Chương 2
Tòa nhà chung cư nơi Judith Altmann sống ở Étretat nằm ở cuối một con đường đầy bụi rậm. Đó là một tòa nhà ba tầng được xây vào những năm ba mươi, hình như tầng trệt và tầng một không có người ở. Trong lúc đang lên dốc, hình như tôi chợt nhìn thấy một gương mặt đằng sau bức rèm cửa bằng vải đỏ ở tầng trên cùng. Ở tầng hai nơi cô Judith sống, có những cánh cửa sổ nhìn giống tre. Đang là tháng Mười hai, nhưng ngày hôm đó trời sáng trong. Chính Damien Léger sau khi tìm kiếm, đã cho tôi địa chỉ của cô Judith. Tôi viết cho cô ngay sau đó, cô chỉ trả lời tôi sau năm tuần chờ đợi mòn mỏi, cô ấy nói tôi hãy ghé qua nhà, vì cô ít ra khỏi nhà từ khi bà gần như mù. Cô ấy không hỏi tại sao tôi muốn liên lạc với những người từng quen biết Sorel.
Trước khi đi Étretat, tôi nhận thấy hai chương đầu tiên tôi viết không ổn. Tôi cần phải nỗ lực nhiều hơn nếu tôi muốn hoàn thành tốt đẹp cuốn sách được xem là tạm chấp nhận. Tôi tự nhủ có lẽ tốt hơn tôi không nên viết gì trước khi cuộc tìm kiếm của tôi kết thúc, tôi đang dậm chân tại chỗ trong năm tuần liền do ngồi chờ câu trả lời của cô Judith. Vì tôi cũng không có nhiều bài báo phải nộp, tôi bắt xe lửa đi đây đó, đọc truyện Sorel trong phòng khách sạn, ở đó tôi chỉ nghe nhạc, hút thuốc, uống rượu whisky Nhật mua ở Paris. Barbet và Léger thỉnh thoảng gửi cho tôi vài tin nhắn để hỏi thăm cuộc tìm kiếm đã tiến triển tới đâu. Tôi cũng nhận được mail của Jean Trần mỗi khi ông ấy nhớ ra điều gì đó mà quên nói với tôi. Chính bằng cách đó mà ông đã cho tôi biết Sorel đã từng đến Việt Nam, bốn hoặc năm năm trước khi anh ấy tự tử - ông không có nhiều thông tin về chuyến đi này để cung cấp cho tôi, vì anh trai của ông đã giữ im lặng sau khi quay về Pháp, và do vào thời gian đó mẹ của họ qua đời, sau đó ông ấy li dị, ông có quá nhiều thứ phải lo và quên hỏi chuyện Antoine về chuyến đi, nhưng ông ấy nói với tôi rằng ông ấy sẽ cố tìm xem có gí liên quan đến chuyến đi trong đống giấy tờ mà anh để lại sau khi chết. Tôi trả lời họ một cách chung chung, tôi ngày càng sợ sẽ làm họ thất vọng, những người hy vọng nhờ tôi sách của Sorel sẽ được tái sinh.
Trong căn hộ được bài trí giản đơn, cô Judith chỉ có con mèo xám làm bạn đồng hành, nó nhảy cà tưng khắp nơi và cào các bìa sách. Cô đang chơi đàn piano khi tôi bấm chuông cửa. Tôi nghĩ hẳn cô thường xuyên chơi nhạc vì giờ đây cô ấy không thể đọc sách nhiều. Bước ra mở cửa cho tôi là một người phụ nữ đã già, rất quý phái với mái tóc xám cắt tém. Cô Judith mặc một chiếc áo đầm màu trắng, eo bó chặt với cái thắt lưng to màu xanh đen, khoác một cái áo ghi-lê cũng màu trắng, và mang một đôi giày cao gót. Cô thoa một lớp phấn nhẹ trên khuôn mặt và đôi môi được tô son đỏ. Cô ấy cười với tôi, mặc dù cô cho biết cô chỉ nhìn thấy hình dạng mờ mờ của tôi, mời tôi vào và xin lỗi về tình trạng bày bừa do con mèo làm rơi sách và xáo trộn mọi thứ vì nó không ngừng nhảy từ món đồ này sang món đồ khác. Cô dọn sạch trường kỉ khỏi mấy cái gối và những bản hợp tấu để tôi có thể ngồi, cô nói với tôi rằng mình chưa bao giờ có khách tới chơi, nhưng cô vẫn có một cuộc sống xã hội, cô chỉ đi đến nhà một người bạn mà mình quen từ khi dọn đến sống ở thành phố này. Đó là một giáo viên nhạc đã về hưu trước cô. Ông ấy làm những món ăn của vùng Tây Nam để mời cô (ông ấy đến từ thành phố Saint-Jean-de-Luz), và cả hai vừa thưởng thức vừa nghe Glenn Gould[86] chơi nhạc Bach. Trước khi tiếp tục câu chuyện, cô hỏi tôi muốn dùng trà không và do tôi trả lời có, cô đã biến mất vào bếp một lát khá lâu rồi quay lại với một ấm trà và những chiếc tách Nhật Bản được đặt trên một cái khay. Cô rót trà cho tôi nhưng đổ hầu như gần hết trà ra ngoài mà không nhận ra điều đó. Tôi đón nhận tách trà thậm chí không được quá nửa, vị trà đắng và tôi uống ực hết cả tách. Cô Judith lại biến mất lần nữa vào bếp và một hồi sau mới quay trở lại với một đĩa bánh madeleine. Cô ngồi đối diện với tôi trên chiếc ghế cao dùng để ngồi đàn piano, cô vừa ăn bánh vừa cho tôi biết rằng cô đã suy nghĩ nhiều ngày trước khi quyết định cho tôi một cái hẹn. Đã hơn hai mươi năm qua cô chỉ theo dõi Sorel qua báo chí. Cô luôn cảm thấy vui mỗi khi khám phá trên báo rằng anh vừa mới xuất bản một cuốn tiểu thuyết mới, nhưng từ khi họ chia tay nhau, anh đã không viết cũng như không gọi điện cho cô, ngay khi lúc đó cô vẫn còn ở Le Havre. Đúng ra anh ấy có thể gửi cho cô cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình. Cô sẽ không tận dụng cơ hội đó để nối lại tình xưa (hơn nữa chính cô là người chủ động chia tay trước), nhưng cô hẳn sẽ rất vui khi được chúc mừng anh và nhớ về những giây phút họ đã sống bên nhau, vào thời đó anh vẫn chưa trở thành nhà văn.
Cô sẽ không bao giờ quên ngày anh tiếp cận cô ở gần cáp treo của thành phố Le Havre. Anh hai mươi hai tuổi, cô đã gần năm mươi. Anh tiến lại gần cô, mặt đỏ ửng, thì thào: “Cô còn nhớ em không? Em là Antoine Trần, đứa học sinh gây thất vọng nhất mà cô từng biết.” Cô nhớ ngay lập tức cách đây mười năm người thanh niên trẻ tuổi mắt đen đã từng là đứa trẻ duy nhất trong lớp không quậy phá trong giờ hợp âm và đau khổ việc anh không có tai âm nhạc, trong khi đó những người bạn cùng lớp cũng có chung vấn đề như anh lại không hề lo lắng về điều đó. Cô vừa mới mua hai đĩa than của Leçonss des ténèbres[87] của Couperin[88]. Cô đã tặng cho anh, nói với anh rằng như vậy cuộc hội ngộ của hai người diễn ra trong âm nhạc. Anh phản đối, không biết có nên chấp nhận hay không, cuối cùng anh chỉ mượn cô những đĩa nhạc đó, bảo đảm rằng anh sẽ trả cho cô trong vài ngày tới. Cô ấy ghi lại số điện thoại và địa chỉ trên một mảnh giấy, sau đó đi mất, và khuyên anh nên nghe những đĩa than ba mươi ba vòng này, nhắc lại cho anh nhớ câu nói mà cô luôn nói với tất cả mọi người: “Cuộc sống không có âm nhạc là một sai lầm, là một khổ hình, là sự lưu đày”, và tự hỏi liệu cô sẽ gặp lại anh. Một tuần sau anh gọi điện cho cô giáo và đến nhà cô trả những đĩa nhạc của Couperin. Anh không nói một lời nhận xét nào khi trả chúng cho cô. Sau đó, cô đã đưa thêm cho anh ấy một chục đĩa nhạc khác. Anh chỉ nói với cô về những đĩa nhạc của Gesualdo và của Zimmermann. Cả hai đều quan tâm vì nhũng lí do không có liên quan đến âm nhạc, họ thích người thứ nhất bởi vì ông ấy đã giết vợ mình, còn người thứ hai đó là vì ông ấy đã tự tử sau khi sáng tác bài Requiem pour un jeune poète[89].
