rồi.”
Chị chưa nôn, nhưng cái váy đen của chị dài tới tận sàn. Không đời nào Cô gái mới bé tí xíu này có thể mặc vừa cái đó. Nếu khá khẩm hơn thì tôi đã cho cô ấy mượn váy của mình rồi.
“Chờ đây nhé,” tôi thở dài. “Tôi sẽ đi lấy cái gì đấy từ Bliss.”
Bạn chúng tôi không ở trong phòng của em ấy khi tôi tới nơi nên tôi cứ thế lấy bừa một cái và quay lại phòng cô gái mới, như mọi khi, nơi đó lại bị các cô Bướm khác cố tình né tránh. Cô gái nhăn mặt khi thấy bộ váy đen - ngay cả tôi cũng phải thừa nhận nó không nịnh da cô mấy - nhưng ông sẽ học cách sợ quần áo màu trong Vườn.
Khi ông được đưa cho cái gì đó không phải màu đen thì đó là vì Thợ Làm Vườn muốn ông chết trong bộ váy ấy.
Cô gái vâng lời khi tôi bảo cô ấy đừng nhìn ra hành lang - thậm chí cả tôi cũng không xấu tính đến mức cho cô ấy xem ngay từ đầu. Cô gái ở đầu bên kia Vườn so với phòng tôi, ngay cuối hành lang từ phòng Lyonette, và chắn một phía của vùng đất cấm-vào nơi có những căn phòng mà chúng tôi không được phép bén mảng đến, cánh cửa dẫn ra Bên ngoài mà chúng tôi phải làm ra vẻ như không tồn tại. Từ vị trí đó, cô ấy có thể quét mắt một lượt hết bề ngang của Vườn: tất cả đám cây cối sặc sỡ, khỏe khoắn, những bông hoa rực rỡ và lối đi trải cát trắng, thác nước và dòng suối nhỏ và cái hồ, gờ đá, tất cả đám cây tí hon bên trên nó, những chú bướm thật bay lượn trên mấy khóm hoa, và bầu trời kính trông có vẻ xa xôi không tưởng.
Cô ấy bật khóc nức nở.
Lyonette lao tới nhưng lập tức lùi lại vì bị run bần bật. Cơn cảm cúm có lẽ không phải là cách tốt nhất để chào đón ai đó vào cái lồng xanh của chúng tôi. Tôi… chà, tôi cũng không nhân hậu đến thế. Chuyện quá rõ. Tôi nhìn cô gái mới trong lúc cô ấy sụp xuống đất, cuộn tròn lại thành một quả bóng tí hon, lúc cô vòng hai cánh tay ôm lấy bụng như thể chuyện này là một cú đấm thực mà cô có thể chống đỡ.
Dần dần, khi những tiếng khóc hổn hển, xé nát cõi lòng kia đã rút lại thành sụt sịt và hớp lấy không khí, tôi quỳ gối bên cạnh cô, một tay đặt lên tấm lưng còn chưa bị đánh dấu. “Đây không phải nỗi đau lớn nhất đâu,” tôi nói với cô ấy dịu dàng nhất có thể. “Nhưng tôi nghĩ nó là cú sốc tệ nhất. Từ đây trở đi, cô có thể kỳ vọng một chút.”
Đầu tiên tôi không chắc cô ấy có nghe thấy mình không, vì những tiếng rên rỉ vẫn tiếp tục không ngừng. Rồi cô ấy lăng mình sang một bên, vòng tay ôm lấy eo tôi và vùi mặt vào đùi tôi khi cơn kinh hoảng và đau đớn của cô lại một lần nữa dâng lên thành những đợt nức nở nghẹn lòng. Tôi không vỗ hay vuốt tóc cô, cũng không di chuyển bàn tay - rồi cô ấy sẽ học cách căm ghét cử chỉ đó từ Thợ Làm Vườn - nhưng tôi cứ để bàn tay mình trên lớp da ấm nóng của cô gái để cô biết là tôi còn đó.
