← Quay lại trang sách

PHẦN III *MARY* LÂU ĐÀI WINDSOR MÙA THU NĂM 1563

Nữ hoàng Elizabeth, vui vẻ như một con chim két đậu trên giậu hoa hồng, cưỡi ngựa lên đường từ sáng sớm, và tất cả các thị nữ phải đi cùng bà, dù vui hay không, dù thích hay không. Tôi cưỡi một chú ngựa săn to lớn nhưng không còn sợ hãi như những ngày thơ ấu ở Bradgate. Cha tôi luôn bế tôi lên một chú ngựa lớn, nói rằng nếu tôi cầm chắc dây cương và bảo đảm con ngựa biết ai là người ra lệnh thì không có gì đáng lo cả. Rằng tôi nên ngồi lệch một chút trên yên ngựa vì tôi vốn bị vẹo cột sống. Và, nếu tôi ra hiệu lệnh một cách rõ ràng, mạnh mẽ thì sẽ không có vấn đề gì vì tôi vốn thấp bé nhẹ cân. Cha cũng nói rằng dù tôi không cao nhưng tôi có thể khiến ai cũng phải “ngước” nhìn.

Trong khi Jane, chị cả của tôi, chỉ muốn ở nhà đọc sách, và chị Katherine luôn muốn chơi với bầy thú nhỏ trong vườn hoặc trong phòng chị, thì tôi luôn ở trong chuồng ngựa, đứng trên một cái thùng lật úp để vuốt ve những chú ngựa to lớn, hoặc leo lên bục lên ngựa rồi ngồi không cần yên cương trên chiếc lưng rộng ấm áp của chúng.

“Con đừng để việc con được sinh ra với cơ thể nhỏ nhắn và cái lưng không được thẳng cản trở đường tiến lên của con”, cha tôi thường nói như thế với tôi. “Không ai trong chúng ta hoàn hảo cả, con không hề kém cỏi hơn Vua Richard III, người đã cưỡi ngựa trong nửa chục trận đánh và hy sinh trong một cuộc tấn công bằng kỵ binh – nhưng không ai bảo rằng ông không nên cưỡi ngựa cả”.

“Nhưng ông là người rất xấu”, tôi nói với cái nhìn nghiêm nghị của một đứa trẻ bảy tuổi.

“Ừ, rất xấu”, cha tôi đồng ý, “nhưng đó là về tâm hồn, chứ không phải cơ thể ông. Con sẽ là một cô gái tốt dù vóc dáng nhỏ nhắn và cột sống hơi lệch một chút. Con có thể học cách đứng thẳng như một ngự lâm quân, và con có thể trở thành một người phụ nữ đẹp. Nếu không kết hôn thì con có thể là một em gái tốt của Jane và Katherine, một người dì tốt của các cháu. Nhưng cha không thấy có lý do nào khiến con không nên kết hôn và có một gia đình hạnh phúc khi có cơ hội. Sự ra đời của con cũng tốt đẹp như bất kỳ cô gái nào trong vương quốc này, thậm chí tốt hơn tất cả mọi người, ngoại trừ các công chúa, hoàng tử con vua. Sự thật mà nói, vấn đề không phải là cột sống của con có thẳng hay không, mà là trái tim con có ngay thẳng hay không”.

Tôi vui mừng khi cha tin tưởng tôi và dạy tôi cưỡi ngựa như mọi người khác. Cha là người đầu tiên giao cho tôi nhiệm vụ phải đứng thẳng, và tôi đã rèn luyện bản thân như thế. Tôi trải qua những ngày dài ngồi sau yên ngựa của Nữ hoàng Elizabeth và người nài ngựa lố bịch của bà, chẳng ai quan tâm tôi có ngồi vững không hay tôi có mệt không. Tôi có thể cưỡi ngựa xa và nhanh như bất cứ người phụ nữ nào trong triều đình, và tôi can đảm hơn hầu hết bọn họ. Tôi không bao giờ ngồi sụp trên yên ngựa hay nhăn mặt vì đau lưng vào cuối một ngày dài. Tôi không bao giờ quay nhìn Robert Dudley ra dấu để nhờ ông xin Nữ hoàng quay về nhà. Tôi không bao giờ mong đợi bất kỳ sự giúp đỡ nào từ họ cả, và vì vậy nên tôi không bao giờ thất vọng.

Không phải việc cưỡi ngựa khiến tôi mệt mỏi, nhưng Chúa biết tôi mệt đến chết với Nữ hoàng Elizabeth, và khi vó ngựa gõ lên con đường rải sỏi ở cổng thành Lâu đài Windsor, người trung sĩ gác cổng Thomas Keyes nhìn tôi với ánh mắt nâu đầy lo lắng. Tôi gật đầu mỉm cười với chàng, ra dấu rằng tôi chỉ kiệt sức với vị Nữ hoàng này mà thôi. Tôi không bị đau vì cưỡi ngựa mà chỉ thấy đau trong lòng.

Suốt quãng thời gian vui vẻ này, dưới cái nóng của mùa hè chuyển dần sang thu, trong khi Nữ hoàng Elizabeth dành buổi sáng để đi săn, buổi trưa đi dã ngoại và chèo thuyền trên sông, buổi tối với những vở kịch, khiêu vũ và hóa trang, thì chị tôi đang bị chú tôi giam cầm trong ba căn phòng với con của chị, bị tách khỏi đứa con trai đầu yêu dấu và chồng chị ấy.

Không có gì gây rắc rối cho người dì hoàng gia của chúng tôi cả! Mọi thứ đều khiến Nữ hoàng Elizabeth vui vẻ. Bà ăn uống say sưa giữa tiết trời ấm áp trong khi người dân London phải chịu đựng cảnh oi bức và bệnh dịch lan rộng. Mọi ngôi làng trên mọi con đường rời khỏi London đều có ít nhất một ngôi nhà bị đánh dấu thập trên cửa và bên trong có những con người đang hấp hối. Mọi căn nhà ven sông Thames đều khóa chặt cửa cống và rào chắn không cho tàu thuyền từ London đi vào. Mọi thành phố trong vương quốc đang đào hố chôn xác người chết vì bệnh và mọi nhà thờ đang cầu nguyện cho dịch bệnh trôi qua. Mọi ngôi nhà chưa bị dịch bệnh tấn công đều khóa trái cửa không tiếp khách. Người ta sợ hãi đến mức đối xử nhẫn tâm với người khác. Nhưng, không có gì gây trở ngại cho Nữ hoàng Elizabeth cả. Bà vẫn tán tỉnh Dudley giữa cái nóng như đổ lửa ban ngày và lẻn vào phòng ông bất cứ tối nào bà thích, trong khi chị tôi than khóc hằng đêm mơ được tự do.

Thomas Keyes phải làm nhiệm vụ gác cổng lâu đài và không thể giúp tôi xuống ngựa, nhưng luôn có một trong những người đàn ông trẻ tuổi của triều đình nhanh chóng đến đỡ tôi xuống. Họ biết rằng chị tôi và hai con trai của chị là những người kế vị ngai vàng tiếp theo; họ biết thứ bậc của tôi được Nữ hoàng công nhận. Không ai trong họ biết ảnh hưởng của tôi như thế nào và tôi có thể làm gì cho họ nếu họ làm tôi vui lòng. Tôi gần như không nhìn thấy họ. Nụ cười duy nhất của tôi chỉ dành cho Thomas Keyes, người trung sĩ gác cổng của Nữ hoàng; chàng là người duy nhất mà tôi tin tưởng giữa cái hố sâu hiểm độc của những con rắn hai mặt này. Thomas gật đầu chào riêng tôi khi tôi đi qua, và tôi biết tôi sẽ gặp lại chàng sau, vào một ngày nào đó khi Nữ hoàng Elizabeth đang vui vẻ với những người khác và quên chú ý đến tôi.

“Công nương Mary đâu rồi?”, bà hỏi ngay khi vừa xuống ngựa, như thể bà rất yêu mến tôi và luôn nhớ đến tôi suốt cả ngày vậy, rồi tôi tiến lên phía trước để nhận đôi găng tay đi ngựa bằng da có thêu hoa rất đẹp của bà. Một người khác nhận chiếc roi ngựa, và bà đưa bàn tay trắng muốt cho Robert Dudley dắt bà rời khoảng sân ánh sáng chói chang bước vào bóng râm mát mẻ của Lâu đài Windsor, với bữa sáng được phục vụ trong đại sảnh và Đại sứ Tây Ban Nha đang đợi chào đón bà.