Chuyện tình của họ bắt đầu vào buổi tối họ cùng nhau đi dạo. Một cơn dông bất chợt ập đến trong khi họ đang bước trên con đường đi bộ dọc bờ biển. Sorel đã cởi áo vest của mình và dùng nó để che mưa cho cô Judith. Cả hai chạy nhanh về phía nhà chờ xe buýt, họ ướt sũng đến mức quần áo của họ dính sát vào người, họ đã phá lên cười khi thấy tình trạng của họ. Họ chưa đến nhà chờ thì bỗng nhiên Antoine dừng lại, ôm Judith vào lòng và hôn cô đắm đuối. Họ đã đứng yên như thế ở giữa vỉa hè, nước xối trên người, họ hôn nhau. “Tôi như được trở về thời thanh xuân”, cô Judith đã nói như thế. Không phải vì Sorel còn trẻ nhưng bởi vì cô không bao giờ nghĩ rằng giữa họ lại có thể xảy ra một điều như vậy. Cô Judith vừa mới li hôn, chồng cô và cô đã chia tay nhưng vẫn là bạn của nhau, như người ta vẫn nói khi tình cảm lúc ban đầu không còn nữa, và họ giấu sự chán nản đằng sau một tình bạn giả tạo. Cô không quên mình có một đứa con gái bằng tuổi Sorel và trong một số lần cô đi ăn nhà hàng cùng với anh ấy, những người phục vụ tưởng họ là hai mẹ con, cô không đính chính, cô không muốn làm một người phụ nữ trẻ hơn tuổi thật của mình và bị thương tổn mỗi khi người ta nhắc lại rằng tuổi trẻ của cô đã đi xa rồi.
“Antoine không xem tôi là một phụ nữ thuộc thế hệ bố mẹ cậu ấy”, Judith thì thầm tay vuốt ve con mèo vằn xám đang nằm trên đùi. Sorel nói thích cô vì cô dịu dàng. Có thể anh ấy cũng thích sự im lặng ở cô. Cô không nói nhiều khi họ gặp nhau. Anh ấy cũng không phải là một người nói chuyện huyên thuyên. Họ có thể cùng nhau trải qua một buổi tối mà không nói với nhau quá ba câu. Cô mở một đĩa nhạc và anh ngồi lắng nghe cùng với cô, có vẻ tập trung, anh vận dụng hết mọi sức lực để cảm thụ âm nhạc. Khi cô chơi đàn piano, anh ngồi dưới đất, bên cạnh cô, hai tay chống cằm và không động đậy cho đến khi bản nhạc kết thúc. Căn hộ nơi cô sống nằm trên đường Paris chỉ có hai phòng nhỏ. Trong phòng thứ nhất, hầu như tất cả không gian đều bị cây đàn dương cầm chiếm hết, trong phòng thứ hai, chỉ có những kệ bao xung quanh giường, với hàng đống sách đè nặng trên đó. Cô đã dọn về ở đây sau khi li dị, trước đó cô sống ở Sanvic, không xa nhà mẹ nuôi của cô. Sorel thì có một chỗ ở tồi tàn ở Mont-Gaillard, một nơi không có lò sưởi, chỉ có vòi sen để tắm, rất đơn sơ, trong một góc, gần lavabo. Cô đã đề nghị giúp đỡ anh thuê một căn hộ nhỏ tiện nghi hơn, nhưng anh từ chối ngay lập tức và nổi điên: anh ghét ai thương hại anh. “Cậu ấy rất nhạy cảm, Judith nói, một chuyện cỏn con cũng đủ làm cậu ấy điên tiết lên.” Cô ấy luôn lo sợ phạm một sai lầm nào đó. Cô phải luôn cẩn thận để không làm anh tổn thương.
Anh ấy không nói cho Judith biết anh đang viết tiểu thuyết đầu tay, một kiểu mê tín dị đoan đã không cho phép anh nói về chuyện đó, anh sợ nếu anh tiết lộ anh sẽ nhanh chóng bỏ cuộc chơi. Nhưng cô cũng đoán được anh có toan tính làm một chuyện gì đó quan trọng, cô ấy biết chắc rằng nếu anh bỏ trốn khỏi nhà, đó là vì anh muốn được tự do để chuẩn bị một việc quan trọng, sẽ làm những ai quen biết anh ngạc nhiên. “Antoine không giống những thanh niên cùng tuổi với cậu ấy. Cậu ấy có cái gì đó vẫn còn con nít, nhưng cũng rất chín chắn ở tuổi hai mươi hai. Chắc chắn đó là vì cậu ấy đã phải đấu tranh một mình để thực hiện ước mơ, đó là viết, viết một thể loại sách nào đó, những cuốn sách không khoan nhượng. Cậu ấy cư xử với tôi như thể cậu ấy luôn cần được an ủi, đôi khi như thể cậu ấy là anh hai và vai trò của cậu ấy là bảo vệ tôi. Nhờ cậu ấy tôi cảm thấy tự tin hơn vào bản thân, lúc đó tôi cảm thấy yếu ớt sau khi li hôn. Nhờ cậu ấy tôi không như những người phụ nữ tuổi năm mươi tuyệt vọng khi không thấy mình còn trẻ nữa. Nhờ cậu ấy tôi đã khám phá những tác giả có những bài viết chua cay giúp tôi có một cái nhìn khác về cuộc sống. Tôi nhớ có những buổi tối cậu ấy và tôi thức khuya nói chuyện về những cuốn sách mà cậu ấy đã mượn ở thư viện và mang đến nhà tôi để đọc cho tôi nghe, về phần tôi, tôi cố dạy cậu ấy về âm nhạc. Tôi đã thất bại, những bản nhạc giao hưởng tôi bật cho cậu nghe cũng không tạo hiệu ứng gì đối với cậu ấy. Điều đó làm cậu buồn, cậu ấy tự nhủ mình không phải là một người tinh tế. Cậu ấy đặt cho tôi những câu hỏi về các nhà soạn nhạc, nhưng chỉ về những thời kì bất hạnh trong cuộc đời của họ.” Judith đã kể như thế.
Cô Judith có vẻ xúc động khi nhắc đến Antoine. Cô đã sống gần hơn một nửa thế kỉ ở thành phố Le Havre, nơi đây cô đã gặp chồng của mình và nuôi dạy con gái, nhưng trong tâm trí cô hơn bao giờ hết tên thành phố gắn liền với tên của Sorel. Thư viện thành phố, các bờ kè trong nhà ga, nhà thờ Saint-Joseph, các công viên, tu viện Notre-Dame-des-Flots, các quán ăn thời vụ và con đường đi dạo dọc bờ biển: những nơi cô đã từng đặt chân đến cùng với Antoine. Ngoài hai nhà thờ Saint-Joseph và Notre-Dame-des-Flots, những nơi còn lại không có gì đặc biệt, nhưng đều mang những kỉ niệm về Sorel; Cô không thể nghĩ về những con đường của thành phố Le Havre mà không nhớ đến những buổi đi dạo cùng với anh ấy, cô không thể không nhớ đến những ngày cô và anh ngồi hàng giờ, cùng im lặng, trong những quán nước khi nhắc về chúng. Cả hai đã không giấu diếm chuyện họ gặp nhau, nhưng họ tránh những quán cà phê mà những người bạn của Antoine thường xuyên lui tới. Le Havre là một thành phố nhỏ nơi mọi người đều nhanh chóng biết những chuyện không nên phát tán, cũng may Sorel có ít bạn, anh có thể giữ được bí mật về mối tình của anh với cô Judith. Không phải vì sự chênh lệch về tuổi tác, anh nhắc đi nhắc lại rằng anh không cảm thấy sự khác biệt đó, và cho dù bạn anh hay biết và chế giễu anh, cho rằng anh thiếu một người mẹ, anh cũng sẽ không để ý.
“Nếu bố mẹ của Antoine biết chuyện hai chúng tôi, họ có thể sẽ buộc tội tôi là một mụ phù thủy già đang làm tha hóa đứa con trai trẻ của họ, người bị rơi vào móng vuốt của tôi. Có một lần, trên đại lộ René-Coty, trong lúc tôi đi dạo bên cạnh Antoine, chúng tôi đã nhìn thấy từ xa mẹ cậu ấy đang tiến về hướng chúng tôi, nhưng không thấy chúng tôi. Lập tức cậu ấy nắm tay tôi và lôi tôi vào trong một cửa hàng trước khi mẹ cậu ấy phát hiện. Tôi rất bối rối. Tôi thấy bà ấy còn trẻ hơn cả tôi, mặc dù bà ấy dường như bị cuộc sống giày vò và tóc bà đã gần như bạc trắng.”