“Ông có còn những bức ảnh chụp hành lang trong này không?” Đột nhiên cô ta hỏi, và hai đặc vụ rùng mình thoát khỏi thần chú từ những lời kể của cô. Chính Eddison đưa cho cô chồng ảnh, hai nắm tay cậu ta siết chặt trên đùi khi nhìn cô gái lần giở chúng. Cô lôi ra một tấm, nhìn chằm chằm vào nó một lát, rồi đặt nó ngửa mặt trên bàn để hai người đàn ông nhìn thấy. “Một con Chiricahua White.” Cô lần ngón tay trên bản phác họa rõ ràng hai màu đen - trắng của cặp cánh. “Hắn đặt tên cô ấy là Johanna.”
Victor chớp mắt. “Johanna à?”
“Tôi không biết hắn có đặt tên cho chúng tôi theo một hệ thống nào không. Tôi nghĩ hắn chỉ lục lọi một đống tên cho đến khi tìm được thứ hắn thích. Ý tôi là chắc chắn cô ấy không có vẻ như một Johanna, nhưng sao mà chẳng được.”
Victor ép mình nhìn cặp cánh trong bể kính. Cô ta nói đúng, cô bé này nhỏ xíu, dù từ tư thế rất khó để ước lượng chiều cao thật sự của cô. “Chuyện gì đã xảy ra với cô ấy?”
“Cô ấy… bất ổn. Phần lớn thời gian cô ấy có vẻ ổn định cuộc sống khá tốt, nhưng rồi đột nhiên cô lại có những đợt thay đổi tâm tính, làm ầm ĩ khắp Vườn. Rồi Lyonette chết, rồi Thợ Làm Vườn lại mang về một cô gái mới hơn.”
Ông hắng giọng khi cô gái không kể tiếp. “Chuyện gì đã xảy ra với cô gái ấy?” Ông lại hỏi, và Inara thở dài.
“Các bức tường hạ xuống để Thợ Làm Vườn có thể thực hiện hình xăm cho cô gái mới, nhưng bằng cách nào đó Johanna nán lại ở ngoài Vườn. Khi các bức tường được kéo lên, chúng tôi tìm thấy cô ấy trong hồ.” Bằng một cử động mượt mà, cô ta chộp lấy bức ảnh và úp mặt nó xuống bàn kim loại một cái rầm. “Tội lỗi loài người thế đấy.”
Trượt một chồng ảnh khác và các tài liệu tới trước mặt mình, Victor lặng lẽ giở qua chúng đến khi tìm được thứ đang tìm. Đó là một chàng trai trẻ, có lẽ già hơn vẻ ngoài một chút, với mái tóc rối bù kiểu nghệ sĩ màu nâu đậm đến mức gần như đen. Cặp mắt xanh lục nhạt nổi bần bật trên khuôn mặt gầy gò, trắng trẻo. Đó là một cậu bé đẹp trai, thậm chí cả trong bức chân dung vỡ nét này, một người mà - ít nhất dựa vào bề ngoài - ông sẽ không phiền nếu Holly dẫn về giới thiệu với ông. Ông nên mang cuộc nói chuyện quay trở lại chàng trai này.
Chưa được. Chỉ thêm một chút nữa thôi.
Ông không chắc đó là vì lợi ích của cô gái hay của chính ông.
“Khi Thợ Làm Vườn để ý thấy cô trèo lên cây.”
“Thì sao?”
“Cô đã kể rằng hắn tới để nói chuyện với cô trên giường của một người lạ; đó có phải cô gái sau Johanna không?”
Xác nhận câu hỏi của ông không phải là một nụ cười, mà giống một cái nhăn mặt hơn. “Không. Là cô sau nữa kia.”
Một chút chần chừ. “Tên cô gái ấy rốt cuộc là gì?”
Cô ta nhắm mắt lại. “Cô ấy chưa bao giờ có tên.”
“Sao lại không…”
“Đúng thời điểm. Đôi khi tất cả mọi chuyện đều vì thế.”
