← Quay lại trang sách

Chương 3

Tôi cứ nghĩ khi đi Normandie về vào tháng Giêng, sẽ rất lâu nữa mình mới quay lại nơi đó. Thế nhưng mùa hè vừa mới bắt đầu tôi đã nhận được một bức thư đến từ Le Havre của một cô gái tên Marianne Monicelli. Cô ấy viết cho tôi để nói rằng nếu cô đã không liên lạc với tôi ngay sau khi tôi đăng mẩu tin cách đây gần một năm trong một tờ báo địa phương, đó là bởi vì cô đắn đo khi tự nhận mình là người phụ nữ đã sống chung - thật ra cũng không được lâu lắm - với Sorel. Nhưng cuối cùng cô đã quyết định gửi cho tôi vài hàng và nói rằng tôi có thể sử dụng chúng để làm những gì tôi cho là đúng, rằng nếu cuộc điều tra của tôi đã chấm dứt, cô sẽ không trách tôi nếu tôi không trả lời cô. Tôi đã gửi hồi đáp cho cô ấy để hỏi cô có thể cho tôi một cái hẹn. Cô ấy đề nghị đến gặp cô một tuần sau đó trong một quán trà ở thành phố Le Havre, Le Nuage dans la tasse (Mây trong tách trà), và nói rõ rằng tôi sẽ nhận ra cô ấy với mái tóc màu đỏ hung và cô sẽ cầm theo cuốn sách mới nhất của Sorel, Sóng sánh[102].

Tôi không mong đợi có một cô gái trẻ trả lời mẩu tin của tôi được đăng cách đây đã lâu lắm rồi. Không một ai trong số những người tôi đã gặp và nghe tâm sự đã nói với tôi về Marianne. Cô ấy càng làm tôi tò mò. Buổi chiều thứ Năm tôi đi Le Havre và ngày hôm sau tôi đi Rouelles và Mont-Gaillard chụp ảnh các đường phố và các tòa nhà chung cư nơi Sorel từng ở. Đó là những khu phố buồn tẻ và vài người qua đường khi thấy tôi đang chụp lia chụp lịa một số tòa nhà nghĩ rằng tôi làm việc cho Tòa thị chính và những bức ảnh đó sẽ được dùng trong bản đồ đô thị hóa.

Buổi tối, không có gì để làm, tôi đi dạo ở phía khu phố Saint-Frangois, ăn tối trong một nhà hàng Ần Độ và kết thúc buổi tối của tôi trong một quán rượu Le Cyclamen. Ở đó, tôi đã nốc tequila cho tới tận một giờ sáng, và khi tôi đứng dậy để về khách sạn tôi mới thấy mình đã say bí tỉ. Điều đó có nghĩa là đầu óc tôi sẽ không minh mẫn vào ngày hôm sau khi đi nói chuyện với Marianne Monicelli.

Ở quán Mây trong tách trà không có nhiều khách, và Marianne thật sự có mái màu đỏ hung đang đọc cuốn Sóng sánh trong lúc đợi tôi. Cô ấy đã gọi một tách trà cam quế, cô ấy nói với tôi như vậy khi bắt tay tôi - cô ấy có đôi tay nhỏ với các ngón tay đánh sơn màu đỏ sẫm - cô ấy mỉm cười với tôi, điều này dự báo một điềm tốt. Tôi đau đầu và do tôi chỉ mới thức dậy vào đầu buổi trưa và vội vàng rời khách sạn để không đến trễ, tôi quên mất chiếc máy thu âm. Nên tôi chỉ còn cách vừa ghi chép lại vừa đặt câu hỏi cho cô gái tóc màu đỏ hung - cô ấy chắc không quá ba mươi tuổi, và tôi tự hỏi cô ấy bao nhiêu tuổi lúc cô sống với Sorel.

Cô ấy cũng gọi một món bánh ngọt và trong lúc tôi dùng một ly cà phê to, hy vọng sẽ giúp tôi thoát khỏi tình trạng miệng khô, cô ăn bánh ngọt và không nhìn tôi. Cô có vẻ bối rối, vì như cô đã thấp giọng nói rằng mình có đọc các bài báo về nghệ thuật của tôi, cô ấy biết được rất nhiều và không bao giờ cô có thể hình dung một ngày nào đó cô lại ngồi trước mặt tôi. Cô ấy rất vui khi biết người đó là tôi, người mà cô ấy luôn đọc các bài viết, viết về Sorel, bởi vì tôi viết một cuốn sách nói về anh ấy, đúng không? Cô ấy sẽ rất vui được đọc nó khi nó được xuất bản, và cô ấy chắc chắn rằng nó sẽ sớm được phát hành. Công việc không cho cô nhiều thời gian để đọc. Cô làm nghề trợ lí xã hội, và trong phòng làm việc của mình, hẳn cô phải hy sinh bản thân rất nhiều, cô phải lắng nghe những lời ca thán về những cuộc đời bất hạnh đến nỗi vào cuối ngày cô hoàn toàn kiệt quệ, cô ấy ngủ thiếp đi sau khi đọc ba trang. Cô ấy thích những gì cô làm, nhưng đôi khi cô có cảm giác cô không còn sống cho chính bản thân mình, và ngày càng khó có thể quên đi những nỗi đau mà các gia đình đến xin trợ giúp đã phải gánh chịu. Nhưng - cô thì thầm và mỉm cười lần nữa, một nụ cười làm cho gương mặt phúng phình của cô càng thêm nhân hậu, cô tới đây không phải để nói về cô và công việc hàng ngày của mình. Cô phải tâm sự với tôi vài ba chuyện có liên quan tới Sorel. Cô ấy không giữ một vị trí quan trọng trong cuộc đời của anh Sorel, cô ấy hạ giọng nói nhỏ đến mức tôi nghe không rõ. Tôi lôi những cuốn sổ tay của tôi ra và hỏi cô ấy liệu tôi có thể ghi chép những gì cô tâm sự với tôi, vì tôi có một trí nhớ tồi tệ. Cô ấy gật đầu đồng ý và nói với một giọng càng nhỏ hơn rằng cô hy vọng sẽ không làm tôi thất vọng, bởi vì tôi chắc chắn đã thu thập được những nhân chứng hấp dẫn hơn cô. Cô cũng muốn báo cho tôi biết rằng bố mẹ cô sẽ rất giận dữ nếu họ phát hiện tên của cô trong sách về Sorel, nhưng cô chẳng quan tâm đến những gì bố mẹ cô sẽ nói. Họ là những người duy nhất biết rằng Antoine và cô sống chung trong một căn phòng tồi tàn gần đường hầm Jenner, và đã nhiều lần ra lệnh cho cô phải chia tay anh, bởi vì họ không thể chịu đựng anh. Khi hai người chia tay nhau, không một ai trong gia đình của Sorel, thậm chí hai người em trai cũng không biết rằng anh đã sống với cô trong chín tháng - thời gian đủ để có một đứa con, nhưng họ đã không làm: Sorel thà nhảy từ vách đá xuống còn hơn là có con, và cô thì còn chưa đầy mười bảy tuổi. Anh ấy lớn tuổi gấp đôi cô và vừa mới ly hôn. Cô vẫn còn đi học khi họ yêu nhau. Lúc họ thuê căn phòng gần đường hầm Jenner, họ cần phải kiếm tiền để trả tiền trọ, anh thì không có đồng nào, cho nên cô đã bỏ học và đi trông trẻ cho một gia đình luật sư. Sorel đang viết cuốn Hiệp cuối, cuốn sách này đã không nhận được lời khen như mong đợi - như cô mong đợi, vì anh chẳng bao giờ chờ đợi người ta công nhận mình. Cô không đọc cuốn sách nào của anh trước khi quen anh. Khi họ quen nhau, anh không yêu cầu cô phải đọc sách của anh, anh cũng không nói anh đã xuất bản nhiều cuốn. Cô không thích lắm những cuốn tiểu thuyết đương thời, cô thích những cuốn kinh điển hơn, của thế kỉ 19. Và chính vào ngày cô ấy đi tìm mua cuốn tiểu thuyết kinh điển Đi tìm cái tuyệt đối, tại tiệm sách cũ của André Baly mà cô đã gặp Sorel. Cô đã yêu anh ấy ngay từ cái nhìn đầu tiên, như người ta thường nói trong những cuốn tiểu thuyết hồi năm 1850. Thế nhưng, cô ấy thở dài trong một tiếng cười lớn, anh không có vẻ là một người đáng yêu. Vì lục lọi trong một chồng sách bỏ túi, anh đã làm đổ tất cả và anh ấy đứng đó, tay đung đưa, nhìn những cuốn sách rơi xuống đất, không thèm nghĩ đến việc nhặt chúng lại. Cô đã giúp anh ấy xếp lại chồng sách, và như thế họ dã làm quen với nhau. Cô cọn rất trẻ, anh có vẻ lớn tuổi hơn so với thực tế, nhưng anh có đôi mắt đẹp, và khi anh nhìn thẳng vào cô, cô cảm thấy như có một luồng điện chạy dọc sống lưng.