Tôi mang đôi găng tay vào phòng trang phục hoàng gia, rắc lên một ít phấn thơm rồi gói chúng vào một tấm vải, sau đó tôi quay lại đại sảnh ngồi xuống bàn cùng với các thị nữ. Nữ hoàng Elizabeth ngồi ở chiếc bàn cao nhất với Đại sứ Tây Ban Nha một bên và Robert Dudley bên kia. Tôi ngồi ở đầu bàn dành cho các thị nữ; tôi là cháu họ của bà, tôi là con gái của một công nương dòng dõi. Tất cả chúng tôi đều cúi đầu hành lễ, Nữ hoàng Elizabeth khăng khăng muốn làm lễ bằng tiếng Latin để phô diễn sự thông thái của bà hơn là vì lòng mộ đạo, rồi những người hầu mang bình nước và chén đến cho chúng tôi rửa tay. Sau đó, họ mang lên những món ăn tuyệt vời, hết đĩa này đến đĩa khác. Mọi người đều đói sau một buổi sáng trên lưng ngựa, thịt và bánh mì mới nướng được phục vụ cho mỗi bàn.

“Cháu có nghe tin gì từ chị cháu không?”, dì Bess St. Loe thầm hỏi tôi. “Cháu viết thư, nhưng chị ấy không trả lời”, tôi đáp, “chị ấy được phép nhận thư của cháu, dù chú phải đọc trước, nhưng chị ấy không trả lời”.

“Có chuyện gì xảy ra với cô ấy không? – Ồ, không phải dịch bệnh gì chứ?” “Không, ơn Chúa, dịch bệnh chưa lan đến Pirgo. Chú bảo rằng chị ấy không ăn uống gì cả mà chỉ khóc liên tục.”

Dì Bess tỏ vẻ ái ngại, “Ôi, cháu tôi”.

“Vâng”, tôi mím môi, “khi Nữ hoàng bắt đứa trẻ đi, cháu nghĩ bà ấy đã làm tan nát trái tim chị Katherine”.

“Nhưng Nữ hoàng sẽ tha thứ cho cô ấy, và cô ấy sẽ được đoàn tụ với họ. Cô ấy rất tử tế. Và Katherine là người kế vị duy nhất phù hợp với đức tin chúng ta. Nữ hoàng Elizabeth phải quay lại với cô ấy.”

“Cháu biết”, tôi nói, “cháu biết việc đó sẽ xảy ra. Nhưng trong khi chờ đợi thì đây là những ngày tháng khó khăn với chị ấy. Và thật tàn nhẫn với hai đứa trẻ, bọn trẻ chưa từng biết gì khác ngoài việc bị giam giữ. Dì có nói chuyện với Nữ hoàng không?”.

“Có lẽ ít nhất bọn trẻ phải được thả...”, dì Bess bắt đầu nói, sau đó ngưng lại khi Nữ hoàng đứng lên thông báo rằng bà sẽ đi dạo trong vườn với Đại sứ Tây Ban Nha và Robert Dudley. Có ba thị nữ đi sau bà, còn lại chúng tôi được tự do khoảng một hoặc hai giờ. Chúng tôi đứng dậy, đi theo bà ra khỏi đại sảnh và nhún gối chào khi bà đi qua cổng vườn, khoác tay Robert Dudley một bên và Álvaro de la Quadra bên kia. Nữ hoàng Elizabeth rất thích ở trung tâm của sự chú ý với mỗi người đàn ông một bên. Tôi nghĩ nếu không phải là một nữ hoàng thì chắc chắn bà ta sẽ trở thành một ả điếm. Khi họ đi ra và cánh cổng được lính gác đóng lại sau lưng, tôi lướt đi theo hướng đối diện đến cổng chính. Nó được khóa chặt để chống dịch bệnh, nhưng có một anh lính gác đẹp trai làm nhiệm vụ phía trong cửa xép. Khi tôi đến gần, anh ta cúi đầu và đưa tay ra giúp tôi bước qua cánh cửa hẹp.

Thomas đứng gác bên ngoài cánh cửa bị khóa, khoanh tay trước ngực. Đó là một người đàn ông khổng lồ trong bộ chế phục Tudor, người trung sĩ gác cổng của Nữ hoàng. Tôi cảm thấy mình đang mỉm cười lần đầu tiên trong ngày hôm nay khi vừa nhìn thấy chàng.

“Công nương Mary!”, chàng kêu lên khi tôi đập nhẹ lên khuỷu tay chàng. Chàng quỳ một chân xuống khoảnh sân rải sỏi để gương mặt chàng ngang tầm với tôi, đôi mắt nâu tràn đầy yêu thương, “nàng được tự do bao lâu? Nàng sẽ vào nghỉ trong nhà gác cổng nhé?”.

“Em có một giờ”, tôi nói, “bà ấy đang đi dạo trong vườn”.

Thomas ra lệnh cho một trong những người lính gác thay thế vị trí của chàng rồi dẫn tôi đến nhà gác cổng kế bên cổng thành, nhìn tôi leo lên chiếc ghế lớn cạnh chiếc bàn của chàng. Chàng rót cho tôi một ly rượu nhỏ từ chiếc bình trên chạn và ngồi xuống một chiếc ghế thấp bên cạnh để đầu chúng tôi có thể ngang nhau.

“Có tin gì về chị nàng không?”, chàng hỏi.

“Không có gì mới. Em đã hỏi Robert Dudley xem ông ấy có thể nói chuyện với Nữ hoàng một lần nữa không. Ông ấy bảo việc đó sẽ chẳng có ích gì mà chỉ làm bà ấy tức giận hơn thôi”.

“Vậy nàng phải chờ à?”

“Chúng ta phải chờ”, tôi xác nhận.

“Thế thì chuyện của chúng ta cũng phải chờ thôi”, chàng nhẹ nhàng nói. Tôi đặt tay lên bờ vai rộng của chàng và vuốt ve bông hồng Tudor trên cổ áo chàng. “Chàng biết rằng em sẽ kết hôn với chàng ngay ngày mai nếu có thể. Nhưng lúc này em không thể xin Nữ hoàng Elizabeth bất cứ điều gì, cho đến khi bà ấy chịu ân xá cho chị Katherine. Chị ấy phải được tự do trước đã”.

“Tại sao bà ấy lại phiền lòng đến thế nhỉ?”, chàng tự hỏi. “Tại sao một nữ hoàng vĩ đại lại phải bận tâm quá nhiều về chị của nàng như vậy? Đó không phải là vấn đề riêng tư của trái tim sao? Bá tước Hertford thuộc dòng dõi quý tộc, tại sao chị nàng không được làm vợ ngài ấy?”.

Tôi ngần ngại. Thomas có cách nhìn đơn giản của một người đàn ông chân chất. Chàng đứng gác cổng mỗi ngày và chịu trách nhiệm về sự an toàn của một vị Nữ hoàng mâu thuẫn bậc nhất. Có những người yêu mến Nữ hoàng Elizabeth và sẵn sàng chết vì bà ấy, những người năn nỉ xin vào lâu đài chỉ để được nhìn thấy bà, như thể bà là một vị thánh, để họ có thể về nhà nói với con cái rằng họ đã nhìn thấy người phụ nữ vĩ đại nhất vương quốc, đeo đầy những món đồ trang sức với sự uy nghi lộng lẫy trong bữa tối. Và cũng có những người ghét bà cay đắng vì càng ngày bà càng đưa đất nước rời xa Giáo hội La Mã. Họ gọi bà là kẻ dị giáo và sẵn sàng đầu độc bà, đâm chết bà hoặc đặt bẫy bà như bẫy một con thú hoang. Một số người xem thường bà vì sự lang chạ, một số nghi ngờ bà ngoại tình, và một số khác thậm chí còn cáo buộc bà sử dụng yêu thuật, dị hình, che giấu một đứa con hoang, hay thậm chí cho rằng bà là đàn ông. Mọi người đàn ông và phụ nữ ở mọi tầng lớp phải đi ngang qua cái nhìn rà soát của Thomas và chàng vẫn kiên định nghĩ đến những điều tốt đẹp nhất, tin tưởng họ nhất miễn là họ an toàn, hoặc bảo họ quay về nếu chàng nghĩ họ có thể là một mối nguy hiểm. Chàng tin rằng con người nói chung là tốt và tử tế giống như chàng vậy.