Cô gái có làn da như gỗ mun, gần như đen ánh xanh trên chiếc ga chun màu xám bồ câu, với cái đầu cạo nhẵn thín và các đường nét sẽ chìm nghỉm trên các bức tường của một kim tự tháp Ai Cập. Trong mấy ngày sau cái chết của Lyonette, tôi khẩn thiết cần một việc gì đó - bất kì việc gì - để làm, nhưng không giống như Bliss và Lyonette, tôi chẳng có tài năng lẫn hứng thú gì trong việc sáng tạo ra các thứ. Tôi đọc, và đọc rất nhiều, nhưng tôi không tự viết ra cái gì của riêng mình cả. Bliss vùi mình trong đống đất sét dẻo, chất đầy lò nướng các mô hình rồi lại hủy phân nửa số chúng trong cơn cáu giận, nhưng tôi không có cách giải tỏa như thế, cả sáng tạo lẫn hủy hoại.
Mặc dù vậy, ba ngày sau, Thợ Làm Vườn mang vào một cô gái mới và không còn Lyonette để cho cô ta những lời giới thiệu duyên dáng nữa. Không ai trong số các cô gái muốn tới gần cô ta cho đến khi cô ta ổn định và tôi tự hỏi không hiểu Lyonette đã phải làm cái công việc mà thậm chí không ai buồn nghĩ đến ấy bao lâu rồi.
Trong những ngày nối tiếp cái chết của Johanna, tôi tự hỏi mình gánh bao nhiêu phần tội lỗi trong lựa chọn của cô ấy - nếu có. Nếu tôi đã giải thích nhẹ nhàng hơn cho tình huống của cô, nếu tôi thông cảm hay an ủi tốt hơn, có lẽ cô ấy vẫn còn có thể bám víu vào niềm hi vọng mà mẹ cô đã kể với cô. Hoặc có lẽ là không. Có lẽ chính lần đầu tiên trông thấy Vườn, giây phút đầu tiên nó trở thành sự thật ấy, mới là thứ làm nên khác biệt.
Chẳng giống như tôi có thể hỏi cô ấy.
Vậy là tôi bị kẹt với cô gái mới, kiên nhẫn với cô ta hết mức có thể, và kiềm lại những câu nhận xét chua chát hơn. Nghĩ đến chuyện cô ta thường xuyên bật khóc đến thế nào, tôi đã phải kiên nhẫn hơn mức mà tôi tưởng là mình có thể. Bliss giải cứu tôi mấy lần.
Không phải là em ấy tự mình đến - đó sẽ là một ý kiến rất tồi - mà bằng cách gửi Evita tới để mang đến sự ngọt ngào và chân thành, và trong rất nhiều khía cạnh em làm tốt hơn tôi dù tôi có hi vọng cách mấy cũng không bằng.
Hôm sau buổi xăm mình thứ ba của cô ta, tôi vẫn ở cùng cô suốt buổi tối đến tận khi thuốc trong bữa tối của cô phát huy tác dụng. Thường thường tôi sẽ rời đi ngay, nhưng tôi đã trông thấy một thứ mà tôi muốn điều tra nhưng không làm cô ta sợ, điều đó có nghĩa là cô ta cần ngủ say. Thậm chí cả sau khi cô ta đã thở sâu và đều đặn, và cái cách mọi sự căng thẳng rời bỏ cơ thể cô cho tôi biết cô đang ngủ, thậm chí tôi vẫn để thuốc ngấm hơn nữa.
Có lẽ khoảng một tiếng sau khi cô gái đã ngủ, tôi đặt cuốn sách sang bên cạnh và lăn người cô ta nằm úp. Thường thì cô ta nằm ngửa, nhưng quá trình xăm đã khiến cô phải nằm nghiêng để giảm áp lực cho khu vực đang bị đau. Cuốn sách về bướm trong thư viện - cùng những chữ viết tay của Lyonette bò khắp lề, liệt kê những cái tên và vị trí trong hành lang - đã cho tôi biết Thợ Làm Vườn chọn loài Falcate Orangetip cho cô ta, hầu hết là màu trắng với một vệt màu cam trên rìa của mỗi cái cánh trên. Hắn thích dùng màu trắng và vàng nhạt nhất cho những cô gái có nước da đen, vì lí do gì đó. Tôi đoán hắn sợ những màu tối sẽ không nổi bật như thế. Lần này, hắn đã làm xong phần màu cam và chuyển sang các phần màu trắng, có điều gì đó ở chúng hơi sai sai.