Hai tuần lễ sau đó, họ bắt đầu xây dựng tổ ấm - đó là cách cô ấy nói, chứ không phải từ anh, anh không quan tâm đến việc sống ở đây hay ở một nơi nào khác, trong một ngôi nhà tồi tàn hay một dinh thự. Căn phòng xập xệ gần đường hầm Jenner nhỏ đến mức giờ đầy cô vẫn tự hỏi làm sao hai người họ có thể sống ở trong đó. Không có giường, chỉ mỗi một tấm nệm bằng mút, tìm thấy trong một khu đồ phế thải. Họ cũng không có rèm cửa: buổi tối họ treo lên cửa sổ một tấm quảng cáo mà một người bán nước hoa đã cho họ. Những cái thùng chồng chất thành bàn. Để ăn, họ phải ngồi xuống đất trước một cái mâm lớn và thông thường chỉ có những đồ hộp. Đồ đạc còn lại là một vài kệ sách, và trong một góc phòng, cái lavabo vừa dùng để làm bồn rửa chén vừa dùng để giặt đồ. Đó là kiểu sống của nhà văn lãng tử, cô ấy nói và không giấu rằng cô ấy ngạc nhiên khi thấy Sorel không quan tâm mấy đến tiện nghi. “Dù sao anh ấy cũng đã có ba năm sống chung với một phụ nữ thuộc giới thượng lưu ở Rouen - cô nói. Trong ba năm đó, anh đã không sống như một sinh viên nghèo khó, không dám bật lò sưởi vào mùa đông. Trong ba năm đó, vợ anh hẳn thường tổ chức các bữa tiệc với khách quen, dù anh rất ghét những thứ trần tục đó, anh phải chủ trì những bữa ăn này nơi họ nói: ‘Bạn yêu quý, bạn biết tin mới chưa?’ hoặc ‘Món nấm này thật ngon tuyệt!’ Anh ấy chẳng bao giờ nói với tôi về cuộc sống của anh với Isabelle, anh ấy chỉ nhắc tên cô ấy một lần, và nói rằng cô ấy thật sự hối tiếc đã cưới anh và rằng anh hiểu cô ấy, vì anh không phải sinh ra để lập gia đình: anh ấy đã là một người chồng xấu xa. Đó là tất cả những gì anh đã kể.”

Marianne đã muốn hỏi anh ấy hơn nữa về cuộc sống vợ chồng của anh nhưng cô không dám - mà cô chắc chắn rằng anh sẽ không trả lời. Cuộc sống của cô với anh không phải là một cuộc sống vợ chồng. Vì cô chỉ mới mười bảy tuổi, anh luôn cư xử với cô theo kiểu anh trai, dù sao cũng vào lúc đầu mối quan hệ. Dạo ban đầu, đó là hạnh phúc. Một hạnh phúc chỉ kéo dài bảy hoặc tám tuần. Sau một ngày chăm sóc những đứa con của luật sư, cô luôn mong được quay về nhà để lao vào vòng tay của Antoine. Anh ấy gọi cô là “Squaw của anh”, bởi vì cô ấy luôn mặc chiếc áo vest có tua bằng da thượng hạng. Cô ấy gọi anh là Sorel, bởi vì cô thích biệt danh của anh và vì cô cần phải tự dối lòng mình cô đang sống chung với một nhà văn. Anh không có cả bàn để viết. Anh làm việc trên nệm nhưng anh không có vẻ thấy thiếu thốn. Đúng, trong tám tuần đầu, họ giỡn vói nhau như những đứa trẻ, hạnh phúc khi ở bên nhau mỗi tối. Cô nói với anh rằng họ giống nhau: họ đều có ông là lính thợ sinh ra ở châu Á, cô là cháu gái của một người nhập cư Ý đến từ vùng Abruzzes. Cô cũng nói với anh sẽ mãi bên nhau, cô sẽ lo chuyện kiếm tiền, anh chỉ cần tập trung viết tiểu thuyết mà không cần phải lo bất kì điều gì. Cô ấy rất hãnh diện, dù chưa được mười tám tuổi, là người kiếm ra tiền để trả tiền phòng. Khi anh nhận được tấm séc, dù ít, anh lập tức mua cho cô sách, cô không có thời gian đọc, cô muốn anh dùng tiền đó để mua tặng cho cô một chiếc áo thun đẹp đẽ hoặc đôi giày thể thao, nhưng cô làm bộ hài lòng, phấn khích khi thấy một tuyệt tác có thể làm thay đổi thế giới quan của mình. Sau hai tháng, có một số dấu hiệu không thể nhầm lẫn, cô nhận thấy mọi chuyện đang xấu đi rất nhanh. Cô bắt đầu cảm thấy hai người thật sự chật chội trong căn phòng tồi tàn ẩm thấp và thiếu ánh sáng, cô nổi cáu khi tối đến lúc về nhà cô thấy Sorel gần như nằm dài trên nệm, một cuốn sổ tay trên đùi, một chai rượu và một gạt tàn thuốc đầy bên cạnh anh. Cô càng nổi cáu hơn khi anh ấy thức dậy vào hai giờ sáng, hút hết điếu này đến điếu khác và mở đèn để chỉnh sửa những gì anh hí hoáy trong vở của anh. Hầu hạ cho mấy đứa trẻ nghịch như quỷ đã làm cô mệt mỏi. Cô khó chịu, cô không trách Antoine sống bám vào cô, nhưng cô không còn hãnh diện như thời kì đầu được làm người trả tiền trọ, cô cảm thấy bất công khi phải làm một công việc không được trọng vọng ở tuổi mười bảy và buộc phải hy sinh những gì các bạn cùng lứa đều có, vì cô sống với một nhà văn mà sách của anh chỉ dành một một nhóm ít độc giả. Marianne nói: “Tôi như bao cô gái ở tuổi này, tôi muốn đi chơi, ăn tối trong những nhà hàng ngon, đi du lịch. Tôi còn quá trẻ, tôi không thể chịu đựng lâu kiểu sống kham khổ như vậy. Antoine không quan tâm đến mọi chuyện chừng nào anh ấy vẫn còn có thời gian để viết, nhưng tôi cần được đền bù cho những gì tôi phải chịu đựng mỗi ngày ở nhà ông luật sư. Kế đến dù tôi chỉ mới mười bảy tuổi và dừ cớ những vấn đề về;tiền bạc, tôi đam mê đến mức tôi mợ ước cớ con với Antơine. Tội quyết định nài rủ anh cho đến khi anh chấp nhận có con với tôi. Mẹ tôi đã sinh ra tôi khi bà mười tám tuổi, tôi không hiểu tại sao tôi lại không thể có, tôi luôn muốn được âu yếm một đứa bé - Antoine trả lời rằng tôi muốn được âu yếm như một đứa bé gái muốn chơi búp bê…”