“Em không biết tại sao Nữ hoàng Elizabeth không thể chấp nhận cuộc hôn nhân của chị Katherine”, tôi lựa lời nói, “em biết bà ấy sợ rằng nếu chị Katherine được chọn làm người kế vị thì mọi người sẽ rời bỏ bà và chị Katherine sẽ âm mưu chống lại bà, giống như dì Margaret Douglas, một người dì họ khác, đã làm. Nhưng hơn thế nữa, không chỉ chị Katherine – Nữ hoàng Elizabeth không thích ai kết hôn cả; bà không thích ai được chú ý ngoại trừ bà. Tất cả các thị nữ đều không mong đợi được Nữ hoàng cho phép kết hôn. Thậm chí bà không cho phép bọn em nói về việc đó. Tất cả mọi người ở triều đình đều phải yêu một mình bà ấy mà thôi”.

Thomas mỉm cười bao dung. “Ừ thì bà ấy là nữ hoàng”, chàng thừa nhận, “ta cho rằng bà ấy có thể có một triều đình theo sở thích của bà ấy. Ta có thể gặp nàng tối nay sau khi khóa cổng chứ?”.

“Em sẽ gặp chàng trong vườn”, tôi hứa.

Chàng cầm bàn tay nhỏ bé của tôi trong bàn tay to lớn của chàng và nhẹ nhàng hôn lên nó. “Ta rất vinh dự”, chàng nói thầm, “ta nhớ nàng suốt cả ngày, nàng biết đấy, và ta mong ngóng nàng được ra hay vào cổng. Ta thích nhìn nàng cưỡi ngựa, ngồi rất cao trên lưng ngựa và rất xinh đẹp trong bộ áo váy”.

Tôi nghiêng đầu chạm má lên mái tóc chàng khi chàng cúi xuống hôn tay tôi. Tóc chàng dày và xoăn, có mùi khí trời. Tôi nghĩ rằng trong toàn bộ thế giới nguy hiểm và không chắc chắn này, tôi đã tìm thấy người đàn ông duy nhất mà tôi có thể tin cậy. Tôi nghĩ chàng không biết điều đó đối với tôi quý giá đến nhường nào.

“Lần đầu tiên chàng mong đợi em là khi nào?”, tôi thì thầm hỏi.

Chàng ngẩng đầu lên và mỉm cười trước sự trẻ con của tôi, muốn nghe một câu chuyện lặp đi lặp lại. “Ta để ý đến nàng khi lần đầu tiên nàng đến triều đình, lúc chưa đầy mười tuổi, một cô gái nhỏ bé. Ta còn nhớ ta đã nhìn thấy nàng ngồi trên một con ngựa to lớn và ta cảm thấy lo sợ thay cho nàng. Rồi ta thấy nàng điều khiển nó và biết nàng tuy nhỏ bé nhưng thật mạnh mẽ”.

“Chàng là người vĩ đại nhất mà em từng gặp”, tôi nói với chàng. “Trung sĩ gác cổng của Nữ hoàng, chàng rất đẹp trai trong bộ chế phục, cao to như một cây đại thụ, một cây sồi vĩ đại”.

“Rồi khi nàng được chọn làm thị nữ trong cung, ta nhìn thấy nàng ra vào triều đình, và ta nghĩ rằng trong tất cả họ, nàng là người vui vẻ nhất và ngọt ngào nhất”, chàng nói, “khi chị nàng lẻn qua cánh cổng với chiếc mũ trùm lên mái tóc vàng, ta biết chị ấy đi gặp người tình, ta đã định cảnh báo nàng; nhưng nàng còn rất trẻ và rất xinh đẹp, ta không muốn là người mang lo lắng đến cho cuộc sống của nàng. Ta không dám nói chuyện với nàng cho đến khi nàng bắt đầu chào ta vào buổi sáng. Ta đã mong đợi điều đó – nàng nói. ‘Chào buổi sáng, đội trưởng Keyes’. Và ta lắp bắp như một gã ngốc hân hoan, không kịp đáp lại một lời nào”.

“Nhờ đó mà em biết chàng thích em”, tôi nói với chàng. “Chàng nói chuyện tự nhiên với mọi người khác, nhưng với em, chàng lúng túng như một cậu bé. Và chàng đỏ mặt! Chúa ơi! Một người đàn ông to lớn mà đỏ mặt như một cậu học trò!”.

“Làm thế nào ta có thể nói chuyện với một công nương như nàng chứ?”, chàng chữa thẹn.

“Ôi! Người tốt nhất triều đình!”, tôi nói với chàng. “Em rất vui khi chàng đề nghị đi cùng em đến thăm chị Katherine ở Tháp. Khi chàng nói sẽ hộ tống em vì đường phố không an toàn. Em rất vui khi có chàng bên cạnh. Giống như đi bên cạnh một chú ngựa Shire tuyệt vời vậy: Chàng to lớn đến mức mọi người đều tránh đường. Và khi em gặp chị ấy, nhìn chị ấy đau khổ đến mức em muốn bật khóc cùng với chị ấy, rồi em bước ra ngoài, thấy chàng đang chờ em, và em cảm thấy được an ủi chỉ vì chàng ở đó, như một ngọn núi. Em cảm thấy mình có một đồng minh. Một đồng minh to lớn như một tòa lâu đài. Một người bạn mạnh mẽ”.

“Chắc chắn là cao rồi”, chàng cười nói, “ta sẽ làm tất cả vì nàng, công nương nhỏ bé của ta”.

“Hãy luôn yêu em, như bây giờ vậy”, tôi thì thầm. “Ta thề sẽ luôn yêu nàng.”

Chàng im lặng trong giây lát. “Nàng không phiền việc ta đã kết hôn trước đây chứ?”, chàng khẽ hỏi. “Nàng không phản đối các con ta chứ? Chúng sống với dì chúng tại Sandgate, nhưng ta sẽ rất vui nếu chúng có một người mẹ kế đáng yêu như nàng”.

“Liệu bọn trẻ có coi thường em không?”, tôi lúng túng hỏi.

Chàng lắc đầu: “Bọn trẻ sẽ biết nàng là một phụ nữ tuyệt vời ngay cả khi chúng phải cúi xuống hôn tay nàng”.

“Em thích chúng ta có con”, tôi thẹn thùng nói. “Trước tiên em sẽ chăm sóc các con của chàng, sau đó có lẽ là những đứa con của chúng ta”.

Chàng nắm tay tôi, áp lên má, “Mary, chúng ta sẽ rất hạnh phúc”. Chúng tôi cùng im lặng trong giây lát, rồi tôi nói: “Chàng biết không, bây giờ em phải đi”.

Chàng đứng thẳng người lên, đầu gần chạm trần nhà. Chàng cao hơn hai mét tính từ đôi giày ống khổng lồ đến mái tóc nâu xoăn. Khi đứng cạnh chàng, đầu tôi chỉ ngang với chiếc thắt lưng da bóng loáng của chàng. Chàng mở cửa cho tôi, tôi đi đến cánh cổng rào chắn lớn của Lâu đài Windsor và chàng mở cánh cửa xép bên trong cho tôi qua.

“Hẹn gặp nàng tối nay nhé!”. Chàng thì thầm và nhẹ nhàng khép cửa lại sau lưng tôi.

LÂU ĐÀI WINDSOR GIÁNG SINH NĂM 1563

Tình yêu của tôi tặng tôi một chiếc nhẫn vàng với một viên hồng ngọc nhỏ xíu mang màu sắc của tình yêu đích thực, màu đỏ sẫm. Tôi tặng chàng một chiếc thắt lưng bằng da dày để chàng đeo ngang vòng eo rộng. Tôi tự tay dùng dùi của một người thợ đóng giày để khắc tên và gia huy của chúng tôi lên lớp da dày đó. Chàng có thể đeo nó quay vào trong để không ai biết ngoại trừ hai chúng tôi. Khi tôi tặng nó cho chàng và chàng lấy nó ra khỏi chiếc túi lụa nhỏ do tôi tự tay may, chàng đỏ mặt đến tận mang tai giống như một chú bé con.