Judith hạ thấp giọng mình để nói những lời ấy, như thể cô ấy muốn chúng không b| ghi âm. Tôi thấy rõ cô ấy ngại ngùng nên tôi dừng máy ghi âm lại. Cô ấy mỉm cười, biết ơn vì nhận thấy tôi không muốn cô phải khó xử. Cô đứng dậy để đi nấu nước và đổ vào ấm trà. Tôi nghe tiếng cô ấy lục đục trong nhà bếp, sau đó cô quay lại với ấm trà cô nhẹ nhàng đặt xuống bàn trước mặt tôi. Cô ấy xin lỗi đã không còn Lapsang Souchong để mời tôi. Đó là loại trà ngon nhất. Cô cầm một cái bánh madeleine giữa hai ngón tay, cô bẻ và cho vào miệng một miếng nhỏ. Cô mỉm cười với tôi lần nữa. Tuy nhiên tôi có cảm giác rằng không phải cô ấy mỉm cười với tôi. Cô ấy nhìn thấy Sorel ở vị trí của tôi. Tôi không còn trẻ như anh ấy lúc hai người gặp nhau, nhưng do tôi yêu cầu cô nói về anh ấy, nên có một sự lẫn lộn trong tâm trí cô và cô không còn biết rõ ai đang ngồi đối diện với cô nữa.
“Giờ đây tôi là một phụ nữ già nua gần như mù lòa, cô ấy tiếp tục kể sau khi nói tôi mở lại chiếc máy thu âm, tôi thường xuyên nhớ về quá khứ và hình như những gì tôi quý nhất đó là hình ảnh tôi lưu giữ về những giây phút ở bên cạnh Antoine. Cách đây vài năm, lúc tôi đã dọn đến Étretat, mỗi khi tôi quay về Le Havre, tim tôi luôn đập mạnh khi tôi đi cáp treo, khi tôi nhìn thấy một thanh niên trẻ trông giống Antoine lúc hai mươi hai tuổi.”
Cô ấy còn nói với tôi rằng cô thích nhất sách của Sorel, bởi vì cô thấy anh viết với tất cả nhiệt huyết của mình, bởi vì cô không thấy sách của anh giống bất kì những gì đã từng được viết. Khi qua báo chí cô được biết anh đã kết liễu cuộc đời của mình, cô chưa bao giờ bị bấn loạn đến như thế. Ý nghĩ có lẽ cô đã có thể giúp đỡ anh ấy, gặp lại anh để nói rõ rằng cô chưa bao giờ quên anh, luôn đeo bám lấy cô. Cô đọc lại những bức thư anh ấy gửi trong quãng thời gian họ yêu nhau. Cô đọc lại những tác phẩm của anh vừa mới được xuất bản, tìm kiếm những dấu hiệu của sự tuyệt vọng đã giết chết anh. Cô ấy chắc chắn rằng nếu có ai đó có mặt đúng lúc, nếu có ai đó cảm nhận được anh ấy ngày càng trầm cảm, ngày càng ghét chính bản thân mình, thì có lẽ anh đã không tự tử. Cô ấy cũng chắc rằng nếu anh đã tiếp tục liên lạc với cô hoặc gọi điện, cô đã có thể thấy được những dấu hiệu báo trước của căn bệnh chết người ấy, nỗi chán ghét cuộc sống và cô đã có thể tìm ra giải pháp. Nhưng có thể cô cũng sẽ không làm được gì. Một trong những điều đầu tiên anh ấy đã nói với cô vào năm anh ấy hai mươi hai tuổi đó là từ khi anh bước sang tuổi biết suy nghĩ, anh tự hỏi tại sao bố mẹ anh lại sinh ra anh. Bản thân họ có thể đã có một cuộc sống tốt hơn nếu không có con. Nhưng họ lại muốn làm những điều mà họ cho là qui luật tự nhiên và trong nhiều năm họ đã hy sinh để có thể nuôi nấng ba đứa con trai để rồi chúng không hề biết ơn họ về tất cả những gì họ đã làm cho chúng.
Judith lấy trong một chiếc hộp đặt trên cây đàn piano một điếu thuốc rất dài, rất nhỏ, cô hút nó sau khi nói với tôi rằng cô cần hút thuốc, vì điều này sẽ giúp cô lục lại trí nhớ. Cô hút hai điếu liền, mắt nhìn xa xăm vào hư vô, sau đó cô ngồi vào đàn và chơi một bản xô-nát, rồi quay về phía tôi với một khuôn mặt đượm một nỗi buồn sâu lắng. Cô không bao giờ nói với ai về Antoine, cô ấy cho biết. Và giờ đây anh ấy đã mất, cô sẽ không chấp nhận tâm sự với tôi nếu Damien Léger không báo trước cho cô rằng tôi đang viết một cuốn sách với mục đích khơi gợi mọi người quan tâm dài lâu đến các tác phẩm của Sorel. Cô không sợ bị kết tội đã nhiều chuyện trong khi đáng lý ra cô cần phải giữ bí mật về mối tình của cô, nhưng cô sợ không tìm thấy câu chữ thích hợp để nói về Antoine đúng như hình ảnh cô lưu giữ trong kí ức.
“Tôi nhớ chuyến du lịch đầu tiên của hai chúng tôi. Ở thành phố Villers-sur-Mer. Tôi đặt phòng khách sạn cùng một cái giường có màn che. Nội thất của càn phòng hơi quê mùa, nhưng có vẻ Antoine thích, cậu ấy nói như vậy cho mới lạ. Ngày đầu tiên chúng tôi đã nằm trên giường cho đến ba giờ chiều. Sau đó chúng tôi đi dạo dọc bãi biển. Lúc đó là mùa xuân và Antoine trong tâm trạng vui vẻ. Cậu ấy huýt sáo, vuốt ve mái tóc của tôi, cậu ấy hay dừng lại, ôm tôi vào lòng để hôn. Trái ngược với thói quen của mình, cậu ấy không trầm lặng, cậu ấy kể cho tôi cậu ấy đã xoay xở như thế nào để có việc làm mà không đòi hỏi bằng cấp, cậu ấy đã ăn cắp những cuốn sách trong thư viện như thế nào, vì cậu ấy thường không mua được những cuốn sách mà mình mơ ước sở hữu. Cậu ấy cũng kể về các em trai, khi còn nhỏ họ đã chơi những trò chơi bị bố cấm. Trời lúc đó mát mẻ. Lúc tám giờ tối, chúng tôi ngồi tại sảnh trước của một nhà hàng để ăn hàu. Antoine không ngừng trao cho tôi những nụ hôn, cầm tay tôi, cậu ấy nhắc đi nhắc lại rằng cậu ấy chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc như thế. Tôi không bận tâm về những gì người khác nghĩ, một vài người nhìn chúng tôi chằm chằm và có những lời bình phẩm khó chịu, nhưng Antoine không để ý những lời nói đó, và tôi thấy cậu ấy đúng khi mặc kệ những bà mẹ đứng tuổi muốn nghĩ gì thì nghĩ, nhìn tôi với ánh mắt dè bỉu, như thể họ cho rằng tôi làm tha hóa một gã trẻ tuổi khùng điên và chúng tôi không biết liêm sỉ trước mặt mọi người. Tôi ý thức rằng đối với nhiều người tôi có vẻ già khi ngồi bên cạnh cậu ấy, hơn thế cậu ấy hành xử như một một đứa con trai biết quan tâm và vào thời đó cậu ấy vẫn mang vóc dáng của một thanh niên sung mãn. Rượu vẫn chưa có những tác động tàn phá trên cơ thể cậu ấy, việc túng thiếu cũng chưa tàn phá gương mặt cậu ấy trở nên hốc hác. Cậu ấy gầy, nhưng đó không phải là dấu hiệu của sự thiếu thốn đã làm cậu ấy tiều tuy về thể xác mười năm sau đó. Đó là những năm cậu ấy đã bắt đầu uống khá nhiều. Tôi không khuyến khích cậu ấy uống, nhưng một trong những niềm vui thích của chúng tôi đó là mua rượu rồi sau đó ngồi uống vài chai suốt cả buối tối và đọc các trang sách Người, quá người[90]. Ở Villers-sur-Mer, cậu ấy mang trong túi cuốn Aurelia, và sau bữa tối cậu ấy làm một bài diễn văn về bệnh điên rồ đang nhập vào những người sáng tác. Cậu ấy nói dù không giống họ nhưng cậu ấy cảm thấy cậu ấy sẽ không tránh khỏi. Từ khi cậu ấy bỏ nhà bố mẹ ra đi, đôi khi cậu ấy có cảm giác đang tuột dốc, thoát khỏi hiện thực, cậu ấy tự kiểm soát mình trong khả năng có thể, nhưng cậu ấy không làm chủ lí trí nữa, cậu ấy nghĩ rằng mình đang bị kẻ thù bao vây hoặc mình sẽ chết trẻ, nên cậu ấy cần phải vội vàng thực hiện điều gì đó trong cuộc sống của mình…”