Bấy giờ, khi tôi đã có thể thực sự cúi sát nó để nhìn mà không làm cô gái sợ, tôi có thể trông thấy những chỗ sưng thêm, giống hình vảy cá bên dưới lớp mực xăm, cái cách mực trắng phồng rộp lên ghê tởm trong những bọc mụn to. Cặp chóp cánh màu cam cũng tệ không kém. Lần theo sống lưng cô gái kĩ hơn, thậm chí cả các đường viền và đường gân cũng lấm chấm vẩy. Tôi tháo một bên khuyên tai của mình - Thợ Làm Vườn chưa bao giờ lấy chúng - và dùng đầu nhọn để cẩn thận gẩy một cái mụn nhỏ. Chủ yếu là chất lỏng trong rỉ ra từ chỗ châm kim nhỏ xíu, nhưng khi tôi khẽ ấn xuống, một chất khác màu trắng sữa cũng rỉ ra theo.
Tôi rửa cái khuyên tai trong bồn và đeo lại lên tai trong lúc cố nghĩ ra một giải pháp. Tôi không chắc cô ta đang phản ứng với mực hay kim, nhưng chắc chắn một kiểu dị ứng gì đó đang xảy ra. Không phải loại đe dọa tính mạng tức thời như dị ứng lạc, nhưng nó cũng không để cho vết xăm liền da. Sự nhiễm khuẩn cũng có thể gây chết người chẳng kém gì phản ứng ít-xta-min, như Lorraine đã có lần bảo chúng tôi vào một trong mấy ngày thân thiện hiếm hoi của mụ.
Tất nhiên, mụ cũng đã gây ra cho Bliss đủ kiểu đau đớn bằng cách chọc ngoáy bàn chân em ấy để lấy dằm nên việc đó ắt hẳn góp phần vào tâm trạng tốt của mụ.
Vì không có ý tưởng nào tốt hơn, tôi quay lại bên cạnh cô gái và cố đánh giá xem phản ứng ở từng vùng da tệ đến đâu. Tôi đã xem được hết phần da cam và nửa phần trắng thì cảm thấy có sự thay đổi.
Thợ Làm Vườn đã ở đó.
Hắn dựa người vào ngưỡng cửa, hai ngón cái móc vào túi quần kaki là cứng. Đèn đóm khắp Vườn đã tắt khi các cô gái đi ngủ, chờ đợi xem đêm nay họ có được yêu cầu mua vui cho kẻ giam giữ mình không. Hắn không bao giờ gọi Lyonette khi chị ấy phải chăm sóc một cô gái mới, nhưng tôi nào phải Lyonette.
“Trông em có vẻ lo lắng,” hắn nói thay vì chào hỏi.
Tôi chỉ vào lưng cô gái. “Cô ấy sẽ không lành lại.”
Khi bước vào phòng, hắn tháo măng-xéc và xắn tay áo sơ mi xanh đậm lên tận khuỷu. Màu xanh ấy làm cặp mắt xanh nhạt sáng rực trên gương mặt hắn. Hắn dùng hai bàn tay dịu dàng ấn vào lưng cô gái, cũng tìm thấy những thứ giống tôi, và dần dần nỗi lo ngại chuyển thành cái nhìn buồn bã sâu sắc. “Mọi người đều phản ứng khác nhau với hình xăm.”
Đáng lẽ tôi phải cảm thấy buồn thương, giận dữ hay bối rối. Nhưng tất cả những gì tôi cảm thấy là tê liệt.
“Ông làm gì với những cô gái không bao giờ hoàn thiện cặp cánh?” Tôi khẽ hỏi.
Hắn dành cho tôi một cái nhìn thoáng qua, trầm tư, và tôi băn khoăn liệu mình có phải đứa con gái đầu tiên hỏi về chuyện ấy. “Tôi đảm bảo họ được chôn cất tử tế trên mảnh đất này.”