Tôi rất thích chiếc nhẫn chàng tặng tôi. Nó vừa vặn với ngón tay tôi như một chiếc nhẫn cưới và chàng nói tôi phải đeo nó trên ngón tay đeo nhẫn khi tôi ở một mình, vì đó là tín vật tình yêu chàng dành cho tôi và chúng tôi đã hẹn ước với nhau.

“Em ước gì chúng ta có thể kết hôn và chung sống với nhau ngay lập tức”, tôi thì thầm với chàng. Tôi ngồi trong lòng chàng, đôi tay to lớn của chàng vòng quanh người tôi. Chàng ôm tôi nhẹ nhàng như thể tôi là một đứa trẻ, nhưng tôi vẫn cảm thấy nhịp đập khao khát của chàng dành cho tôi như một phụ nữ khi tôi đặt những ngón tay tôi lên cổ tay mạnh mẽ của chàng.

“Ta cũng ước gì như vậy”, chàng nói, “ngay khi nàng đồng ý, ta sẽ đi tìm một mục sư và những người làm chứng, rồi chúng ta sẽ kết hôn. Hoặc chúng ta có thể đến nhà thờ. Ta không bao giờ muốn nàng phải đối mặt với những câu hỏi như chị nàng phải chịu đựng. Chúng ta sẽ có người làm chứng và chúng ta sẽ có hôn ước bằng giấy tờ”.

“Họ không quan tâm đến em đâu!”, tôi phẫn uất nói. “Trong mắt Nữ hoàng Elizabeth, em bé nhỏ đến mức bà ấy thậm chí không e ngại gì em cả. Em không giống như chị em, cả nửa triều đình châu Âu tán tỉnh và thêu dệt các âm mưu. Hôn nhân của em là chuyện của riêng em: Với bà ấy, không có gì khác biệt dù em có kết hôn hay không, dù em có một nhà đầy trẻ con hay chỉ có một mình chàng”.

“Vậy chúng ta sẽ kết hôn trong bí mật chứ?”, chàng hỏi trong hy vọng. “Nàng có dám không?”.

“Có thể là năm tới”, tôi thận trọng đáp. “Em không muốn khiến Nữ hoàng lại nổi giận giống như chuyện của chị Katherine. Em hy vọng Hội đồng có thể thuyết phục bà thả chị ấy trong tháng này. Một số học giả đang nghiên cứu tìm cách chứng minh chị ấy là người kế vị và chứng minh đám cưới của chị ấy hợp pháp để các con chị ấy trở thành những người kế vị hợp pháp. Em không thể nghĩ về bất cứ chuyện gì khác cho đến khi điều đó được viết ra và công bố”.

Thomas gật đầu. Chàng rất tôn trọng nền học vấn trong gia đình tôi, nhất là sau khi chị Jane được công nhận là một nhà thần học và những bài viết của chị được rất nhiều người đọc ở khắp nơi. “Nàng có đang viết cuốn sách nào không?”, chàng hỏi.

“Ồ, không”, tôi nói, “tất cả đều đang được thực hiện bởi viên chưởng lý cấp cao trong Tòa Đại hình, John Hales. Ông ấy đã đọc di chúc nguyên bản của nhà vua và nói trong đó ghi rõ tên mẹ em và dòng dõi của mẹ là những người kế vị sau Hoàng tử Edward và các công chúa. Hales đã chứng minh rằng cuộc hôn nhân của bà em là một cuộc hôn nhân hợp pháp, vì vậy nên dòng họ em hợp pháp, được sinh ra ở Anh và theo Kháng cách. Lúc này chồng chị Katherine, Ned Seymour, đang trả tiền cho các giáo sĩ ở nước ngoài để chứng minh rằng cuộc hôn nhân của họ, lời thề hôn nhân riêng và các con của họ là hợp pháp. Khi tất cả các bằng chứng được tổng hợp lại thì John Hales sẽ công bố và cả vương quốc sẽ thấy rằng chị Katherine được chứng minh là người kế vị của Nữ hoàng: sinh ra hợp pháp và kết hôn hợp pháp”.

Thomas do dự. Chàng là người ít học nhưng chàng có nhiều hiểu biết về thế giới thực tế xung quanh. Chàng phụ trách an ninh của cung điện và Nữ hoàng ngay từ khi Nữ hoàng Elizabeth mới lên ngôi. “Thế này nhé, thưa Công nương xinh đẹp, ta không phải một nhà quý tộc, cũng không phải một học giả, nhưng ta không chắc việc này có khôn ngoan không. Nữ hoàng không phải là một phụ nữ có thể cảm thấy bị bắt buộc phải làm theo những gì người khác nghĩ. Ngay cả khi toàn bộ đất nước cùng suy nghĩ một việc, bà ấy vẫn sẽ đi theo con đường riêng của mình. Nàng có nhớ quãng thời gian khi bà là vị công chúa Kháng cách duy nhất đứng lên vì đức tin của mình, khi chị bà đang là Nữ hoàng không? Lúc đó bà đã không hề đổi ý, mặc dù có vẻ như cả tất cả đang chống lại bà, từ Nữ hoàng Mary xứ Scots cho đến cả những người Tây Ban Nha. Ta nghĩ muốn thuyết phục bà thì một cuốn sách không đủ”.

“Nhưng bà đã làm theo”, tôi bướng bỉnh nói, “em còn nhớ bà đã đi dự thánh lễ và rên rỉ về việc đó”.

“Và đã về sớm”, chàng nhắc tôi, “vì lý do bị ốm. Và thể hiện cho mọi người thấy rằng bà không nuốt nổi nó”.

“Vâng, nhưng William Cecil đang bảo trợ cho cuốn sách này”, tôi nhấn mạnh, “và cả Robert Dudley nữa. Những gì William Cecil nghĩ hôm nay, Nữ hoàng sẽ thông báo vào ngày mai. Cuối cùng, bà ấy sẽ nghe theo lời khuyên của ông ấy. Ông ấy, em rể ông ấy và tất cả các cố vấn khác đều ủng hộ cuốn sách, và họ sẽ thấy nó được công bố. Nữ hoàng sẽ phải chọn chị Katherine làm người kế vị khi toàn bộ các những người Cơ đốc giáo đều nói chị ấy đã thực sự kết hôn và toàn thể Hội đồng Cơ mật đều nói chị ấy là người kế vị”.

Chúng tôi nghe thấy tiếng đồng hồ báo giờ. “Em phải đi thôi”, tôi nói, cựa mình trong vòng tay ấm áp của chàng.

Chàng bế tôi lên từ trong lòng chàng và đặt tôi xuống đất rồi nghiêng người về phía trước, kéo thẳng chiếc váy và những nếp nhăn trên tay áo tôi. Chàng dịu dàng như thị nữ của một công nương. Chàng vuốt chiếc mũ trùm đầu và chỉnh lại cổ áo cho tôi.

“Xong rồi”, chàng nói, “công nương xinh đẹp nhất triều đình”.

Tôi đợi chàng mở cửa phòng gác và liếc nhìn ra ngoài. “Không có ai cả”, chàng nói và lùi lại để tôi bước ra.

Khi tôi băng qua sân từ cửa chính đến các bậc tam cấp dẫn ra vườn, bộ váy của tôi lấm tấm tuyết, thật không may tôi đụng mặt Nữ hoàng đang bước vào sau khi chơi bóng gỗ trên thảm cỏ đóng băng. Bà mặc một chiếc váy màu đỏ nhung với chiếc mũ trùm đầu che phủ hai tai. Bà khoác tay Robert Dudley, hai má ửng hồng vì lạnh và ánh mắt lấp lánh. Tôi lùi lại và nhún gối chào, chuồi chiếc nhẫn hồng ngọc từ ngón tay vào túi áo trước khi ánh mắt tối tăm sắc sảo của bà kịp nhìn thấy nó: “Kính chào Nữ hoàng!”.

Thomasina, cô thị nữ lùn của Nữ hoàng, đi theo sau họ và nhìn tôi với một vẻ mặt hài hước như muốn hỏi tôi vừa mới ở đâu. Tôi mặc kệ cô ta. Cô ta không có quyền tò mò về tôi. Tôi không phải trả lời cô ta, và nếu cô ta gợi ý để Nữ hoàng hỏi tôi thì sau đó tôi sẽ gặp riêng cô ta để bảo cô ta đừng chõ mũi vào việc người khác.

“Công nương Mary”, Nữ hoàng Elizabeth lên tiếng với giọng khó chịu. Tôi không nghĩ ra tôi đã làm gì khiến bà bực mình, nhưng rõ ràng là bà không vui, “cô có vui lòng có mặt giúp ta thay y phục cho bữa tối hôm nay không?”.