Marianne mặt ửng đỏ, như thể cô tự nhủ không nên tâm sự những chuyện như thế với một người xa lạ và cô sẽ bị xem là người đã phá hỏng mọi thứ khi đòi hỏi Antoine nhượng bộ những yêu sách của cô, bởi vì đó đúng là một yêu sách, cô thừa nhận điều này, nỗi ham muốn có con này đã xuất hiện ngay từ đầu. Giờ đây cô nhận thấy cô quá con nít vì đó gần như là một tội ác khi muốn có con, cô ấy nói vừa uống cạn tách trà vừa xoắn một lọn tóc. Cô không biết vì sao cô quả quyết muốn có con với Antoine, có lẽ vì cô thấy mình lu mờ do anh ấy chỉ nghĩ đến công việc: đôi khi anh như ở nơi nào khác đến nỗi cô tự hỏi liệu anh còn để ý đến cô, liệu còn có gì đó quan trọng đối với anh ngoài sách anh đang viết…

Cô ấy thốt lên những từ đó với một nỗi cay đắng rằng những năm tháng trôi qua vẫn không làm cô nguôi ngoai. Rồi cô im lặng một hồi lâu, cho tới khi cô bồi bàn tới dọn đĩa bánh của cô. Cô ấy đề nghị tôi đi dạo, vì vài tia nắng vừa mới xuyên qua lớp mây dày. Cô ấy đứng dậy và nói với tôi rằng cô sẽ dẫn tôi đi Sainte-Adresse, tới vọng lâu cửa sông Seine, nơi đó có thể nhìn thấy toàn cảnh thành phố Le Havre. Khi họ còn bên nhau, Sorel và cô rất thích đi tới đó. Từ khi họ chia tay, cô tránh nơi này. Cô chỉ quay lại dớ vào buổi sáng cô biết tin người không muốn cô trở thành mẹ đã tự tử. Cô vẫn chưa được làm mẹ, cô đã gặp những người đàn ông khác sau khi chia tay Antoine, nhưng cô không muốn có con với một ai, dù rằng họ không từ chối làm bố. Một khi cô và Sorel chia tay, cô quay về sống với bố mẹ mình, đã đi học trở lại và trở thành trợ lí xã hội, bởi vì do không có được với anh Antoine một đứa con trai sẽ được cô cưng chiều, cô tự hứa sẽ trở nên có ích với người khác. Cô thật sự là một người có ích? Cô thường đặt nghi vấn về điều ấy. Cô còn không có ích cho Antoine trong chín tháng cô sống chung với anh. Cô còn không phải là một trợ thủ tốt cho anh khi anh dường như đang gặp khó khăn, khi anh nhiều đêm không ngủ, mà cô thì không hiểu điều gì đang gặm nhấm anh. Trong những giây phút đó, anh hoàn toàn câm lặng. Không thể moi ở anh một điều gì. Và nếu như cô hỏi anh nhiều lần có gì không ổn, anh bỏ đi không trả lời và biệt tăm trong ba, bốn ngày liền. Vì anh chẳng nói với ai, thậm chí cũng không nói với Jean hay Claude, rằng anh đã gặp cô, cô không có một ai để hỏi thăm mỗi khi anh biến mất như vậy. Cô cứ tự hỏi vì sao anh không nói một lời về mối quan hệ của họ với các em trai của anh. Có thể vì cô còn quá trẻ hoặc vì anh chắc rằng giữa họ chi sẽ kéo dài vài tháng. Ngay bây giờ, khi cô nghĩ về chuyện này, cô vẫn cảm thấy khó chịu trong người, cô không tha thứ cho Sorel vì đã không xem cô là quan trọng trong cuộc đời của anh, đã không yêu cô nhiều nên chỉ xem cô không khác một người tình vụng trộm và sẽ không có tương lai. Chỉ có bố mẹ của cô hay biết chuyện này, nhưng họ chỉ thấy Antoine là một loại biến thái, chỉ lợi dụng cô khi cô còn quá trẻ, còn quá trong trắng. Dĩ nhiên họ đã kêu trời: “Nhưng chúng tôi đã làm gì hỡi trời ơi?” khi cô báo tin cho họ biết cô sẽ bỏ nhà đi và cô chỉ mơ ước được mãi bên cạnh anh Sorel, họ gọi anh là “một tên nhà văn thất bại”. Mà đó là - Marianne nói - họ còn chưa biết anh ấy nghiện rượu và không một đồng xu dính túi. Họ cũng không biết rằng cô có ý định đi trông trẻ cho một gia đình thượng lưu bởi vì từ ba năm nay anh Sorel không xuất bản được gì, cho nên không nhận được tiền nhuận bút và không kiếm ra gì khác để trả tiền thuê phòng cho hai người. Khi cô quay về sống trong ngôi nhà của bố mẹ cô, cô đã không thoát được những lời nói “Mẹ biết thế nào thằng khốn đó củng bỏ rơi con” và “Con đã nên nghe lời bố mẹ, bố mẹ biết rõ những loại người như thế.”

Cô nhớ rằng có một lần khi Antoine và cô cùng ngồi ở vọng lâu cửa sông Seine, cô ấy rất buồn vì cô cảm nhận được anh không còn yêu cô nữa - nhưng anh đã có khi nào yêu cô chưa? Cô tự hỏi và cho rằng bố mẹ đã đúng, theo họ anh chỉ muốn vui vẻ với một đứa con gái trong vài tuần, một đứa con gái ngốc nghếch tin vào tình yêu cháy bỏng. Cô rất buồn vì đã nhiều ngày họ đã không nói chuyện với nhau và đã nhiều tuần nay họ đã không còn âu yếm nhau khi ngủ. Cô sắp bước qua tuổi mười tám và cô thấy trước rằng giữa họ gần như đã chấm dứt. Cô có cảm giác như già đi, nhìn thấy viễn cảnh trước mặt cô là một cuộc sống với nhiều điều nuối tiếc. Cô lặp đi lặp lại: “Đừng quở trách tôi, tôi đang nước mắt đầm đìa”, đó là câu cô đã đọc được ở đâu đó. Nhưng không, cô cũng tự nhắc đi nhắc lại rằng, mình không được khóc, mình đủ mạnh mẽ để không ngã quỵ bởi vì nếu mình không chia tay Antoine, thì chính anh cũng sẽ sớm bỏ rơi mình. Ngày hôm đó cô đã không khóc, và những ngày sau đó cũng vậy. Cô đã hành xử như thể không có chuyện gì xảy ra và cô lặng lẽ chuẩn bị quay về nhà bố mẹ cô. Mọi thứ đều trôi theo dòng nước chỉ sau vài tháng và cô không thể giải thích vì sao Antoine lại xa rời cô nhanh như thế. Cuốn tiểu thuyết đã được viết xong, cô phải chấp nhận số phận: sẽ không có kết cục hạnh phúc.