Tiếng chuông điện thoại ngắt lời cô Judith. Cô đi nghe. Con gái cô, tên Marie, gọi đến để hỏi thăm. Judith không nói cô đang có khách và chấm dứt nhanh cuộc nói chuyện trên điện thoại, rồi cúp máy và thở dài: con gái cô hiếm khi gọi điện cho cô, cô ấy chẳng bao giờ đến Étretat, cô ấy sống ở miền Nam và mất nhiều năm để cố có một đứa con, nhưng mọi cố gắng đều vô ích, bây giờ cô ấy là vợ của một ông bác sĩ hơn cô mười lăm tuổi, đã có ba con trai, cô ấy chăm lo cho chúng tốt hơn cả mẹ ruột của chúng, và vì chuyện này giữa cô ấy và chồng đã có những xung đột, chồng cô trách cô đã làm quá. “Marie chưa bao giờ thương mẹ của nó, Judith thì thầm. Khi nó hai mươi, hai hai tuổi, tôi chỉ là một người xa lạ đối với nó. Nó biết về mối quan hệ của tôi với Antoine và nó bị sốc. Nhưng dĩ nhiên tôi đâu có nói cho nó chuyện này, nhưng hai người bạn của nó đã bắt gặp tôi và Antoine trên bãi biển vào một buổi tối, tôi đang nắm tay Antoine đi dạo, tụi bạn nó đã kể hết cho nó nghe. Nó đã làm mình làm mẩy… và cảnh cáo tôi rằng nếu tôi không chấm dứt ngay mối quan hệ này, nó cảm thấy xấu hổ về chuyện này, nó sẽ không xem tôi là mẹ nữa, nó sẽ đi ra nước ngoài sống và sẽ mãi quay lưng lại với tôi. Lúc đó mối tình giữa tôi và Antoine đã bắt đầu bước vào hồi kết. Sau sáu tháng quen nhau mọi thứ đã không còn như ban đầu. Antoine ngày càng muốn kiểm soát tôi và tôi cảm thấy tù túng. Tôi không thể đi gặp bất cứ ai mà không bị cậu ấy hỏi cung. Cậu ấy kết tội tôi không còn thương cậu ấy nữa và muốn quay lại với Christophe, người chồng cũ của tôi. Một trong những nỗi ám ảnh của cậu ấy đó là tôi chia tay với cậu ấy để kết lại tình xưa với Christophe, do tôi bị con gái làm áp lực tôi sẽ cắt đứt với cậu ấy để tìm ai đó chín chắn hơn. Cậu ấy ghen với Marie, bởi vì nó hành khổ tôi bằng cách từ bỏ tôi. Cậu ấy không thể chịu đựng việc tôi nói thật rằng tôi buồn đến mức nào khi tôi không thể chia sẻ gì với con gái của mình. Cậu ấy cũng không chấp nhận việc tôi kể với cậu ấy về chuyện tôi li dị, cậu làm tôi xa lánh con gái và một số người bạn quen. Cậu ấy càng không chấp nhận việc tôi nhắc tới hai người bạn thân của tôi, hai con người mê nhạc thường xuyên dẫn tôi đi nghe hòa nhạc. Cậu ấy thường hay từ chối không đi cùng với tôi vì nghĩ rằng khi tôi nghe nhạc, tôi không thuộc về cậu ấy nữa. Khi tôi gặp cậu ấy và tôi có vẻ mơ màng đâu đó, cậu ấy lập tức nghi ngờ rằng tôi giấu cậu ấy có ai đó làm tôi mơ mộng hoặc tôi không còn yêu cậu ấy như trước nữa. Cậu ấy nghi ngờ quá mức về chính bản thân nên bị ám ảnh bởi suy nghĩ này: tôi sống lâu hơn cậu ấy, nhiều người đàn ông đã đi qua đời tôi và cậu ấy đến quá trễ vì theo thời gian tôi không còn sẵn sàng hiến dâng cả con người tôi cho ai đó. Cậu ấy hỏi tôi đã bao nhiêu lần tôi lừa dối chồng trong hành động cũng như trong suy nghĩ. Đúng là tôi không phải là một con người chung thủy mẫu mực trong hai mươi năm cuộc sống hôn nhân. Tôi đã phạm sai lầm khi tâm sự với Antoine về chuyện này, cậu ấy đã làm to chuyện. Tôi không hình dung ra cậu ấy có thể làm dữ đến như thế. Tôi cho rằng do cậu ấy còn trẻ nhưng cho dù như thế… Cậu ấy hành hạ tôi để biết ai trong quá khứ đã làm tôi đau khổ đến mức tôi suýt trở nên điên loạn, vì ai mà tôi gần như muốn chia tay với chồng mình, tôi còn mơ tưởng đến ai nữa, và cho dù tôi đã chia tay với người đó từ rất nhiều năm rồi. Cậu ấy chất vấn tôi về người này, rồi về người kia, và dường như cậu ấy cho rằng tôi sẽ không bao giờ yêu cậu ấy như tôi đã từng yêu những người đàn ông đó. Cậu ấy nhắc lại với tôi rằng tôi đã có biết bao nhiêu mối tình trong khi đó đây là lần đầu tiên cậu ấy yêu mù quáng một người phụ nữ. Đúng như thế, đó chính là từ cậu ấy đã dùng: yêu mù quáng. Antoine lúc nào cũng cực đoan. Tôi biết sau khi chúng tôi chia tay cậu ấy đã kết hôn với một cô gái người thành phố Rouen. Tôi đã tự hỏi liệu với cô gái đó cậu ấy cũng sẽ là một người khó sống cùng. Nhưng có thể sau khi cưới cậu ấy sẽ bớt kiểm soát. Cậu ấy thích hành hạ tôi để tỏ sức mạnh với tôi, bởi vì tôi không để cho ai chế ngự tôi, cậu ấy lại càng không. Cậu ấy chỉ mới bắt đầu bước chân vào cuộc sống, cậu ấy không thể dạy tôi phải yêu như thế nào, và lên mặt dạy tôi phải chung thủy. Chỉ sau ba tháng, quan hệ giữa chúng tôi đã rất căng thẳng. Tôi không có gì phải giấu diếm nhưng tôi làm ra vẻ bí ẩn, đôi khi tôi biến mất trong vài ngày, không một lời giải thích, điều này làm cậu ấy nổi điên. Cậu ấy đến bấm chuông, và khi cậu ấy không gặp được tôi, cậu ấy ngồi đợi ở sảnh tòa nhà trong nhiều đêm liền. Ngay khi tôi nói tôi đến nhà mẹ nuôi, cậu ấy chắc chắn rằng tôi nói dối, tôi lén đi gặp người tình cũ. Tôi phải thanh minh hoặc tôi trấn an cậu ấy. Nhưng cho dù tôi có nói gì, tôi không thể giải thoát cậu ấy khỏi nỗi ám ảnh không tin tưởng vào tôi như tôi tin tưởng vào cậu ấy, cậu ấy cũng sợ tôi chán cậu ấy, trong khi đó hoàn toàn ngược lại chính tôi là người phải sợ việc cậu ấy sẽ mệt mỏi với tôi, bởi vì tôi quá già.”