Dù không nhìn nhưng tôi vẫn có thể cảm thấy nụ cười trấn an của Robert Dudley. Tôi không dám nhìn thẳng vào bất cứ đâu ngoại trừ đôi mắt đen lấp lánh của Nữ hoàng Elizabeth. “Vâng ạ, thưa Nữ hoàng”, tôi ngoan ngoãn nói, “thần rất vinh dự”.

“Vậy thì nhớ đấy!”, bà cáu kỉnh nói rồi đi lướt qua tôi. Tôi nhún gối chào, và khi ngẩng đầu lên, tôi bắt gặp một nụ cười cảm thông rất nhanh của Robert Dudley và một cái nháy mắt xấc xược của Thomasina. Robert Dudley nối bước theo Nữ hoàng. Thomasina lần lữa đứng lại.

“Có người đang viết sách về chị cô”, Thomasina thông báo với tôi, “đó là lý do tại sao bà ấy tức giận với cô. Bà ấy chỉ mới nghe nói về nó. Rõ ràng trong đó nói rằng chị cô sẽ là Nữ hoàng Anh tiếp theo. Cô sẽ là em gái Nữ hoàng và là dì của vị vua kế tiếp. Thật không tưởng tượng nổi một người lùn giống như tôi lại ở sát cạnh ngai vàng đến thế”.

“Tôi không có gì giống cô cả”, tôi lạnh lùng nói.

“Ồ, cô nghĩ cô sẽ cao hơn với chiếc vương miện tuyệt vời trên đầu chị cô sao?”, cô ta cười nói. “Việc chị cô lên ngôi có giúp cô cao hơn không? Cô có cao hơn khi được chị cô phong làm nữ Công tước không?”.

“Tôi không hiểu cô đang nói về chuyện gì cả”, tôi quay đi, nhưng cô ta nắm lấy váy tôi lại trong bàn tay nhỏ nhắn vuông vức của mình, giống bàn tay tôi.

“Chuyện gì?”, tôi ngang giọng. “Để tôi đi nào. Cô nghĩ chúng ta sẽ cãi nhau trong sân như các thị đồng sao?”.

“Có nhiều người sẵn sàng trả tiền để xem đấy”, cô ta vui vẻ nói, “nhưng tôi luôn kiếm sống bằng cách làm một thị nữ nhỏ nhắn chứ không làm một chú hề vui nhộn đâu”.

“Còn tôi thì chưa bao giờ phải kiếm sống”, tôi nghiêm giọng nói, “và chiều cao của tôi không liên quan gì đến ai cả. Tôi rất cảm ơn cô nếu cô buông áo tôi ra”.

Cô ta thả váy tôi ra, nhưng nụ cười xấc xược không hề biến mất. “Có một cuốn sách thật đấy, Công nương Mary”, cô ta nói ngắn gọn, “các học giả đang viết, từng phần một. Có một trang sách bị đánh cắp từ Tòa Đại hình cho thấy gia đình cô được Vua Henry VIII chỉ định làm người kế vị, bằng chứng của cuộc hôn nhân cho thấy dòng dõi cô hợp pháp, chứng minh rằng cả ba người, Công nương Jane, Công nương Katherine và cô đều sinh ra ở Anh, theo Kháng cách và thuộc dòng dõi hoàng tộc”.

“Đừng có nói về chị Jane”, tôi cảnh cáo.

“Được chôn trong một chiếc quan tài to như quan tài của... một đứa trẻ!”, cô ta nói một cách ranh mãnh. Tôi quay gót sải bước đi, nhưng tôi có thể nghe tiếng cô ta liến thoắng phía sau và cô ta chạy nhanh lên trước chắn đường tôi.

“Cô sẽ muốn biết phần còn lại của câu chuyện này”, cô ta nói, “hãy nghe đây, vì lợi ích của chính cô. Báo cáo của các học giả từ Pháp và Tây Ban Nha đều chọn chị Katherine của cô là người kế vị hợp pháp. Nữ hoàng đang rất giận dữ. Nếu cô là người yêu cầu họ viết các báo cáo này thì tốt hơn cô nên cảnh báo cho các thư ký của cô lánh đi. Cô có thể bảo chú cô đi một chuyến đến Pháp vì lý do sức khỏe. Và tốt hơn cô nên tiếp tục cúi đầu xuống, đừng chạy ra ngoài hôn chàng trung sĩ gác cổng nữa”.

Tôi cắn môi nén bật ra một tiếng kêu vì sốc.

“Tôi nghe thấy rất nhiều chuyện”, cô ta nói thêm, “cô biết thế nào mà. Không ai quan tâm đến chúng ta cả”.

“Thế sao cô lại cảnh báo tôi?”, tôi hỏi, “trong khi cô đang sống dưới cái bóng của bà ấy?”.

“Bởi vì chúng ta đều là những người lùn”, cô ta thẳng thắn nói, “cả hai chúng ta đều là những phụ nữ nhỏ bé trong một thế giới rộng lớn và đầy nguy hiểm. Chúng ta có sự gắn kết của những người lùn, dù rằng cô muốn phủ nhận điều đó. Vì vậy, tôi nói với cô – đừng khiến bà ấy nổi giận nữa. Bà ấy đã đủ giận dữ với gia đình cô rồi”.

Cô ta gật đầu một cách xấc láo như thể muốn tôi phải hiểu thật rõ mọi thứ, rồi cô ta quay lại và nhảy qua sân, giống như một cô bé đang chạy theo sau gia sư, và tôi thấy cánh cửa dẫn đến cầu thang lên hậu cung của Nữ hoàng Elizabeth đóng lại sau lưng cô ta.

LÂU ĐÀI WINDSOR MÙA XUÂN NĂM 1564

Tôi hầu hạ Nữ hoàng Elizabeth suốt mùa xuân lạnh giá nước Anh bằng sự nhã nhặn và tỉ mẩn nhất có thể, và dù bà có búng ngón tay kêu tôi lấy cây quạt hay phàn nàn tôi làm trầy xước cổ bà khi giúp bà đeo sợi dây chuyền bằng ngọc bích, bà không có lý do nào khác để o ép tôi.

Thậm chí tôi cũng không liếc nhìn về phía cô lùn Thomasina để cảm ơn vì lời cảnh báo, hoặc khi một điệu nhảy khiến chúng tôi vô tình đứng cạnh nhau, tôi sẽ đổi vị trí bất cứ khi nào có thể. Tôi không thừa nhận sự gắn kết giữa những người lùn. Tôi không tham gia hiệp hội những người còi cọc. Tất nhiên tôi có thể nhận ra các đặc điểm của tôi ở Thomasina, trong dáng đi liêu xiêu với đôi chân ngắn, trong việc phải liên tục ngước mặt lên và xoay tới xoay lui để bám sát những cuộc nói chuyện đang diễn ra phía trên đầu mình. Tôi đoán lưng cô ta cũng bị đau như tôi sau một ngày dài trên lưng ngựa, và cả hai chúng tôi đều ghét khi mọi người gọi chúng tôi là những đứa trẻ do nhầm lẫn vóc dáng với tuổi tác hoặc trí tuệ. Nhưng tôi sẽ không bao giờ tỏ ý rằng tôi và cô ta cùng một khuôn đúc cả. Chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên về ngoại hình và chỉ có vậy. Lẽ nào Nữ hoàng Elizabeth phải nhận họ hàng với tất cả những người tóc đỏ? Liệu Phu nhân Margaret Douglas là chị em với một con ngựa? Bề ngoài không là gì cả so với dòng dõi. Tôi thuộc dòng dõi hoàng tộc và không phải một người lùn; tôi mang họ Grey và không phải một món đồ chơi đẹp. Tôi là người thừa kế ngai vàng nước Anh, còn Thomasina chỉ là người thừa kế di truyền những đoạn xương ngắn.

Nhưng vào một buổi tối đầu xuân khi đi ăn tối, tôi nhận thấy William Cecil vắng mặt, một điều bất thường, và sự tâng bốc hài hước của Robert Dudley nghe có vẻ gượng gạo. Nữ hoàng Elizabeth xù lông như một con mèo mắc mưa; mọi người đều thấy bà rất cáu kỉnh. Có vẻ như không ai khác trừ người lùn Thomasina biết được ai đã ngu ngốc đến mức chọc giận Nữ hoàng Elizabeth, nhưng tôi không thể tự đi hỏi cô ta.