Cô tự nhủ chắc vì cô còn quá trẻ và khá vụng về, đến nỗi Sorel đánh giá cô còn quá trẻ con. Cô thừa nhận: “Tôi muốn anh ấy thay vị trí của bố, bởi vì tôi luôn xấu hổ về người bố của mình, chẳng bao giờ động não và luôn lặp lại những gì ông nghe được trên đài phát thanh. Ông ấy không phải là một người khoan dung, bởi vì bố mẹ ông cũng như thế và ông bắt chước họ mọi thứ, không biết phân biệt phải trái. Ông ấy đã xem tôi là một con ngốc khi tôi đi học trở lại để trở thành trợ lí xã hội: tôi sẽ đối mặt với những người miệng đói nhăn, tôi sẽ phải tìm ra giải pháp để giúp đỡ họ, và tôi sẽ nhận được những đồng lương chết đói. Bố tôi mất cách đây một năm. Tôi thậm chí không buồn vì chuyện đó. Ông ấy là tất cả những gì tôi không muốn trở thành. Ông ấy còn tệ hơn cả mẹ tôi, giấc mơ của ông là sống những ngày cuối đời trong một ngôi nhà ngoại ô có vườn, nhưng chỉ trong những khu dân cư toàn người da trắng. Bố mẹ tôi không bao giờ có thể thuê được gì khác ngoài căn hộ của họ ở Montivilliers và họ tiếc đã không thể trồng hoa phong lữ, tổ chức những buổi nướng thịt ngoài trời, cắt cỏ và nói chuyện trời đông trời tây hay than phiền về sự suy thoái của xã hội hiện đại với những người hàng xóm là dân vùng Normandie tốt bụng.”

Khi Marianne gặp được Sorel ở tuổi mười bảy, đó như một cơ hội để cô có thể thoát khỏi thế giới ngột ngạt mà cô đã sống cho đến lúc đó. Cô ấn tượng - cô nói - về sự thông minh của Sorel, qua việc anh là nhà văn trong khi đó cô lớn lên trong một ngôi nhà không có sách gì, ngoài những cuốn dạy nấu nướng, cô tự nhủ nếu ở bên anh, cô sẽ học được nhiều thứ mà bố mẹ chưa từng dạy cô, nhờ vào anh ấy cô sẽ được mở rộng tầm mắt khám phá một thế giới mới. Đó là - cô nghĩ vào những tuần đầu tiên - một cơ hội hiếm có để quen anh ấy, bởi vì anh chẳng giống một người bạn nào của cô - thật ra, cô chỉ có hai người bạn, hai đứa con trai, chúng tự nói rằng chúng không phải là những đứa ngốc, nhưng cũng không được thông minh. Đó là - cô nghĩ vào những tuần đầu tiên - một cơ hội càng hiếm được sống với anh ấy, vì khi tiếp xúc với anh cô được nâng tầm hơn những gì bố cô đã nhét vào đầu mình. Cô chỉ là - cô nghĩ vào những tuần đầu tiên - một đứa trẻ chờ đợi một tình yêu cam chịu và một tình yêu cháy bỏng, và cô lập tức phải lòng anh Antoine. Thế nhưng nếu đó là tình yêu nồng cháy đối với cô, thì với Sorel đã có nhiều phụ nữ, đã từng có vợ và luôn xem công việc hơn tình cảm yêu đương. Sau đó ít lâu cô cũng được biết Isabelle mà anh đã ly dị cũng muốn có con với anh và đã không thể thuyết phục anh rằng tình phụ tử là một vinh quang của người đàn ông. Cô thấy thương hại cho Isabelle tội nghiệp đã phải chịu đựng nhiều, cô đã gần như có ý định viết thư cho Isabelle, để tâm sự với một người phụ nữ, như một người chị lớn trong nhà, người đã bị Sorel cự tuyệt quyền được làm mẹ và cơ hội được thăng hoa về tinh thần cũng như về thể xác…

Từ vọng lâu cửa sông Seine, Marianne và tôi đi về hướng bãi biển. Một số người đi dạo đang tận hưởng ánh nắng mặt trời của chiều muộn. Những gia đình, ngồi trên những chiếc ghế dài trong những quán cà phê vừa mở cửa cách đây không lâu, đang nhâm nhi những ly nước đủ màu. Marianne bước chầm chậm, đôi khi ngừng lại để đặt bàn tay cô lên tay của tôi khi cô muốn thu hút sự chú ý của tôi, nghĩ rằng tôi không chú tâm nghe cô. Cô hỏi tôi rằng tôi đã gặp Isabelle chưa và vì tôi nói chưa, cô lại hỏi tôi rằng người ta có nói cho tôi nghe về Judith Altmann không. Tôi chưa kịp trả lời, cô đã thủ thỉ với tôi: “Đó là mối tình lớn của Antoine.” Cô ấy nhớ cô đã đau khổ biết bao khi cô bắt gặp những bức thư của cô giáo dạy nhạc mà cô hình dung là một phụ nữ rất đẹp, đầy quyến rũ. Sorel lưu giữ những bức thư cô giáo ấy đã viết cho anh trong chiếc va-li cùng với những trang bản thảo của mình, nhưng anh không bao giờ nhắc đến Judith với bất là ai. Anh đã giữ im lặng về nhiều thứ, Marianne nói với vẻ thất vọng. Những tháng cô ở cùng anh ấy, cô vẫn nhớ như chỉ mới là ngày hôm qua, trong khi đó mười năm đã trôi qua và cô đã quen những người đàn ông khác sau đó, họ không làm cô quên được anh Antoine, dù chắc chắn họ yêu cô nhiều hơn anh ấy. Sau khi Sorel và cô chia tay, cô đã mong chờ từng ngày sách của anh, đó cũng là cách duy nhất để cô được ở bên cạnh anh. Cô thường lo lắng khi đọc những cuốn truyện của anh, u tối đến mức cô nghĩ rằng anh ấy thực sự đang rất tồi tệ. Cô đi rảo quanh các quán rượu mà anh thường lui tới, hy vọng sẽ bắt gặp anh, sau đó cô tự nhủ không nên quay lại với anh, phải chôn vùi quá khứ. Chừng nào anh còn xuất bản, chừng đó cô vẫn còn biết tin tức của anh, vì cô luôn đọc kĩ những gì anh viết và cố đoán tình trạng tinh thần của anh. Cô luôn xem anh như là một nhà văn không ai có thể sánh bằng, ngay khi cô chỉ mới mười bảy tuổi và cô không hiểu tất cả những gì anh viết. Cô thì thường đọc những tác giả của những thế kỉ trước và nuôi dưỡng nhiều thành kiến đối với những nhà văn đương đại, vào tuổi mười bảy, cô đã khám phá một người sáng tác vẫn còn sống và những câu chữ của anh như những cú đấm thẳng vào mặt, cô ấy nói và nhớ có lần cô vẫn còn là một cô bé gái và cô tìm trong sách một thứ gì đó khác thường. “Tôi không biết, cô nói bằng giọng đùng đục, tôi không biết Antoine có nhận thấy tôi có những mặc cảm so với anh ấy, đó là lí do tôi có ham muốn mành liệt được làm mẹ, tôi nghĩ rằng nếu tôi trở thành mẹ của con trai anh - vì dĩ nhiên tôi muốn có một đứa con trai - tôi sẽ không còn cảm giác thua kém, dù là một cô gái không có học vấn cao và không sắc sảo. Trong gia đình của bố mẹ tôi chẳng có một ai giống anh ấy. Anh có một thứ gì đó đặc biệt. Tôi không nói điều này vì anh là một nghệ sĩ và người ta thường nói như thế về những người nghệ sĩ khi họ không biết phải tô vẽ họ ra sao. Tôi nói điều này vì thật ra sau những năm tháng đó, khi tôi nghĩ về anh, tôi luôn có cảm giác xa lạ như thể tôi không hiểu một phần của anh ấy, như thể anh ấy luôn là một ẩn số dưới mắt tôi. Anh ấy là một người hoàn toàn không thể nắm bắt. Ngay giờ đây, tôi vẫn còn cảm giác ấy khi tôi nhớ về những tháng ngày tôi sống bên cạnh anh, những lúc tôi cảm thấy cô đơn, những lúc anh không nói một lời trong nhiều ngày liền, mặc dù không cãi nhau. Cuối cùng, khi anh im lặng như vậy, tôi thực sự phải kiềm chế, nếu không tôi đã nổ tung. Tôi hét lớn, rằng anh cố tình im lặng để thử thách tôi, để xem tôi có thể chịu đựng được sự im lặng của anh trong bao lâu. Đừng quên tôi thuộc loại người mau miệng, tôi không uốn lưỡi bảy lần trước khi nói, thông thường sau đó tôi hối tiếc vì đã không ngồi im lặng, tôi thấy những phụ nữ khép kín vô cùng bí ẩn, nhưng tôi không thuộc loại người giữ suy nghĩ cho riêng mình, dù đó là niềm vui hay nỗi buồn.”