Eddison gầm lên và với tay lấy cuốn sổ ghi chép. “Hắn có nói ở đâu trong khu đất không?”
“Không, nhưng tôi nghĩ nó trông ra một con sông. Đôi khi hắn vào Vườn với bùn dính trên giày và vẻ bâng khuâng trên mặt. Trong những ngày đó, hắn cho Bliss vài viên sỏi lấy từ sông để dùng làm bệ đỡ cho các hình nộm. Từ trên ngọn cây thì tôi không trông thấy gì.”
Cậu ta vo viên tờ giấy bạc và ném nó vào tấm gương một chiều. “Cử một đội tới bờ sông, tìm mấy nấm mộ.”
“Anh có thể nói làm ơn.”
“Tôi giao nhiệm vụ cho họ, chứ không xin một ân huệ,” cậu ta đốp lại qua hàm răng nghiến chặt.
Cô gái nhún vai. “Guilian lúc nào cũng nói làm ơn. Cả Rebekah cũng thế, kể cả khi chị chỉ phân chia khu vực. Nhưng mà, tôi đoán đó là lí do tôi thích làm việc cho Guilian. Anh ấy khiến nơi đó trở nên dễ chịu và ai nấy đều được tôn trọng.”
Chẳng khác nào cô ta vừa tát thẳng vào mặt Eddison. Victor trông thấy màu đỏ vì cơn giận lan tới tận cổ áo đồng sự của mình và nhìn ra chỗ khác để không bật cười. Hay ít nhất để Eddison không trông thấy. “Có phải chỉ có những cô gái bị chết trước khi cặp cánh hoàn thiện không?” Ông hỏi nhanh.
“Không. Nếu họ chết mà làm hỏng cặp cánh, hắn sẽ không trưng bày họ. Avery đã đưa vài cô khác xuống mồ thay vì bể kính, khi hắn đánh họ dữ dội đến mức có sẹo trên hình xăm.” Cô ta khẽ chạm vào cổ. “Giselle.”
“Cuộc nói chuyện chưa dừng lại ở đó, đúng không?”
“Không, nhưng ông đã biết rồi.”
“Phải, nhưng tôi muốn nghe nốt,” ông trả lời, đúng như cách sẽ nói với mấy cô con gái.
Cô ta nhướn một chân mày với ông.
Như Lyonette thường làm, tôi đã mượn một cái ghế đẩu trong phòng y tế để đặt cạnh giường cô gái. Ngồi trên giường có lẽ cũng chẳng sao, nhưng việc này cho cô ấy thêm một chút không gian. Cho cô ấy một lãnh thổ riêng. Thợ Làm Vườn không thực sự công nhận lãnh thổ theo cách ấy. Hắn ngồi tựa lưng vào tấm ván đầu giường, đặt đầu cô gái lên đùi để hắn có thể xoa một bàn tay khắp cái đầu đã cạo trọc. Theo tôi được biết, hắn không bao giờ ghé thăm các cô gái trong phòng họ đến tận sau khi họ đã được đánh dấu hoàn chỉnh và hắn đã hiếp họ lần đầu tiên.
Rốt cuộc, việc ấy mới làm họ trở thành của hắn.
Nhưng, hắn đã không ở đó để gặp cô gái mới. Hắn ở đó để nói chuyện với tôi.
Và dường như hắn không hề vội vã.
Tôi kéo hai chân lên ghế, ngồi xếp bằng trên chiếc ghế hẹp và giở cuốn sách ngang đùi, đọc tiếp để lấp chỗ trống cho đến khi hắn đưa tay ra và khẽ đóng sách lại. Khi ấy tôi mới chú ý đến hắn.
“Em đã theo dõi gia đình tôi bao lâu rồi?”
“Gần như từ khi cặp cánh của tôi được hoàn thành.”
“Nhưng em đã không nói gì cả.”