Trong khi các bàn ăn đang được dọn dẹp, Robert Dudley cúi xuống hôn tay Nữ hoàng và tôi thấy bà gật đầu với người thư ký, người này đưa cho ông một xấp giấy. Ông cúi đầu nhận lấy rồi rời khỏi đại sảnh. Tôi lén đi vòng quanh các bức tường, không ai chú ý đến tôi vì đầu tôi còn thấp hơn những chiếc ghế có lưng dựa cao. Tôi bắt kịp ông ngay bên trong những cánh cửa lớn và tôi chuồi theo ra ngoài khi họ mở cửa cho ông.

“Công nương Mary”, ông nói, cúi đầu chào tôi. Những cánh cửa đóng lại phía sau chúng tôi, triều đình không thể nhìn thấy chúng tôi.

“Có vấn đề rắc rối à?”, tôi hỏi thẳng.

Ông cúi thấp xuống để có thể nói chuyện nhỏ giọng với tôi. “Đúng vậy. Một ai đó – tôi nghĩ là đại sứ Pháp – đã nộp cho Nữ hoàng quyển sách ủng hộ chị cô, Công nương Katherine, là người kế vị ngai vàng”.

“Công nương Hertford”, tôi nói, sửa bằng tên của chồng chị ấy.

Ông cau mày với tôi. “Công nương Katherine”, ông lặp lại, “đây không phải là lúc để cô khẳng định một cuộc hôn nhân mà Nữ hoàng đã phán quyết là không hợp lệ”.

Tôi nhìn khuôn mặt tối tăm của người mà cuộc hôn nhân của chính ông cũng sẽ bị phán quyết là không hợp lệ, nếu vợ ông không bị mưu sát một cách thuận tiện.

“Chúng ta đều biết rõ sự thật”, tôi kiên quyết nói.

“Và các tác giả đã công bố những gì họ nghĩ là sự thật”, ông ngang giọng đáp.

“Ngài có liên quan đến cuốn sách không?”. Tôi hỏi, dù biết là ông có liên quan.

“Không”, ông nói dối, “nhưng những người có liên quan với nó sẽ bị trừng phạt. Nữ hoàng đã ra lệnh bắt giữ chú John Grey của cô; John Hales, tác giả; Robert Beale, thư ký của ông ấy; Francis Newdigate, cha dượng của Edward Seymour. Ngay cả Quan giữ ấn Nicholas Bacon cũng bị bắt vì dám đưa ra ý kiến ủng hộ chị cô”.

Tôi cảm thấy lạnh run. “Chú tôi bị bắt? Quan giữ ấn bị bắt? Nhưng còn chị Katherine thì sao?” Tôi chụp lấy tay áo ông. “Ôi, ngài Robert! Họ không đưa chị ấy trở lại Tháp chứ?”.

“Không.”

“Nhưng chị ấy sẽ đi đâu nếu chú tôi bị bắt khỏi nhà? Họ có để chị ấy ở đó với Phu nhân Grey không? Hay chị ấy được thả? Ôi, ngài Robert, chị ấy có được thả không?”

“Không”, ông đứng thẳng lên, “Công nương Mary, tôi phải làm công vụ cho Nữ hoàng. Tôi phải gởi lính đi bắt những người này về thẩm vấn”.

Tôi ngước nhìn ông. “Ngài, ngài đi bắt họ ư? Ngài, người không liên quan gì đến cuốn sách, sao giờ lại đi bắt họ?”.

“À”, ông nói ngắn gọn, “vì Nữ hoàng ra lệnh cho tôi”.

Không có gì để than phiền khi ông luôn làm theo bất cứ điều gì Nữ hoàng muốn và không bao giờ phản đối bà. Bạn không được ân sủng tại triều đình của một bạo chúa nếu bạn không từ bỏ những nguyên tắc của bạn mỗi ngày. Tất cả những gì tôi có thể làm là cố giữ ông về phía chị Katherine.

“Ngài Robert, việc này rất tàn nhẫn với chị tôi và các con chị ấy. Họ không làm gì cả. Chị ấy không làm gì cả. Ai đó đã yêu cầu viết cuốn sách này – thậm chí cả bạn bè ngài – nhưng chị ấy không làm. Ai đó đã viết nó – không phải chị ấy. Ai đó đã công bố nó – không phải chị ấy. Ngài không thể xin thả chị ấy được sao? Ngay cả khi ngài phải bắt giữ những người khác?”

Ông lắc cái đầu tối tăm của mình. “Nữ hoàng sẽ không nghe lời tôi trong chuyện này”, ông nói. “Bà ấy không nghe ai cả. Bà ấy có quyền ban lệnh ân xá chỉ khi nào bà ấy cảm thấy vui”.

“Dì Margaret Douglas của chúng tôi được tha dù phạm tội nặng hơn nhiều!”

“Đó là quyết định của Nữ hoàng. Việc đó thuộc thẩm quyền của bà ấy.” “Tôi biết!” Tôi nói. “Bà ấy đã...”.

Ông giơ tay lên cao để nhắc nhở tôi rằng ông không thể nghe bất cứ điều gì không hay về người phụ nữ đang cai trị cả hai chúng tôi.

“Bà ấy đã quyết định”. Tôi tiếp tục nói, và khi ông quay đi, tôi thì thầm với chính mình, “quyết định làm một kẻ đê tiện”.

Tôi đang ngồi trong nhà gác với Thomas Keyes trong khi chàng quan sát cánh cổng và người lính trực qua một ô cửa nhỏ. Bỗng tôi nghe thấy tiếng vó ngựa và Thomas nói: “Đó là những người bị bắt vì ủng hộ chị nàng, thật đáng thương!”.

Chàng đỡ tôi lên một chiếc ghế để tôi có thể nhìn ra ngoài cửa sổ mà không bị ai trông thấy. Hales cưỡi một con ngựa gầy yếu và phía sau ông là một người đàn ông khác, mặt cúi gằm, đi giữa người lính có vũ khí trên tay.

“Chúa ơi! Đó là chú John của em. John Grey, người đang cầm giữ chị em!”

Thomas rời khỏi tôi, cầm theo cây gậy đội trưởng màu đen. Tôi nghe tiếng chàng ra lệnh dừng lại và sau đó chàng mở cửa cho họ vào rồi quay lại với tôi, đặt cây gậy vào góc phòng rồi nới lỏng chiếc thắt lưng da.

“Nhưng họ đã làm gì thế?”, chàng hỏi tôi với vẻ bối rối. “Bị bắt chỉ vì họ viết một cuốn sách sao?”.

“Đúng vậy!”, tôi cay đắng nói. “Chàng biết chú em không bao giờ làm gì chống lại Nữ hoàng Elizabeth. Chú ấy mãi mãi trung thành với bà. Và John Hales cũng nói rằng tất cả những gì ông đang cố gắng làm là chứng minh tính hợp pháp của một người kế vị theo Kháng cách. Ông không hề kêu gọi chị Katherine tiếm quyền của Nữ hoàng Elizabeth mà chỉ kêu gọi để chị ấy được chọn làm người kế vị nếu Nữ hoàng Elizabeth băng hà mà không có con trai”.

“Hội đồng Cơ mật sẽ nhìn thấy điều đó”, Thomas nói một cách hy vọng. “Trừ phi họ tự bịt mắt bịt tai”, tôi cay đắng nói.

CUNG ĐIỆN GREENWICH MÙA HÈ NĂM 1564

Nữ hoàng Elizabeth cho gọi tôi vào hậu cung khi bà đang thay y phục cho bữa tối. Bà ngồi cạnh bàn, trước một chiếc gương Venetian, bộ tóc giả màu đỏ đặt trên giá đỡ, những ngọn nến lấp lánh xung quanh trong khi những người hầu tỉ mỉ thoa phấn trắng lên mặt bà. Bà ngồi bất động một cách hoàn hảo, giống như một pho tượng cẩm thạch, khi hỗn hợp chì và giấm trắng được dàn trải một cách không tì vết từ chân tóc xuống cổ rồi xuống ngực bà. Không ai dám thở mạnh. Tôi đứng đóng băng như những bức tượng khác trong căn phòng cho đến khi bà mở mắt ra, nhìn thấy tôi trong gương và nói mà không hề cử động đôi môi, nơi lớp phấn nền hỗn hợp đang khô lại, “Công nương Mary, nhìn đây này”.