Cô không giận dữ nhưng lo lắng mỗi khi trở về nhà, cô thấy anh nằm dài trên nệm và anh không trả lời những câu hỏi của cô. Sự im lặng làm cô khó thở, thế là cô kể đủ chuyện trên trời để căn phòng của họ đầy ắp giọng của cô, và hy vọng Sorel sẽ nói chuyện với cô. Nhưng hình như anh đã thề chỉ nói một, hai từ vào đêm hôm đó. Và nếu anh càng im lặng thì cô càng có khuynh hướng nói tất cả những gì cô nghĩ. Anh để cô độc thoại, nhất là lúc nào cô cũng nói đến một chủ đề duy nhất: đứa trẻ cô muốn sinh cho anh. Cô van nài vô ích, anh có vẻ không nghe và đang ở đâu đó, đến mức đôi khi cô phải hét lớn để nhắc anh rằng cô đang ở đó. Nhưng mỗi khi cô hét lớn như thế, cô chẳng nhận được gì từ anh, anh chỉ ngồi nhìn cô với một vẻ ngạc nhiên và không tán thành. Như thể anh muốn cho cô ấy biết cô là một người thiếu giáo dục. Cô gần như muốn vỡ òa trách móc và cư xử như một đứa trẻ được nuông chiều khi không nhận được điều mình muốn. Cô hét lớn rằng cô chán ngấy phải lo cho những đứa trẻ của những người khác, rằng hoặc cô có con với anh hoặc cô sẽ dọn đi nơi khác. Bây giờ khi cô nghĩ về những lúc cãi nhau như thế, cô hối hận đã trở thành một người khó chịu như vậy và đã liên tục dằn vặt Sorel khi nghĩ rằng rồi một ngày anh có thể hình dung ra cô đang sinh một đứa con kháu khỉnh mà không cảm thấy ghê tởm. Cô không biết hai người sẽ kiếm ra tiền như thế nào để nuôi dạy đứa con dễ thương này, nhưng khi cô càng cảm thấy anh ghét trở thành bố, cô càng cảm thấy muốn, rất muốn được mang thai và có một cái bụng tròn với bàn tay của anh đặt trên đó - vì cô chắc rằng cô sẽ chữa được bệnh chán ghét của anh và anh sẽ vô cùng ngạc nhiên khi thấy anh và cô đã tạo ra một sinh linh bé nhỏ sớm được chào đời.

Cô đã không chia tay với Sorel chỉ vì anh không muốn trở thành bố, nhưng bởi vì sau chín tháng sống chung với anh, cô có cảm giác là một người hoàn toàn tầm thường, muốn những điều ai cũng muốn. Từ đó, cô đã có ý nghĩ không làm khác người, nhưng sẽ giúp đỡ những người khác, hàng ngày giải quyết vấn đề của họ, điều này đã làm cô bớt đau khổ khi cô tự nói cô cũng không nổi bật hơn so với số đông. Cô thích công việc của mình, cô sẽ không đánh đổi vì bất cứ điều gì, ngay khi cô bị những người đến gặp chửi rủa, vì họ khốn khổ đến mức họ trút hết lên người cô. Lúc đầu, đôi khi cô chờ đợi thấy Sorel đến nơi cô làm việc, xin trợ giúp vì anh không còn tiền để sống. Cô tưởng tượng ra một cảnh phim, hình dung anh đang nài nỉ cô để được trợ cấp xã hội, một người như anh chưa bao giờ đi xin những đồng tiền bố thí của nhà nước, cô hình dung anh ngồi xuống trước mặt cô trình bày việc xin xỏ của anh với một giọng không thể nghe được, và dĩ nhiên, cô sẽ giải thích cho anh phải làm như thế nào để nhận được trợ cấp, cô cũng sẽ cho anh thấy, bằng thái độ của mình, bằng một sự cao thượng, cô đã trưởng thành và cô không còn giận anh vì những chuyện đã xảy ra trước đây. Nhưng dĩ nhiên, Sorel đã không bao giờ đẩy cánh cửa phòng làm việc của cô, cô thậm chí cũng không bắt gặp anh trên đường phố Le Havre: anh sống vào ban đêm, khi cô đang ngủ, ban ngày anh giam mình ở nhà, và dù sao chắc anh cũng đang sống ở ngoại ô, cô thì làm việc trong một khu phố nằm gần trung tâm, họ ít có cơ may gặp nhau, thậm chí ở gần Tòa thị chính.

Do bước đi chậm nên Marianne và tôi đã làm nhiều vòng trên bãi biển. Cô sôi nổi nói chuyện và cô luôn mỉm cười, như thể không nên bi kịch hóa những điều cô đang nói, vì cô không muốn tôi xem cô là một người yêu không quên được sự thất bại của mình và cả tuổi xuân mang dấu ấn của sự thất vọng khi cô không thể có con với người đàn ông được xem là “tình yêu của đời cô”. Với một vẻ dửng dưng giả tạo, cô khẳng định rằng cô không còn buồn về kết cục đó.