“Không nói với ông hay bất kì ai.” Thậm chí cả Lyonette và Bliss cũng không, mặc dù tôi đã bị cám dỗ. Tôi không chắc vì sao. Có lẽ sẽ dễ dàng hơn nếu chỉ nghĩ về hắn như kẻ giam cầm chúng tôi. Đặt một gia đình vào đó làm cho… à thì, làm cho chuyện có vẻ sai trái hơn theo cách nào đó. Ngay việc nó có thể còn sai hơn nữa đã đủ đáng sợ rồi.
“Và em đã nghĩ gì khi trông thấy chúng tôi?”
“Tôi nghĩ vợ ông đang ốm.” Tôi hiếm khi nói dối Thợ Làm Vườn; sự thực là thứ duy nhất có thể mãi mãi thuộc về tôi. “Tôi nghĩ bà ấy sợ Avery và không muốn thể hiện điều đó, tôi nghĩ bà ấy yêu con trai út của ông. Tôi nghĩ bà ấy trân trọng những cuộc đi dạo cùng ông như khoảng thời gian duy nhất mà bà ấy có được sự chú tâm không hề bị chia sẻ của ông.”
“Chỉ đứng trên cây mà nghĩ ra từng ấy chuyện ư?” Tạ ơn Chúa, trông hắn có vẻ hứng thú hơn bất cứ điều gì. Hắn dựa lưng thoải mái hơn vào tấm ván đầu giường, một tay vòng ra sau để gối đầu.
“Tôi nói sai à?”
“Không.” Hắn nhìn cô gái trên đùi, rồi nhìn tôi. “Bà ấy đã vật lộn hàng năm trời với bệnh tim. Nó không đủ nghiêm trọng để bà ấy đủ tiêu chuẩn nhận ghép tạng, nhưng lại ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống.”
Vậy vợ hắn cũng là một kiểu bươm bướm. “Thế là đúng một vế.”
“Và bà ấy đúng là rất yêu con trai thứ hai của chúng tôi. Bà ấy khá tự hào về thằng bé. Nó đạt điểm tuyệt đối, luôn luôn lịch sự, lại chơi đàn dương cầm và vĩ cầm rất hay.”
“Thế là hai vế.”
“Khu vườn và công việc kinh doanh của tôi, các hoạt động từ thiện và kế hoạch của bà ấy, thời khóa biểu của chúng tôi thường xung đột với nhau. Cả hai chúng tôi đều dành thời gian để đi dạo buổi chiều trừ khi ra khỏi thành phố. Nó có lợi cho tim bà ấy.”
“Thế là ba.”
Và tất cả những gì còn lại mới là khó khăn nhất, điều mà không cha mẹ nào muốn thừa nhận.
Thế nên hắn không nói. Và im lặng cũng có nghĩa là đồng thuận.
“Em rất để ý đến mọi việc, đúng không, Maya? Con người, các hình mẫu, các sự kiện. Em tìm ra nhiều ý nghĩa hơn những người khác.”
“Tôi có để ý,” tôi đồng tình. “Nhưng không biết là mình tìm được nhiều ý nghĩa hơn.”
“Em quan sát một cuộc đi dạo trong nhà kính và nghĩ ra chừng đó ý nghĩa.”
“Tôi không nghĩ ra ý nghĩa gì cả. Tôi chỉ chú ý đến ngôn ngữ cơ thể thôi.”
Ngôn ngữ cơ thể là một trong những thứ đã cho tôi biết hàng xóm kế bên nhà tôi là một kẻ ấu dâm từ rất lâu trước khi hắn tự hé lộ lần đầu tiên, trước khi hắn chạm vào tôi và bảo tôi chạm vào hắn. Nó nằm trong cách hắn nhìn tôi và những đứa trẻ khác ở khu, trong những cái nhìn bị tổn thương của bọn trẻ được hắn nhận nuôi. Tôi đã chuẩn bị cho sự tấn công của hắn vì tôi biết nó sẽ tới. Ngôn ngữ cơ thể cảnh báo tôi về gã cắt cỏ của bà, về những đứa trẻ ở trường sẽ đánh đập tôi chỉ vì chúng có thể. Ngôn ngữ cơ thể còn tốt