Judith cười khi nói ra những từ đó, như thể điều này nên coi là cô đang làm dáng, bởi vì cô ấy chắc rằng ở tuổi năm mươi mình vẫn còn trẻ. Gần đàn piano trên tường có một tấm hình của cô hẳn được chụp vào thời đó. Cô rất đẹp và giống Jean Seberg[91]. Tôi hỏi cô có hình chụp cô và Antoine không. Cô ấy nói chỉ có một tấm duy nhất, và chính anh ấy là người giữ nó. Anh ấy từ chối ngồi trước ống kính. Nói chung anh ấy ghét máy ảnh và những người hay chụp ảnh. Cô ấy nhớ một tấm hình chụp trên bờ kè trong nhà ga của thành phố Le Havre. Nó xuất hiện trên báo chí khi anh xuất bản cuốn sách đầu tay. Anh ấy mặc chiếc áo thun cổ cao và có vẻ mong kết thúc sớm buổi chụp hình, ông thợ ảnh chụp anh liên tục để cố bắt được một nét biểu hiện đặc biệt nào đó. Hình của Sorel không có nhiều. Những năm cuối đời trước khi anh ấy mất, anh càng không để bị chụp ảnh. Tôi đã xem kỹ tất cả những tấm hình của anh mà tôi đã tìm thấy ở chỗ này chỗ kia, tôi nhận thấy rõ anh chỉ đứng chụp một cách miễn cưỡng. Anh có vẻ dè dặt với việc chụp ảnh, giống như một số bộ tộc tin rằng chụp ảnh là tự đánh mất tâm hồn.
Trời đã bắt đầu tối dần từ hơn một giờ đồng hồ, căn hộ của cô Judith chìm trong bóng tối, nhưng cô không nhận ra điều này, cô tiếp tục hút những điếu thuốc dài và mắt híp lại, có vẻ mơ màng, rồi từ từ, rất từ từ, cô ấy đứng dậy và mở một đĩa nhạc của Rachmaninov[92]. “Đôi khi có những tuần tôi không bước chân ra ngoài, cô ấy nói thế. Tôi nhờ bà giúp việc đi chợ thay tôi. Tôi ngồi suốt cả ngày trên chiếc ghế bành, nghe nhạc Nga. Càng lớn tuổi tôi càng cảm nhận sự thích thú khi ngồi nghe nhạc, nhất là nhạc của Rachmaninov và của Borodine[93], hơn là đọc sách. Khi tôi còn nhìn thấy rõ và mỗi lần tôi đọc Flaubert và nghe nhạc của Prokohev, tôi chỉ đọc một chút rồi sau đó thả mình theo âm nhạc. Nếu mắt tôi không quá yếu, tôi sẽ thường xuyên đi nghe hòa nhạc. Nhưng tôi không thể lái xe nữa. Khi còn trẻ và còn ở Le Havre, mỗi khi có hòa nhạc trong vùng Normandie, tôi đều đi nghe. Không phải lúc nào cũng là những buổi hòa nhạc tuyệt vời, thường rất dở, nhưng tôi thích có một buổi tối trong nhà thờ, được nghe bài Magnificat của Vivaldi, dù họ hát rất dở. Tôi dẫn Antoine theo vài lần, dù cậu ấy không muốn, tôi biết đối với cậu ấy đó là một cực hình khi phải tham dự một buổi hòa nhạc mà không thể cảm nhận được, nhưng tôi nói với cậu ấy, tôi cố gắng làm một công việc tôi gọi là giáo dục âm nhạc. Tôi rất muốn nói chuyện với cậu ấy về Đảo tử thần hay về Don Giovanni, nhưng Đảo tử thần làm cậu ấy nghĩ đến bức tranh của Böcklin và với Don Giovanni cậu ấy lại nghĩ đến xung đột giữa những người theo phe Molière và những người theo phe Corneille. Cậu ấy cũng cho rằng Corneille là tác giả của Don Juan. Có những buổi tối, trong căn hộ trên đường Paris, tôi bật đài phát thanh vì có một buổi hòa nhạc được phát trực tiếp từ khán phòng Pleyel hoặc từ một lễ hội nào đó. Cậu ấy nói với tôi rằng tôi may mắn có được khả năng cảm thụ âm nhạc, một thính giác nhạy và tinh tế. Cậu ấy cũng nói rằng cậu ấy ghen tị với tôi vì âm nhạc cuốn hút tôi đến nỗi thế giới xung quanh không còn tồn tại nữa. Cậu ấy còn nói rằng âm nhạc duy nhất mà cậu ấy nghe được đó là âm điệu của từ. Cậu ấy không cho tôi biết cậu ấy đã bắt đầu viết tiểu thuyết và cậu ấy muốn câu từ của mình phải có một nhịp điệu ám ảnh người đọc. Khi viết, cậu ấy cảm được nhịp. Cậu ấy nghe thấy một giọng nói và giọng nói này đến từ một nơi nào đó rất xa. Tôi trách bản thân sau khi chia tay đã không nhận ra cậu ấy sẽ hiến thân cho văn chương. Nếu tôi quan tâm hơn, hẳn tôi đã nhận thấy đôi khi cậu ấy không đến chơi với tôi cả tuần và khi xuất hiện trở lại cậu ấy lại có vẻ như đang chuẩn bị một chuyện gì đó bí mật. Thật ra cậu ấy đang viết cuốn tiểu thuyết của mình, nhưng cậu ấy lại không hé răng nói một lời. Tôi có thể đoán cậu ấy đang chuẩn bị gì đó, nhưng Antoine thường hay quá ghen nên tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi không gặp cậu ấy một thời gian. Tôi cảm giác được thở trong những ngày cậu ấy không gọi điện. Tôi tận hưởng sự tự do mà chẳng buồn thắc mắc xem cậu ấy đang làm gì.”
Con mèo mướp xám vẫn không động đậy cho đến lúc này bỗng ngồi dậy, rũ mình và nhảy lên bàn salon, làm đổ ấm trà. Chiếc bình rơi xuống đất và lăn tới chân tôi, nước trà còn trong bình đổ ra lênh láng. Judith đứng dậy, sờ soạng, tìm cách bắt con mèo, nó bỏ trốn và kêu meo meo. Tôi giơ tay định bắt khi nó đi ngang qua, nhưng nó cào và lỉnh về phía bên kia của căn phòng. Ở đó, nó kéo một tấm vải đang phủ chiếc ghế bành ở gần cửa sổ và cuộn tròn bên trong. Judith rủa, ngồi xuống và ném về phía nó một cuộn len nhỏ để nó chơi và không chạy nhảy lung tung. Nó thò chân ra ngoài tấm vải và nắm lấy cuộn len, rồi bắt đầu cào xé. Judith nói với tôi chắc nó đang đói. Cô đã không cho nó ăn gì lúc sáng, không còn sữa và đồ ăn khô. Bà giúp việc khi đi chợ đã quên mua. Nó chẳng ăn gì khác ngoài thức ăn khô. Nó chẳng xứng với cái tên Gargantua[94], mà cô đã chọn để cho vui: nó ăn rất ít, như một cô nàng đỏng đảnh muốn giữ dáng. Khi cô còn ở với Antoine, cô có một con mèo khác, trắng bóc, tên là Snow, và rất là háu ăn. Nó thích món gan gia cầm. Mỗi khi đến chơi, Antoine đều mang đến cho nó một ít, anh chơi với nó, dạy nó nhảy, anh không ngừng kéo nó vào lòng và vuốt ve nó. Khi Snow chết, Antoine đã không cầm được nước mắt, anh đi cùng với cô Judith đến nhà mẹ nuôi của cô để chôn con mèo già nua trong một góc vườn.
Khi còn bé, Antoine thường xin bố anh nuôi mèo, nhưng Martin Trần luôn cấm anh nuôi thú cưng: đối với ông ấy, chó mèo đều bẩn, đầy bọ chét và tốn tiền. Vì thế lần đầu tiên khi đến nhà cô Judith anh rất vui khi thấy có một con mèo nằm ườn trên trường kỷ. Với cuộc sống của mình, anh không thê nuôi thú cưng. Cho nên anh rất cưng chiều Snow. Mỗi khi anh chơi với nó, gương mặt anh rạng ngời như một đứa trẻ con vui mừng khi có bạn chơi chung.