Ngay sau khi lắng nghe Marianne Monicelli trong nhiều giờ liền, tôi vẫn không biết có phải cô không còn giận Sorel đã không yêu cô thật lòng mười năm trước, hay có phải cô muốn gặp tôi chỉ vì cô vẫn còn đau khổ về cuộc tình thất bại. Đúng là cô không đợi tôi chỉ trích Sorel qua việc miêu tả anh như một con quỷ lạnh lùng, một người không biết ý nghĩa về “da thịt của chính mình” và cho rằng hai người phụ nữ mà anh từng quen vào một giai đoạn nào đó đã hoàn toàn hành hạ anh khi mỗi ngày nói lên mong muốn làm mẹ của họ.

Tôi ngạc nhiên khi thấy anh lại yêu một cô gái quá trẻ khi anh gần ba mươi lăm tuổi, tôi cứ nghĩ anh thích làm bạn với những phụ nữ có tuổi, với họ anh có thể có một mối quan hệ bình đẳng. Tôi hiểu rõ vì sao anh quý Judith Altmann hoặc Vicky, vì cả hai - tôi nghĩ thế - đều đã có ít nhiều kinh nghiệm sống. Nếu ở vị thế của anh ấy, tôi cũng sẽ không rời xa Judith nửa bước, vì cách đây hai mươi năm cô hẳn đã quyến rũ rất nhiều đàn ông. Còn Marianne không còn là một cô bé sẵn sàng, như cô nói với Sorel, sống một mối tình dài và thấy mình sẽ sống đến già bên cạnh Antoine như cô Natasha trong Chiến tranh và Hòa bình bên cạnh Pierre Bezoukhov: như một phu nhân ngồi giữa những đứa trẻ. Sau khi quen Sorel, cô thường xuyên chia tay với các mối quan hệ mà không thật sự có lí do, cô ấy nói với tôi như thế, và cô chuẩn bị bước vào tuổi già mà không có người bạn đời để thực hiện ước mơ “lập gia đình” của mình. Kỷ niệm với Antoine hẳn còn sâu đậm để cô có thể thực hiện những ước mơ của mình, hơn nữa, cô thì thầm, cô tự nhủ hẳn anh ấy có lí khi từ chối không có con. Trong công việc của mình, cô gặp mỗi ngày những bà mẹ thất vọng về con và tự trách bản thân đã không đủ chín chắn, trong khi đó họ lẽ ra nên tự hỏi có nên sinh ra chúng không. Ở phòng làm việc của cô, cô gặp hàng ngày những ông bố làm cô nhớ đến bố của mình, vì họ cũng là những ông bố tồi, họ đến than phiền con trai của họ, hoặc chúng là những đứa ăn bám không thể thoát khỏi số phận nếu không có trợ cấp xã hội, hoặc chúng là những đứa gieo nỗi kinh hoàng trong những khu phố, chúng buôn bán và chơi mã tấu. Cô luôn mãi nghe lải nhải câu: “Sao Chúa lại bắt tôi phải gánh chịu những đứa con như thế?” hay “Tại sao tôi không sống một mình? Phải vậy thì giờ đây tôi có thể được yên thân.”

Trong phòng làm việc của cô, mà một số đồng nghiệp gọi là phòng than thở, cô tiếp đón mỗi ngày những ông bố, bà mẹ vô cùng sầu não vì không thể dạy dỗ con mình. Họ không có tiền để mua cho chúng những gì chúng muốn khi chúng còn nhỏ, và bây giờ chúng đã trưởng thành, chúng lầm đường lạc lối mà không ai biết phải làm gì để đưa chúng vào con đường chính nghĩa. Một số đồng nghiệp khác, không bỏ nhiều công sức như cô, khuyên cô không nên để quá nhiều tình cảm vào trong các hồ sơ mà cô theo dõi, vì cô không thể bỏ ngoài tai những lời than phiền đến từ muôn nơi, cô mất ngủ, và ăn cũng không ngon. Họ khuyên cô chỉ nên làm đúng tám tiếng mỗi ngày và khi về nhà, cô hãy quên đi những hồ sơ cô phải xử lí, nếu không, cô sẽ kiệt sức. Lúc đầu, những lời nói đó làm cô phẫn nộ. Nhưng từ khi cô làm công việc này đã được sáu năm, cô bắt đầu cứng rắn hơn, không còn mất ngủ vào những lần cô không tìm thấy giải pháp cho những trường hợp vô vọng và không còn nghĩ rằng trong lúc cô cố gắng giải quyết những khó khăn của một người bị bỏ rơi, một phụ nữ trẻ như cô trong một văn phòng xã hội khác cũng đang cố giúp đỡ anh Sorel, đang xuống tinh thần và có lẽ cô đơn không còn ai để có thể cầu cạnh. Cô thường xuyên tự nhủ nếu cô dùng mọi cách để giúp đỡ ai đó không còn gì và đã suy nghĩ rất lâu trước khi đến than thân trách phận trước mặt một người không quen biết, đâu đó trong một văn phòng xã hội khác, một phụ nữ trẻ như cô cũng không từ chối tiếp nhận đơn xin của anh Sorel nếu anh đến gõ cửa phòng làm việc của cô ấy để xin trợ cấp.

Cô vẫn hy vọng, nếu sách của anh được xuất bản, anh sẽ thành công rực rỡ, điều này sẽ giúp anh không phải lo lắng về tiền bạc. Nhưng cô cũng biết Sorel sẽ không làm gì để nâng cao bản thân. Chính cô khá ngây thơ để nghĩ rằng nếu anh không còn lo lắng về tiền bạc, anh sẽ khá hơn, nếu anh được mọi người công nhận, anh sẽ vô cùng thỏa mãn về chính bản thân và sẽ không còn gì quan trọng hơn đối với anh. Chính cô có những suy nghĩ quá đơn giản về một nhà văn, cho rằng anh phải tiến lên và cố gắng, mỗi khi xuất bản một cuốn sách, anh phải được thăng hạng cho đến khi anh chạm đến đỉnh cao. Cô nhớ anh ấy cười khinh khi cô mơ ước ngày anh sẽ là một nhà văn mà không ai không thể không đọc nếu không muốn mình lạc hậu, vì tên tuổi của anh sẽ là chiếc chìa khóa để bước vào những nhóm khép kín. “Đó là điều tôi mơ tới - Marianne nói - Tôi không thấy phiền nếu vì đó là mốt hay vì hiểu lầm mà anh Antoine được mọi người quan tâm. Trong vài tháng sống chung, anh đã xuất bản một cuốn sách. Tôi nhớ cuốn sách đó không phải ai cũng có thể đọc được, nhưng tôi đã đi nhà thờ để cầu nguyện, trong hy vọng anh sẽ có nhiều độc giả hâm mộ. Tôi nghĩ nếu tôi tiếp tục sống với Antoine, tôi sẽ trở thành một con chiên ngoan đạo, bởi vì tôi sẽ khẩn cầu tất cả các thánh để sách của anh được nhiều người đọc. Có lẽ đó là điều đã khác nhau giữa hai chúng tôi: tôi muốn bằng mọi giá sách của anh phải được nhiều người đọc trong khi đó anh không quan tâm đến việc anh thành công hay không. Lỗi của tôi ở đây là tôi chỉ mới mười bảy tuổi. Và tôi đã hãnh diện đã chia sẻ cuộc sống với một nhà văn. Giá như - tôi tự nhủ - anh có thể nổi tiếng mọi nơi!”