Theo ánh mắt bà, tôi bước lên trước và khi bà chớp mắt cho phép, tôi cầm lên một cuốn sách nhỏ đang mở trước mặt bà.

Cuốn sách có tựa đề Monas Hieroglyphica80* và tác giả là John Dee. Có vẻ như nó được viết riêng tặng cho Hoàng đế La Mã Chí thánh và lời tựa dài lê thê như bắt người đọc phải thừa nhận các biểu tượng hành tinh là có ý nghĩa tự thân, và có thể được đọc như một ngôn ngữ hoặc một loại mật mã.

80* . Monas Hieroglyphica (hay Hieroglyphic Monad) là tiêu đề của cuốn sách được xuất bản năm

1564 bởi John Dee, gồm một tập hợp các biểu tượng bí truyền (esoteric symbols) được phát minh và thiết kế bởi chính tác giả. Các biểu tượng thể hiện tầm nhìn của Dee về sự thống nhất của vũ trụ và là tổng hợp của nhiều biểu tượng bí truyền và chiêm tinh khác nhau. Tuy là một học trò theo trường phái Phục hưng Tân Plato (Renaissance Neo-Platonism) của Marsilio Ficino, Dee không nhìn thấy được sự khác biệt giữa toán học và ma thuật. Thay vào đó, ông cho rằng tất cả các hoạt động của mình gồm nhiều khía cạnh khác nhau của cùng một nhiệm vụ: tìm kiếm sự hiểu biết siêu việt của Thiên Chúa ẩn dưới thế giới hữu hình, mà Dee gọi là “Sự thật Thuần khiết” (“Pure Verities”). Theo Wikipedia.

Tôi ngước lên và bắt gặp ánh nhìn tăm tối của Nữ hoàng Elizabeth. “Đọc đi”, bà ra lệnh bằng đôi môi mím chặt. “Cô nghĩ sao?”.

Tôi lật các trang sách nhỏ. Chúng gồm toàn những hình ảnh và các biểu tượng thiên văn với những dòng chữ li ti giải thích ý nghĩa của từng biểu tượng và biểu tượng này khớp với biểu tượng kia như thế nào. Có một số trang về toán học, thể hiện mối liên hệ giữa các biểu tượng, và một số trang khác có vẻ giống triết học, hay thậm chí là thuật giả kim.

“Thần không thể hiểu cuốn sách này khi mới đọc lần đầu”, tôi thẳng thắn nói. “Thần cần nghiên cứu nhiều ngày mới có thể hiểu được ạ. Thần xin lỗi, thưa Nữ hoàng”.

“Ta cũng không thể hiểu nổi”, Nữ hoàng Elizabeth thở ra và một ít phấn trắng bay bám vào gương, “nhưng ta nghĩ đó là một tác phẩm phi thường. Ông ấy kết hợp các ký hiệu cổ và các nghiên cứu về Hồi giáo – ông ấy nói về một vũ trụ khác tồn tại song song với thế giới này, hoặc phía sau thế giới này, mà chúng ta có thể cảm nhận nhưng khó mà nhìn thấy. Nhưng ông ấy nghĩ rằng những biểu tượng này mô tả thế giới đó, và có một loại ngôn ngữ có thể học được”.

Tôi lắc đầu bối rối. “Thần sẽ đọc nó cẩn thận, nếu Người muốn, và viết một bài thu hoạch”, tôi đề nghị.

Bà cười nhẹ để không làm rạn lớp phấn. “Ta sẽ cho đọc nó bởi chính tác giả”, bà nói. “Ông ấy sẽ có mặt theo lệnh ta. Nhưng cô có thể ngồi nghe cuộc đàm luận để học hỏi, nếu cô muốn. Ta chỉ muốn xem cô hiểu được gì sau lần đọc đầu tiên”.

“Thần không dám nhận đặc ân được học cùng Người”, tôi tìm cách thoái thác, “nhưng thần sẽ rất vui nếu được hiểu biết thêm. Nếu thần được nghe Người giảng dạy, chắc chắn thần sẽ được mở mang hơn”.

“Nhưng ta nghe nhiều người nói rằng chị Jane của cô là một học giả”, bà nói. “Ta nghe Roger Ascham nói với mọi người rằng cô ta là học giả vĩ đại nhất ngày ấy. Ông ấy đang viết một cuốn sách để tưởng nhớ cô ta. Dường như ngày nay mọi người đều muốn viết sách – họ không có việc gì khác để làm hay sao?”.

“Ông ấy chỉ gặp chị ấy một hoặc hai lần”, tôi nói, kìm nén khao khát bảo vệ chị Jane chống lại thói ganh tị hủ lậu này. “Ông ấy hầu như không quen biết chị ấy”.

“Hãy nhớ là ta cũng đã học với Hoàng hậu Kateryn Parr”, Nữ hoàng Elizabeth nói, ngẫm nghĩ về những cuộc tranh chấp đã qua.

“Và tôi nữa”, Phu nhân Margaret Douglas lên tiếng từ phía sau căn phòng, tuyệt vọng muốn được tham gia và nhắc nhở Nữ hoàng Elizabeth về mối quan hệ họ hàng của bà. Nữ hoàng Elizabeth không buồn quay đầu lại.

“Tôi chắc chắn chị ấy chưa bao giờ đọc một cuốn sách nào như cuốn sách này của Tiến sĩ John Dee81*”, tôi nói, cố gắng đưa Nữ hoàng Elizabeth về thực tại.

81* . John Dee (1527-1608) là nhà toán học, chiêm tinh học, nhà huyền bí, nhà hàng hải. Ông là gia sư và cố vấn của Nữ hoàng Elizabeth I. Năm 20 tuổi, ông được mời giảng đại số cao cấp tại Đại học Paris. Ông từng theo học và giảng dạy tại Đại học Cambridge, Anh và Đại học Louvain, Bỉ. Người hướng dẫn luận án tiến sĩ của ông sau này là Gemma Frisius và Gerardus Mercator. John Dee là người đứng giữa khoa học và phép thuật, mặc dù hai lĩnh vực này rất khác nhau. Ông là người có học hơn tất cả những người đàn ông khác cùng độ tuổi của mình Ông đã lập nên thư viện lớn nhất ở Anh và một trong những thư viện lớn nhất ở châu Âu thời bấy giờ.

“Đúng vậy”, bà đáp, “ta dám chắc là cô ta không thể hiểu nó”.

Họ vẽ môi cho bà, tô đậm lông mi và lông mày của bà. Họ nhỏ nước cà dược vào mắt bà để trông có vẻ long lanh hơn. Tôi đứng cầm cuốn sách, chờ xem mình có được ra về chưa. Tối nay tôi không phải phục vụ bà; không phải vẽ lên ngôi mộ trắng của vị Nữ hoàng già này. Tối nay lẽ ra tôi được tự do làm những gì tôi muốn; nhưng bà lại giữ tôi ở đây khi bà lo lắng liệu tôi có đủ thông minh để hiểu được những gì không rõ ràng với bà hay không, than phiền rằng người chị đã mất từ lâu của tôi là một học giả giỏi hơn.

“Cô không nghĩ đây là một trò dị giáo chứ?”, bà đứng lên và họ giữ chiếc váy dưới chân bà để bà bước vào giữa, rồi họ kéo nó lên và thắt dây ngang eo bà.

“Thần không thể đưa ra ý kiến”, tôi thận trọng nói, “Nữ hoàng mới là người đánh giá điều đó tốt nhất. Nhưng thần luôn nghe Người nói tốt về John Dee”.

“Ta có nói”, bà khẳng định. “Và ta rất vui khi ông ấy trở lại Anh với một kiến thức như vậy! Ta sẽ bắt đầu đọc cuốn sách này vào ngày mai. Cô có thể tham gia với chúng ta”.

Tôi nhún gối chào như thể rất biết ơn. “Tạ ơn Nữ hoàng. Thần rất mong được học hỏi từ hai vị”.