Gargantua như bực bội khi nghe nói về đồng loại, nó giương móng vuốt và cào xé bìa một tờ tạp chí cũ trên tấm thảm. Judith đeo kính vào, nhưng cũng chẳng thấy rõ hơn, cô ấy hỏi tôi nó đang làm gì. Khi tôi mô tả lại cho cô ấy, cô tiến lại gần nó và muốn lấy tờ tạp chí, nhưng nó nằm lên trên và không để cho cô lấy. Cô la nó, đánh nhẹ lên đầu sau đó quay lại ngồi đối diện với tôi. Cô nói với tôi sau khi chia tay với Antoine cô đã không tiết lộ cho ai về mối tình giữa hai người. Nếu con gái cô biết được chuyện này, đó là vì nó đã theo dõi cô vào những lần nó từ miền Nam về và ở lại Le Havre vài ngày. Hơn nữa cô ấy đã không sống với Antoine quá lâu nên những người quen biết cô đều không biết chuyện. Cô ấy chối bỏ việc cô ấy tìm mọi cách để quyến rũ Sorel. Cô ấy nói cách hành xử của mình chẳng có gì bậy bạ. Cô không làm tha hóa một thanh niên trẻ tuổi dại khờ. Cô đã tận hưởng hạnh phúc trong vài tháng khi ở bên anh ấy. “Ít ra, cô ấy cho biết, trước khi Antoine bắt đầu nghi ngờ tôi không còn yêu cậu ấy và không ngừng chất vấn tôi về những mối tình hồi còn trẻ và cuộc sống hôn nhân trước đây của tôi. Cậu ấy biết cách giết chết những giây phút đẹp nhất của chúng tôi, khi lúc nào cũng tỏ ra nghi ngờ. Thậm chí cậu ấy còn trách tôi thích âm nhạc hơn là có một buổi chiều bên cậu ấy. Khi tôi mặc một chiếc đầm duyên dáng, cậu ấy cho rằng tôi mặc trang trọng như vậy không phải vì cậu ấy, là để cho tất cả những đàn ông trên đường quay lại nhìn tôi mỗi khi tôi đi ngang họ. Tôi cố giải thích rằng tôi chẳng quan tâm đến những người qua đường, cậu ấy dỗi và đôi khi cậu ấy bỏ đi, để tôi lại một mình ngay trên vỉa hè.”
Cô ấy không có ý nói rằng từ hơn hai mươi năm qua cô chỉ sống trong kí ức của Antoine, nhưng mối tình của cô với anh ấy là mối tình cuối cùng đã mang lại cho cô những cảm giác vẫn còn sống động mỗi khi kí ức ùa về. Giờ đây cô đã rời xa Le Havre nhưng mỗi khi cô nghĩ về thành phố đó, cô không thể không nhớ về Antoine. Khi cô đọc những cuốn sách đầu tiên của anh, cô cảm thấy thật hãnh diện đã quen biết anh ấy và được yêu, lúc đó anh chưa xuất bản cuốn sách nào, thậm chí cô còn không biết anh đang viết. Cô tiếp tục đọc sách của anh trong suốt hai mươi năm qua, và ngày càng ngưỡng mộ anh nhiều hơn, đôi khi cô cũng muốn gửi thư cho anh để nói với anh rằng những cuốn tiểu thuyết của anh làm cô xúc động. Nhưng cô đã không viết, vì sợ cho thấy cô quá ủy mị khi tuổi già đến, cũng vì sợ sẽ không nhận được hồi đáp hoặc là bị từ chối. Và rồi cô tự nhủ mình đã thuộc quá khứ xa xôi đối với anh ấy. Anh ấy còn quá trẻ khi hai người yêu nhau. Nếu cô không bị ấn tượng bởi sự tương đồng giữa cô và nhân vật trong truyện được xuất bản sau khi hai người chia tay rất lâu, cô chắc rằng anh ấy đã quên cô từ lâu. Lần cuối cô tới Le Havre, cách đây hai năm, cô cứ tưởng nhìn thấy anh ấy đang đợi xe buýt gần Tòa Thị chính, nhưng thị giác cô quá yếu để có thể biết chắc có phải là anh hay không. Dù sao, cô cảm thấy tim mình nhói lên, cô đã ngập ngừng khi quyết định đi đến gặp anh, nhưng cô lại đổi hướng, nghĩ rằng anh sẽ không nhận ra cô, bây giờ là một người phụ nữ già lão. Tốt nhất hây để anh ấy nhớ về cô như lúc hai người quen nhau: cô không giống một phụ nữ năm mươi, cô vẫn còn quyến rũ, và khi cô bước vào một nơi nào đó, ánh mắt của những người đàn ông đều lập tức hướng về phía cô.
Judith lại cười tủm tỉm khi nói những từ như thế, như thể cô xin lỗi vì đã tự đề cao mình. “Thành phố Le Havre, cô tiếp tục nói, không phải là một thành phố lớn, tuy nhiên sau khi chia tay với Antoine, tôi không bao giờ bắt gặp cậu ấy trên đường. Tôi không biết một người bạn nào của cậu ấy. Hơn nữa cậu ấy cũng không có nhiều bạn. Có những người thường uống rượu với cậu ấy vào những tối khi cậu ấy có tiền mời họ. Nhưng những người này chẳng biết gì về cậu ấy, thậm chí cũng không biết cậu ấy đang viết, lại càng không biết cậu ấy có một người tình là một giáo viên dạy nhạc hồi tiểu học. Theo tôi, những gì cậu ấy thích, đó là ở với mấy tên chỉ biết uống cho say và không nói gì nhiều, những gã mà cậu ấy chẳng biết gì về họ - họ sống ở đâu, họ làm nghề gì, họ có vợ và con cái không. Chính rượu là cái kết nối cậu ấy với họ. Cậu ấy ở với họ một buổi tối, nhưng ngày hôm sau chẳng còn nhớ họ tên gì. Cậu ấy chẳng kể gì với tôi về gia đình, về bố mẹ. Tôi đoán được rằng cậu ấy chẳng hòa thuận với bố, nếu không cậu ấy đã không bỏ nhà ra đi sớm như thế. Tôi hình dung bố cậu ấy là một người rất nghiêm khắc. Sau này tôi đọc sách của cậu ấy và đoán rằng vào lúc mười lăm tuổi, cậu ấy sẵn sàng hy sinh tất cả để trở thành đứa trẻ mồ côi. Còn về mẹ cậu ấy, tôi chỉ thoáng nhìn thấy bà ta một lần duy nhất từ xa, như tôi đã kể với cậu, có vẻ bà ta là một người vô vị, một người phụ nữ không dám thu hút sự chú ý vào mình và thường chỉ biết cam chịu. Antoine không kể nhiều về mẹ của mình, ngoại trừ việc bà ta đã không có một cuộc sống dễ dàng và bà ấy sợ mọi thứ đến nỗi bà phụ thuộc vào sự bảo bọc của chồng. Bà sợ người khác đánh giá mình và bà rất lo lắng mỗi khi con trai bà làm ngược lại với những qui tắc mà chồng bà đã đề ra. Về điểm này tôi và bà ấy hoàn toàn trái ngược nhau. Tôi không bao giờ lo lắng về những gì người khác nghĩ về tôi, tôi luôn bị thu hút bởi những ai đi ngược lại các nguyên tắc, tôi không muốn nghe giáo điều về những gì nên làm và không nên làm. Không phải tuổi trẻ của Antoine thu hút tôi, mà những gì nổi loạn trong con người cậu ấy. Ở tuổi hai mươi hai cậu ấy nhắc với tôi rằng cách duy nhất để sống cho xứng đáng đó là không đi theo những gì đám đông làm. Cậu ấy trả giá đắt cho con đường đơn độc của mình, nhưng cậu ấy đã không phản bội lời hứa của chính mình, đó là không giống những ai, như bố mẹ cậu ấy, tôn trọng trật tự đã được thiết lập. Và rồi cuối cùng cái trật tự đó đã giết chết cậu ấy. Chỉ còn lại những cuốn tiểu thuyết, là những tiếng la hét nổi loạn. Không ai nghe thấy những tiếng la đó khi cậu ấy còn sống. Liệu giờ đây có ai sẽ nghe thấy khi cậu ấy đã chết?”