Sau khi nói những từ này, Marianne ngừng lại trước một quán cà phê và đề nghị vào ngồi nghỉ, vì cô nói, cô mệt sau khi đi dạo một đoạn đường dài. Cô buông mình ngồi xuống một chiếc ghế dài, và nói với một anh bồi bàn đang tiến lại gần chúng tôi, mang cho cô một chai nước suối có ga. Trời nóng bức và cô nói nhiều đến mức cô khát khô, cô vẫn nói và nhìn về hướng tôi, một gương mặt rạng ngời với nụ cười - theo tôi - sẽ làm cho những người gặp khó khăn trong cuộc sống khi đến phòng làm việc của cô để xin trợ cấp phải thật lịch sự và không được cao giọng ngay khi cô không có phương án nào để có thể giúp họ. Cô vừa uống nước vừa lấy từ trong giỏ sách một cái gì đó giống đồ chặn giấy. Đó là một viên đá do những người bộ tộc trên nước Úc vẽ mà Sorel đã tặng cho cô vào lần đầu tiên họ gặp nhau. Cô luôn mang nó trong túi xách vì cô nói rằng một món quà như thế, do Sorel tặng, là một vật mang lại hạnh phúc. Như một kỉ niệm về những tháng ngày cô đã trải qua bên cạnh anh Antoine, cô chỉ giữ một vài cuốn sách trong đó có phiên bản đẹp của cuốn Lãnh tụ dị giáo và những người đồng hành[103], cùng với viên đá này, Cô biết rằng cô sẽ không rời xa nó cho đến ngày chết, và nếu cô có con, cô sẽ để lại cho các con và căn dặn chúng không được vứt bỏ nó, bởi vì nó còn hơn một tấm bùa, đó là một kỉ vật về thời tuổi trẻ của cô. Cô sẽ nhấn mạnh để chúng lưu giữ viên đá trong nhiều năm, cho dù nó không có một giá trị gì. Cô sẽ không nói cho chúng biết ai đã tặng cô viên đá này, cô không nói đến tên Sorel, không ai trong gia đình, giả sử một ngày nào đó cô cưới và có con, nghe thấy cô kể lại chín tháng mà cô đã sống với người mãi được xem là nhà văn yêu thích nhất của cô. Cô ấy còn nhớ vào thời gian đó cô thích thơ thẩn trong các tiệm sách để xem sách của Antoine có chất thành chồng không. Cô thường xuyên thất vọng, bởi vì chỉ có một hoặc hai cuốn tiểu thuyết mới xuất bản nằm vứt trong một xó, và cô luôn muốn đến gặp người bán sách để nói rằng người đó chẳng biết thưởng thức, rằng ở trong tiệm này những cuốn sách dở chiếm chỗ của những cuốn kinh điển trong tương lai. Ngay sau khi chia tay với Antoine, khi cô đi vào trong một tiệm sách, ở Le Havre hoặc một nơi khác, việc đầu tiên cô làm, đó là nhìn xem những tác phẩm của anh có nằm ở vị trí tốt không. Cô không đánh mất thói quen của một độc giả hâm mộ, và nếu cô không tâm sự với ai về việc Sorel đã yêu cô theo cách của anh, giữ khoảng cách và mâu thuẫn, cô vẫn luôn ca ngợi mỗi khi cô có cơ hội nói về những cuốn sách của anh và khuyến khích những ai xin cô một lời khuyên về sách, tìm đọc ngay những tác phẩm của anh, bởi vì, cô nói với họ, khi đọc những cuốn sách đó, họ sẽ đắm mình vào trong một thế giới đối lập và khi họ buớc ra ngoài trở lại họ sẽ hoàn toàn thay đổi. Ngay chính cô cũng đã phải mất nhiều thời gian để nhận ra rằng từ ngữ của Sorel tác động rất mạnh lên cô, theo năm tháng, cô thấy rằng những cuốn sách của anh đã đưa cô vào trong một cuộc phiêu lưu khám phá và đã có những chuyển biến trong con người của cô: cô không hẳn khôn ra nhưng cô đã biết bỏ qua những gì giày vò người khác, chạy theo những dối trá lừa lọc.

Cô uống hết chai nước, ra hiệu cho người phục vụ mang thêm một chai và hỏi tôi khi nào tôi quay về Paris. Tôi trả lời rằng tôi còn đang suy nghĩ có nên ở lại Le Havre thêm hai, ba ngày nữa không, vì thời tiết cũng dễ chịu và tôi dự tính đi dạo đâu đó chụp ảnh vài nơi trong thành phố. Cô ấy hỏi tôi rằng tôi đã phỏng vấn bố mẹ anh Sorel chưa. Tôi cho cô ấy biết rằng mẹ anh đã mất nhưng bố anh đã gặp tôi, dù trong lòng không muốn. Cô ấy muốn biết ông Trần là người như thế nào, ông ấy có thật sự hiểu con trai của mình. Tôi không nói cho cô ấy biết buổi nói chuyện với ông ấy như một cực hình. Hẳn cô cũng đoán được khi thấy tôi bĩu môi dù không muốn. Đã nhiều lần cô muốn gọi điện cho ông ấy, không phải để nói cô là ai, mà chỉ muốn lắng nghe giọng của ông ấy, mà cô nghĩ rằng chắc cũng giống giọng của Antoine. Nhưng người cô thật sự muốn biết, đó là ông nội từ Việt Nam sang Pháp vào tuổi mười tám và đã không sống lâu để thấy cháu trai của mình trở thành nhà văn, trong khi đó chính ông cũng sẽ mãi mù chữ nếu không có những lớp học của những người bạn Trốt-xki của ông.

Một cơn gió nhẹ thổi qua và bầu trời, vào lúc trưa vẫn còn trong xanh, bỗng nhiên đầy mây. Marianne nói rằng ở thành phố Le Havre là như thế đó, hiếm khi có những ngày đẹp trời vào tháng Sáu. Mưa, dông kéo tới rất nhanh vào mùa hạ. Cô cũng quen rồi, và dù gì cô cũng thích những ngày không quá nắng, vì cô không chịu được trời nóng và cô có một làn da của người tóc đỏ hung, một làn da rất nhạy cảm, nên cô không bao giờ đi tắm nắng. Vừa vuốt tóc vừa yêu cầu cậu bồi bàn một lát chanh cô bắt đầu nói về những người đến chỗ cô làm việc và xem đó là phòng xưng tội hoặc nơi làm việc của nhà phân tâm học. Cô thường xuyên cảm thấy bất lực khi họ van xin cô giúp họ thoát khỏi cuộc sống khó khăn mà họ đang gặp phải. Cô không thể giúp được gì đối với phân nửa các trường hợp cô tiếp nhận, cô chỉ biết lắng nghe. Cô hẳn có cái để có thể viết ra một cuốn tiểu thuyết dày cộp nếu cô ghi chép lại những gì cô nghe được từ khi cô bắt đầu làm việc trợ lí xã hội. Lúc đầu cô rất hãnh diện về việc cô là một người cần thiết. Cô không ghen tị với những ai kiếm được nhiều tiền hơn cô, hay những ai có một địa vị cao hơn cô trong xã hội. Cô tự nhắc bản thân mình rằng cuộc sống của họ có thể rất buồn tẻ, nhưng cuộc sống của cô thì có ý nghĩa. Và cô biết rằng những năm sau đó cô sẽ không chọn cho mình một nghề khác, cô sẽ hoàn thành nghĩa vụ của mình với tinh thần trách nhiệm cao…