John Dee, người có đôi mắt màu sẫm, vận áo thụng đen như các học giả đương thời, được bao bọc quanh mình toàn sách vở và các công trình nghiên cứu. Mỗi trang giấy là những dòng chữ ngoằn ngoèo cùng ký hiệu, ký hiệu này nối tiếp ký hiệu kia, và mỗi ký hiệu được ghi chú với hàng chục chú thích nhỏ. Tôi nhìn ông khoa tay dùng ngón trỏ chỉ vào một đoạn văn mà ông muốn chúng tôi ghi chú lại. Nữ hoàng Elizabeth, với cuốn sách mở trong lòng, ngồi giữa cơn bão khoa học này, đôi mắt mở to chăm chú. Thomasina, như một chú chó kiểng mặc quần áo sặc sỡ, quỳ dưới chân bà. Tôi ngồi trên một chiếc ghế ở một bên; tôi không bao giờ khúm núm trên sàn trong khi Nữ hoàng Elizabeth đang ngồi.

John Dee nói về các ký hiệu của những ngôi sao: Bất cứ điều gì thể hiện trên trời đều khớp với một chuyện gì đó xảy ra ở dưới đất. “Ở trên thế nào, ở dưới thế ấy”, ông nói.

“Vậy ông có thể tiên đoán được cuộc hôn nhân của các hoàng tử không?”, Nữ hoàng Elizabeth hỏi.

“Với độ chính xác cao, nếu tôi có ngày tháng, thời gian và địa điểm sinh ra của họ, những điều đó cho tôi biết sao chủ mệnh của họ”, Dee trả lời.

“Đó không phải là chiêm tinh học sao?”, tôi thận trọng hỏi ông.

Ông gật đầu trước sự thận trọng của tôi. “Không, vì tôi không tìm cách đoán trước những điều nguy hại”, ông nói, “tiên đoán cái chết của một hoàng tử là bất hợp pháp, nhưng không có hại gì nếu có thể thấy trước hạnh phúc của họ”. Đôi mắt sáng của ông quay sang nhìn Nữ hoàng Elizabeth, “tôi có thể chọn ngày tốt nhất cho lễ kết hôn của Người chứ, như tôi đã tiên đoán lễ đăng quang của Người vậy?”.

Nữ hoàng Elizabeth cười phá lên. “Không phải ta, triết gia tốt bụng ạ. Ông biết ta không sẵn sàng đi theo hướng đó. Ta vừa buộc phải làm cho Thái tử Áo Ferdinand thất vọng. Ta bảo ngài ấy rằng ta thà làm một cô gái chăn bò độc thân còn hơn là một nữ hoàng đã lập gia đình!”.

“Cuộc sống độc thân là một ơn gọi”, John Dee đáp, và tôi cố hết sức giữ nét mặt trang nghiêm với ý nghĩ Nữ hoàng Elizabeth là một nữ tu. Tôi không dám nhìn Thomasina, cô ta cũng đang cúi đầu xuống.

Cách vòng tròn ma thuật của chúng tôi một quãng, các thị nữ đang thở dài nhàm chán và thay đổi tư thế đứng. Các cận thần đứng sát tường, nói chuyện với nhau, và một hoặc hai người đứng dựa vào ván tường cho đỡ mỏi. Không ai được phép ngồi mặc dù John Dee đã đọc cuốn sách của ông trong suốt hai giờ.

Dee đang lật một trang sách khác và trưng ra cho Nữ hoàng thì William Cecil yên lặng bước vào phòng và cúi chào.

“Xin thứ lỗi vì tôi đã làm gián đoạn việc nghiên cứu của Người”, ông thấp giọng nói, “nhưng Người muốn biết ngay khi nào Nữ hoàng Scotland cho phép chồng của Phu nhân Margaret Douglas được vào Scotland”.

Cậu anh họ Henry Stuart đẹp trai của tôi đang đứng ngáp ở góc phòng, nghe thấy tên mẹ cậu và ngước nhìn lên, nhưng Nữ hoàng Elizabeth và Cecil đang đứng sát gần nhau.

“Nữ hoàng Mary xứ Scots chưa bao giờ đồng ý mà!”. Bà kêu lên, giấu vẻ mặt rạng rỡ đằng sau cây quạt có những hình vẽ trên đó.

Cecil cúi đầu. “Bà ấy đã đồng ý”.

Bà nắm tay áo ông kéo lại gần hơn. Chỉ có Thomasina và tôi nghe được cuộc nói chuyện thì thầm của họ. “Nhưng ta chỉ hỏi vì ta chắc chắn cô ta sẽ từ chối không cho ông ta được phép về Scotland”, bà thì thầm, “ta chỉ hỏi để gây sao nhãng và rắc rối cho Mary khi cô ta đang đàm phán với Don Carlos của Tây Ban Nha mà thôi”.

“Vậy Người đã đạt được nhiều hơn mong đợi”, Cecil nói một cách trôi chảy, “người đã lừa được bà ấy. Vì bà ấy đã cho phép cả Bá tước Lennox lẫn con trai ông ta vào Scotland, và là những người theo đạo Công giáo, chắc chắn họ sẽ chia rẽ bà ấy với các cố vấn Kháng cách. Họ có đi không, hay sẽ an toàn hơn nếu giữ chàng trai trẻ ở lại đây?”.

Nữ hoàng Elizabeth vẫy tay ra hiệu với Henry Stuart, Công tước Darnley, một cậu bé tóc vàng xinh đẹp như con gái. Cậu ta là anh họ tôi vì là con trai dì Margaret Douglas, nhưng tôi không có nhiều cảm giác bà con với cậu ấy. Tôi chưa bao giờ thích mẹ cậu, người được hưởng lợi nhờ sự bất công của Nữ hoàng Elizabeth – bà được trả tự do trong khi chị tôi bị giam giữ; địa vị của dì được nâng lên trong khi danh tiếng chị tôi bị hạ thấp. Tôi dám thề dì ấy nghĩ rằng chỉ dì ấy mới là người kế vị ngai vàng trong khi ai cũng biết đó phải là chị Katherine.

Chính Henry Stuart chọn quay về từ Pháp để phục vụ như một chú chim nhỏ trong lồng của triều đình: Cậu ta hót líu lo để làm vui lòng Nữ hoàng nhưng cánh cửa lồng không bao giờ mở. Mẹ cậu đặt cậu ở bất cứ nơi nào mà người khác có thể nhìn thấy cậu: Bà nghĩ không ai có thể cưỡng lại cậu ta được. Việc bà hy vọng cậu sẽ kết hôn với Nữ hoàng Mary xứ Scots là một bí mật mà ai cũng biết, nhưng vị nữ hoàng này đã phá vỡ những lời hứa hẹn đường mật của cậu ngay những ngày đầu khi vừa góa bụa. Giờ thì cậu đang cúi đầu trước Nữ hoàng Elizabeth và gật đầu với tôi; nhưng không ai trong chúng tôi muốn lãng phí thời gian cho người kia cả. Cậu ta là một anh chàng vô tích sự, hầu như không quan tâm đến bất kỳ người phụ nữ nào ở bất kỳ kích thước nào. Những gì cậu ta thành thạo một cách hoàn hảo là làm thế nào để thỏa mãn những người phụ nữ lớn tuổi, như mẹ cậu hoặc Nữ hoàng, nhưng thích ở bên cạnh một cậu trai trẻ đẹp. Tất cả những gì cậu thích làm cho bản thân là uống say và dạo quanh thị trấn tìm kiếm rắc rối với những cậu bé xinh trai khác. Dù sao, tôi cũng không thu hút sự chú ý của cậu ta, và cậu ta cũng không lãng phí một chút chú ý nào với tôi.

“Ngươi có thể nói với cha ngươi rằng ông ấy đã được Nữ hoàng Scotland cấp chiếu khán, theo yêu cầu của ta”, Nữ hoàng Elizabeth nói với Henry Stuart. Cậu ta bỗng đỏ mặt thẹn thùng như một cô gái và quỳ một chân xuống. Nữ hoàng Elizabeth mỉm cười với cậu. “Ngươi có muốn đến Scotland với ông ấy không?”, bà hỏi.

“Thần không muốn rời xa Người!”. Cậu ta đáp to, như thể với một trái tim đang tan vỡ. “Ý thần là, xin hãy tha thứ cho thần, thần đã nói quá nhanh. Thần sẽ làm tất cả những gì Người ra lệnh, những gì cha thần ra lệnh. Nhưng thần không muốn rời triều đình này để đến một triều đình khác. Có ai lại đi từ mặt trời đến mặt trăng bao giờ?”.

“Ngươi phải đi, nếu cha ngươi cần ngươi