Judith đặt ra câu hỏi đó như thể tôi không còn ở đó nữa và cô ấy đang nói một mình. Đôi mắt cô ướt và cô có vẻ xúc động. Và rồi sau khi ngồi im lặng một hồi lâu, cô dường như bỗng nhớ ra tôi đang ngồi trước mặt, đang thu âm những gì cô tâm sự. Bằng một động tác nhanh dứt khoát, cô lau mắt với một chiếc khăn mùi soa lấy từ trong túi áo ghi-lê, ngồi thẳng dậy và e thẹn mỉm cười với tôi. “Hai mươi năm trôi qua từ lúc tôi không còn tin tức gì của Antoine, nhưng tôi có cảm giác câu chuyện của chúng tôi như vừa mới hôm qua. Trong hai mươi năm đó, tôi thường xuyên nghĩ về cậu ấy, tôi thường xuyên tự hỏi liệu cậu ấy có còn nhớ đã yêu tôi như thế nào không, như một tên độc tài và luôn đòi hỏi tôi những minh chứng tình yêu. Mỗi khi tôi nghĩ về cậu ấy, tôi không thể quên đêm hôm đó, khi chúng tôi sắp sửa chia tay. Tôi tỉnh dậy sau một cơn ác mộng, tôi gọi điện cho Antoine. Do cậu ấy không trả lời, tôi đã đến nhà và thấy cậu ấy nằm bất động. Cậu ấy đã uống thuốc an thần và cắt đứt mạch máu ở cổ tay. Liều thuốc an thần không quá nguy hiểm và vết cắt ở tay không quá sâu, cậu ấy chỉ nhập viện vài ngày nhưng tôi thì rất sợ. Tôi giận chính bản thân mình đã làm cho mối quan hệ của chúng tôi xấu đi chỉ trong vài tháng. Một lần nữa, nên nhớ là cậu ấy còn rất trẻ. Và tôi là người phụ nữ đầu tiên mà cậu ấy đã có một mối quan hệ nghiêm túc. Nếu tôi bằng tuổi cậu ấy, mọi chuyện chắc hẳn sẽ khác. Cậu ấy sẽ không lúc nào cũng nghi ngờ về quá khứ của tôi, đã không đau khổ khi yêu tôi vào lúc tôi không còn sẵn sàng như lúc tôi hai mươi tuổi. Tình trạng của cậu ấy cũng không quá nguy kịch vào đêm tôi thấy cậu ấy nằm gần như bất tỉnh. Hành vi đó là một lời cầu cứu, một cách để gây sự chú ý của cậu. Nhưng hiệu ứng lại không như mong muốn: tôi nhận thấy lúc cậu ấy ở bệnh viện tôi không mang lại điều gì tốt cho cậu ấy, cậu ấy có lí khi trách tôi không toàn tâm toàn ý như cậu ấy. Tôi cảm thấy buồn cười khi một phụ nữ năm mươi tuổi đi yêu một thanh niên hai mươi hai tuổi và cư xử như một pa già nua đóng cảnh yêu đương tình ái mỗi ngày. Sau đêm hôm đó tôi đã cố làm cậu ấy hiểu rằng đã quá trễ để hai chúng tôi có thể có một tình yêu dài lầu. Tình yêu càng đẹp khi nó ngắn. Cậu ấy sẽ gặp những phụ nữ trẻ tuổi hơn tôi, và cậu ấy sẽ yêu họ như thể đó là lần đầu tiên. Cậu ấy đã vô cùng đau khổ khi nhận thấy tôi muốn dừng mọi chuyện. Tôi không muốn nói cho cậu ấy biết rằng tôi cảm thấy bị ngột ngạt do cậu ấy quá ghen và tôi chỉ có một ham muốn: sống một mình, không phải báo cáo với cậu ấy..
Cho tới giờ, cô ấy chưa nói với ai về tình cảm của cô trong suốt thời gian Antoine và cô đã thề thốt sẽ trân trọng gìn giữ kỉ niệm về những gì họ đã cùng nhau trải qua cho dù có xảy ra chuyện gì. Cô ấy nghĩ rằng sẽ mãi mãi giữ được bí mật và cô ấy ngạc nhiên khi có thể nói với tôi dễ dàng như thế. Có thể đó là vì cô quá sốc khi hay tin Antoine tự tử và cô mong muốn dù chỉ một ít góp phần vào việc gìn giữ kí ức về anh. Cô ấy không quen biết tôi nhưng cô ấy có linh cảm tôi sẽ xuất bản được một cuốn sách hay về anh, cuốn sách đó sẽ giúp Sorel hồi sinh. Cô ấy không muốn tôi nói về anh ấy như một người đáng thương, đã chống lại cả thế giới và đã thất bại, hoặc như một người mang ấn tử, không còn cách nào khác là tự kết liễu trong khi anh còn rất tré. Cô ấy củng hy vọng trong số những người tôi gặp, không ai đứng lên phê phán Sorel và kết luận rằng bởi vì cả đời anh chỉ quan tâm đến “những con người bi quan”, những con người của thế giới văn chương bị ruồng bỏ ở mọi thời đại, họ bị đẩy ra bên lề, nên họ chỉ còn cách tự hủy diệt. Những năm cuối cùng, khi cô đọc sách của anh, cô hình dung ra anh luôn một mình, ngày càng cô độc khi có tuổi, và cô tự hỏi làm sao anh có thể sống trong nỗi cô đơn băng giá ấy. Điều đáng sợ nhất không phải vì anh thiếu tiền, đó là cảm giác khoảng cách giữa anh và những người xung quanh ngày càng lớn dần, đó là anh tin rằng mình như một chiếc thuyền yếu ớt chuẩn bị vỡ tan khi lao vào những tảng đá. Đúng vậy, khi hình dung anh như thế, không một người chăm sóc, cô tự nhủ cô phải viết cho anh ấy, phải gặp lại anh, đến với anh như một người bạn vì giờ đây cô ấy chỉ còn là một phụ nữ già nua. Có lần, trước ngày sinh nhật lần thứ 65 của mình, cô đã soạn nháp một bức thư cô muốn gửi cho anh, cô nói với anh cô không còn nhìn rõ nữa nên cô không thể đọc nhiều, chỉ đọc sách của anh viết - thậm chí cô còn thường xuyên đọc lại chúng. Cô tìm thấy trong những cuốn sách này một sự triết lí sâu sắc, buộc cô phải suy nghĩ. Sự bi quan của Sorel chưa bao giờ làm cô buồn chán, thậm chí là ngược lại. Cô hầu như đồng ý với anh về mọi chuyện, cô không phải là một người tán đồng những gì cô đọc mà không xem xét. Cô ấy cũng muốn trong cuốn sách của tôi, Sorel không được xuất hiện như một người thất bại, bị dồn vào con đường chết. Bằng cách tự tử, cô nhấn mạnh ý này, anh đã tuân thủ quyết định anh chọn với sự sáng suốt cao độ chứ không phải do bốc đồng tức thời không thể kìm nén được. Việc hỏi những người thân của anh như thế nào để họ không bóp méo sự thật và tránh đưa ra một hình ảnh sai lệch về anh đều phụ thuộc vào tôi. Những người chết hoặc sẽ được tâng bốc hoặc sẽ bị chà đạp một cách dối trá. Tôi cần phải cẩn thận không rơi vào bẫy vì quá muốn tôn vinh, mà tôi sẽ chỉ giữ lại những gì đề cao nhân vật của tôi.
Tôi tiếp thu lời khuyên, hơn nữa sau khi viết những chương đầu, tôi không thể tự đắc thắng. Tôi bắt đầu nghi ngờ về khả năng thành công một bức chân dung đầy đủ sắc thái về Sorel. Tôi ý thức rằng công việc này sẽ buộc tôi phải làm việc rất nhiều. Một khi cuộc tìm kiếm của tôi kết thúc, tôi cần làm việc hết mình để có thể chắc chắn tôi đang đi đúng hướng. Tôi đã quá vội vàng bắt đầu viết trong khi đó dự án của tôi còn rất mù mờ. Tôi nhận ra qua việc này, tôi có thói hay làm mọi thứ một cách vội vàng. Tôi tự nhủ tôi nên noi gương Sorel, anh luôn suy nghĩ chín chắn, tôi chắc như thế, những ý tưởng của mình và chỉ thực hiện khi các ý tưởng đã hình thành một cách rõ ràng. Ngay khi còn trẻ, anh không bao giờ lao vào thực hiện việc gì đó mà chưa suy nghĩ thấu đáo. Và khi tôi càng thu thập được nhiều thông tin về anh tôi càng xem anh như một người anh trai, đã di huấn lại cho tôi một bí mật cần được khám phá, vì tôi chắc rằng khi tôi thực hiện cuộc tìm kiếm này, tôi sẽ học được nhiều thứ về chính bản thân mình và về công việc sáng tác. Tôi chưa bao giờ là một sinh viên được trang bị đầy đủ các lí thuyết về văn chương và biết áp dụng những cách đọc khác nhau cho những cuốn tiểu thuyết rơi vào tay mình.
Tôi tự nhủ cuốn sách của tôi sẽ cho phép tôi mở ra một trang mới trong cuộc đời của tôi. Từ nhiều tháng qua, tôi chỉ sống bằng hình ảnh của Sorel, bằng hình ảnh của một người đã chết, và bằng việc lắng nghe những cảm nhận của những người còn sống về anh, tôi cảm thấy như mở lòng ra thế giới, tôi, một người tình với lòng tự ái bị tổn thương, có khuynh hướng khép mình. Lupine đã nhắc cho tôi nhớ rằng tôi đã bị thất bại trong tình yêu, nhưng ít có nỗi đau vì yêu nào có thể xoa dịu theo thời gian. Có thể nếu tôi không bị phản bội, như tôi vẫn thích nói như thế, có lẽ tôi vẫn còn ngồi viết những bài báo với nhiệt huyết tuổi trẻ và theo thời gian sẽ chán nản, vì đúng là chúng sẽ nhận được phản hồi tức thì, nhưng nhìn lại chỉ là những tháng ngày bèo bọt, không thật sự quan trọng đối với tôi.
Viết cuốn sách tưởng niệm Sorel chứ không phải để tôn thờ anh là cách đưa tôi thoát ra khỏi chính bản thân mình để lần theo dấu vết của một người chống đối. Tôi biết ơn anh về những cuốn sách anh đã viết, tôi càng đọc, chúng càng củng cố niềm tin của tôi đó là tôi đã không đi sai đường khi dành cho anh hai, ba nàm trong quãng đời của tôi. Sau khi chia tay với Lupine, thay vì dỗi hờn khép mình như một người cảm thấy bất tài khi cuộc sống tình cảm trống vắng, tôi đã ra đi tìm kiếm Sorel. Tôi đã lập lời thề sẽ không ngưng giữa chừng dự án của tôi, ngay khi đã bỏ bao công sức, tôi đã quyết định xóa bỏ tất cả những đoạn văn mà tôi đã mất hàng giờ để gọt giũa trên màn hình máy vi tính. Tôi không chỉ biết ơn Sorel vì đã viết những gì anh đã viết, tôi càng biết ơn anh vì đã gặp một người phụ nữ đáng mến như cô Judith. Tôi không biết liệu cô có nhận ra tôi thấy cô đáng mến không, cô không có gì nhiều về Sorel để tâm sự với tôi, cô sẽ gọi điện cho tôi nếu cô nhớ thêm những chi tiết mà cô nghĩ rằng quan trọng đối với cuốn sách của tôi. Cô hy vọng đã giúp đỡ nhiều cho tôi, tôi có thể dùng tên của cô, tôi có thể sử dụng tất cả những gì cô đã kể, cho dù những gì cô tiết lộ không mấy tốt đẹp đối với Sorel. Cô cũng chẳng phật lòng nếu trong sách của tôi cô ấy không được nói đến như một người tử tế, cô đã rất hạnh phúc khi mình là một trong những người tôi đề nghị gặp và đã góp phần vào việc thực hiện tưởng niệm Sorel. Cô sẽ đọc nghiến ngấu khi cuốn sách được xuất bản, vì theo đúng tiến độ viết, tôi sẽ kết thúc trong khoảng một năm. Tôi không muốn làm cô ấy thất vọng nếu tôi nói rằng tôi gặp khó khăn lúc bắt đầu viết. Cô sẽ không tin tôi, vì cô rất tin tưởng vào tài năng viết văn của một người viết non trẻ như tôi.
Trời đã tối từ lâu ở Étretat, Judith chỉ mở một chiếc đèn nhỏ hắt ánh sáng vàng trong phòng. Gargantua sau khi chạy từ góc phòng này sang góc khác đến cuộn mình ở dưới chân tôi. Tôi đến lúc phải đi, tôi tiếc vì phải tạm biệt người phụ nữ già mặc bộ đồ trắng mà tôi sẽ nhớ mãi dáng người mảnh mai, đôi mắt xanh và giọng nói hơi êm dịu. Judith thì thầm vài từ mà tôi không nghe rõ. Cô ấy đứng dậy, tiến lại gần con mèo, nắm gáy và hôn vào mõm nó. Điện thoại lại reng lên, nhưng cô ấy không trả lời. Chắc ai đó gọi nhầm số, cô ấy nói thế, cô không đợi ai gọi. Từ nhiều ngày qua, cô nhận được nhiều cú điện thoại tìm ông Debussy nào đó, cô cho rằng mấy người hàng xóm đùa cợt với cô, vì lần đầu tiên cô trả lời, cô đang nghe bài hát La Mer… Trong lúc tôi đang cất chiếc máy thu âm, sổ ghi chép và cây bút, cô ấy đi về phía bên kia căn phòng và lấy trong ngăn kéo chiếc tủ bàn giấy một bức thư, cô đưa nó cho tôi. Cô ấy cho biết đó là bức thư cuối cùng mà Sorel viết gửi cô. Cô tặng tôi bức thư này. Sorel và cô có thói quen viết cho nhau những bức thư dài lê thê. Dù họ mới gặp nhau buổi sáng nhưng tối đến họ lại viết thư cho nhau. Bức thư mà cô ấy tặng cho tôi thật kì lạ, trong bức thư này, Sorel nói rằng khi anh ấy chết, anh ấy muốn người ta bỏ vào trong quan tài những bức thư anh viết cho cô. Anh ấy là một thi sĩ như thế nào mà mong muốn cuối cùng là được chôn cùng với những bức thư của người tình? Judith đặt cho tôi câu hỏi như thế. Có thể cô ấy chưa nói hết với tôi rằng những giây phút, vui cũng như buồn, mà cô ấy đã có được trong quãng thời gian ở bên cạnh Antoine đã lưu giữ như thế nào trong kí ức của cô. Cô mong đọc sách của tôi, không chỉ bởi vì cô còn nhiều thứ về Sorel cần khám phá, mà hơn nữa cô chắc rằng tôi biết dùng những câu chữ phù hợp để nói về anh, một người quan trọng đối với cô. Tôi không dám thổ lộ rằng tôi rất nghi ngờ về tài văn chương của tôi và tôi không hề chắc việc tôi sẽ hoàn thành cuốn sách mà tôi dự tính thực hiện, dù tôi làm việc không ngừng nghỉ trong nhiều tháng dài. Tuy nhiên tôi đã tự hứa với bản thân sẽ không quay đầu, bởi vì một số người tôi phỏng vấn, ngoại trừ bố của Sorel, đều không mong tôi sẽ đầu hàng. Nhất là cô Judith tỏ ra rất sốt sắng, muốn khám phá những gì tôi sẽ làm với những nhân chứng thu thập được. Đôi mắt cô lóe sáng khi cô bắt tay và mỉm cười nói với tôi rằng cô sẽ ngóng xem khi nào cuốn sách tôi được xuất bản.
Tôi vuốt ve con mèo Gargantua, đang cọ mình vào chân tôi, như thể nó muốn giữ tôi lại. Đã đến lúc tôi phải đi. Ở Étretat tôi chỉ đến căn hộ của một bà già mắt gần như mù nhưng không quên gì sau hơn một phần tư thế kỉ, về mối tình đã kết nối cô và Sorel trong một năm. Cô ấy không quên tặng tôi khi tôi chuẩn bị đi một đĩa nhạc của Muzio Clementi, một nhà soạn nhạc mà tôi biết rằng ông không được Mozart đánh giá cao. Tôi lấy xe và rời thành phố thậm chí tôi không làm một vòng ven biển. Trời bắt đầu mưa như trút nước vào khoảng mười một giờ đêm. Tôi bật đĩa nhạc của Clementi, và cứ như vậy tôi lái xe về Paris trong giai điệu của bản xô-nát này.
* * *
Tháng Ba, tổng biên tập biết chuyện tôi đang làm, đã tử tế cho phép tôi không cần đến tòa soạn trong suốt một tháng, trong khi đó tôi đã xin nghỉ hết phép. Tôi chỉ cần phải viết một bài báo hay trong suốt bốn tuần đó, cho nên tôi hoàn toàn có thời gian để đọc lại các tác phẩm của Sorel. Những lời tâm sự từ người thân của anh đã không ảnh hưởng đến những gì tôi đọc. Tôi tiếp tục đọc như thể tôi không hay biết gì về cuộc đời của anh, và mỗi khi tôi mở sách của anh ra, tôi có ngay một cảm giác kì lạ về một thế giới chưa khám phá đang mở ra cho tôi. Có những lúc tôi tự hỏi liệu các nhân chứng tôi phỏng vấn có nói dối tôi hay không, nếu có cũng không phải một cách có chủ ý, mà do trí nhớ của họ không tốt. Những nghi vấn này cũng không ảnh huởng đến những gì tôi làm. Tôi thấy rõ cuốn sách của tôi sẽ là một thứ lai tạp, không là tiểu thuyết nhưng cũng không phải tự truyện. Tôi thấy rõ tôi vẫn chua tìm ra cái mà những nhà báo gọi là “một cách tiếp cận hay”. Tôi viết lại những bằng chứng thu âm được và sắp xếp thứ tự các ghi chú, cùng lúc tôi lượm ra trong các cuốn sách của Sorel những câu châm ngôn mà tôi sẽ làm nổi