Khi tôi đến quán Mây trong tách trà, cô ấy có vẻ hơi e sợ, có lẽ bởi vì dù cô nhận thấy một số bài báo của tôi “mạnh mẽ”, tôi cũng chỉ là một tên nhà báo, có nghĩa là một tên không nên quá thân thiện, hơi quá tò mò về những chuyện không liên quan đến mình, tóm lại một tên nên dè chừng khi gặp, bởi vì nếu chúng ta không cẩn thận về những gì sẽ kể, thì ngày hôm sau cuộc sống riêng tư của chúng ta sẽ đầy các trang báo hoặc xuất hiện trong một cuốn sách. Lúc đầu, chắc chắn cô nghĩ rằng cô không nên quá chân chất, huỵch toẹt tất những suy nghĩ của mình, như cô thường hay làm như thế. Nhưng đối với cô không thể đi ngược lại với bản chất của mình, và rất nhanh cô không để ý đến việc phải chọn lựa từ ngữ của mình, thậm chí cô cảm thấy sung sướng khi có ai đó để cô có thể nói về Sorel, vì cho tới lúc này, chưa ai được nghe những lời tâm sự của cô. Sau nhiều giờ nói về những kỉ niệm xưa, cô thực sự có cảm giác được giải tỏa, và cô cám ơn tôi đã giúp cô ấy nói về những chuyện quá khứ. Cô vẫn chưa quá già để bám víu vô vọng vào những kỉ niệm mà cô đã đánh mất. Cô chỉ mong muốn tôi hiểu cô đã ngưỡng mộ và yêu anh Sorel đến như thế nào. Từ khi họ chia tay, cô đã không cố đi tìm lại gì đó của anh ở những người đàn ông mà cô nghĩ rằng mình yêu. Và khi cô nghĩ về anh, cô không hối tiếc khoảng thời gian chín tháng mà cô đã làm anh khó sống vì đã bắt anh chọn lựa: hoặc họ có con với nhau hoặc cô sẽ bỏ mặc anh với số phận. Chắc là có rất nhiều phụ nữ đã buộc chồng của mình phải đưa ra quyết định tối hậu như thế. Nhưng những người phụ nữ đó không ở tuổi mười bảy như cô. Cô rất giận với chính bản thân mình những năm sau đó, khi cô bắt đầu chín chắn hơn để không tìm cách dọa nạt như vậy. Dù gì từ sau khi quen Sorel, cô không còn bị dằn vặt bởi ham muốn có con, vì cô tự nhủ rằng một đứa con trai của anh cũng sẽ là một nhà văn, và sẽ may mắn hơn, vì nó sẽ nhanh chóng có tên tuổi và sách của nó sẽ thu hút rất nhiều độc giả. Bố của nó đã mở đường và nó sẽ là một wonder boy[104]. Cô sẽ thật sự hạnh phúc nếu cô sống tuổi già của mình với một nhà văn được vài người ca ngợi là một nhà văn nghiêm túc và với một thần đồng văn chương đi từ thành công này đến thành công khác. Cô ấy nói, thật ngốc khi nghĩ rằng con trai của Sorel chắc chắn sẽ có tư chất nghệ sĩ. Nhưng không ai có thể làm cô thay đổi suy nghĩ đó. Cô tin chắc rằng con của họ sẽ là một tiểu thuyết gia tuyệt vời, được số đông yêu thích. Cô sẽ dành cả cuộc đời mình cho hai người đàn ông đặc biệt này, và những điều kì diệu họ làm sẽ lan tỏa sang cô. Nhưng thế đó, Sorel đã không thực hiện mơ ước của cô. Giấc mơ của cô tan biến, cô đã trách phạt Antoine bằng cách rời xa anh cho đến một ngày khi nhận thấy rằng anh sẽ không bao giờ thực hiện những lời cầu xin của cô, nên cô đã quyết định trừng phạt anh bằng cách chia tay với anh.

Trời ngày càng nhiều mây báo hiệu sẽ có dông. Bãi biển thưa dần những người đi dạo. Một vài đứa trẻ chơi ván trượt gần hồ bơi. Marianne và tôi rời quán cà phê và đi về phía bến cảng thuyền buồm. Cô vẫn không ngừng nhắc với tôi rằng cô ý thức mình không phải là một người đặc biệt: là một người nói nhiều, cô luôn gặp khó khăn khi phải diễn đạt chính xác những gì cô cảm nhận. Cô đã đọc rất nhiều truyện tâm lý, nhưng cô không có khả năng tự phân tích tình cảm của chính mình. Chính vì thế những cuốn sách của Sorel đã gây nhiều ấn tượng với cô. Tất cả những nhân vật trong truyện của anh đều tự biết đánh giá những cảm nhận của chính bản thân. Nhưng anh không rơi vào cái gọi là chủ nghĩa tâm lý. Cô không quan tâm nhiều đến các nhà văn đương thời nhưng đã mười năm nay vào mỗi mùa sách cô luôn tự hỏi liệu sẽ có thêm một cuốn tiểu thuyết mới của Antoine, và nếu như có, cô sẽ chạy đi mua ngay, nhưng đọc từ từ, kéo dài niềm vui thích tận hưởng từng câu chữ của anh và mơ màng thật lâu sau khi đọc xong một đoạn trong đó cô có cảm giác như tác giả đang muốn nói với mình cô. Vâng cô thường xuyên có cảm giác đó, rằng anh Sorel vẫn không quên cô và khi viết anh đã dành một phần để nhớ về cô. Cô không nhận ra mình trong bất kì nhân vật nào, nhưng cô chắc chắn rằng anh ấy hy vọng cô sẽ đọc mỗi khi anh bắt tay vào viết cuốn truyện mới. Một sợi dây bí ẩn kết nối hai người. Khi họ chia tay, cô đã tự hỏi hiện giờ anh sống ra sao. Cô không quên điều quan trọng nhất đối với anh đó là sách, những cuốn đã được xuất bản, hơn thế, những cuốn sẽ được ra mắt. Khi cô nghĩ về anh đang nghiêng mình trước cuốn vở, viết không ngừng nghỉ, cô hiểu ra rằng thật ra không một ai quan trọng đối với anh, chỉ có anh cho chính anh. Cô cũng hiểu ra rằng mối tình của họ không thể kéo dài lâu: vào thời đó cô không nhận thấy rằng anh đã phải đấu tranh với chính bản thân mình để đi xa hơn trong sự tìm kiếm cái làm anh trưởng thành, bởi vì mỗi lần là một chuyến du hành nội tâm sẽ làm anh biến đổi và anh sẽ bước ra tái sinh, đó là những điều cô tưởng. Có lẽ cô đã gặp anh quá sớm, khi cô chưa có khả năng chấp nhận rằng chắc có điều gì quan trọng với anh hơn là viết sách. Anh không tự phụ nhưng anh không đi tìm ở nơi khác con đường cứu rỗi cho chính mình. Theo thời gian điều đó ngày càng đúng - ngày từ lần xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên của anh, có lẽ anh không có một ý tưởng thần bí gì về nhiệm vụ của mình.

“Hoặc do tôi tưởng tượng ra mọi thứ, Marianne nói khi chúng tôi đang bước đi vội để đến chỗ đậu xe trước khi trời đổ mưa. Vâng từ khi tôi chia tay với anh Antoine, tôi thường xuyên suy nghĩ về điều gì quan trọng với anh, và tôi kết luận rằng chỉ những cuốn sách mới thật sự hiệu hữu đối với anh ấy. Ý tôi không phải muốn nói rằng anh trốn trong sự cự tuyệt, chạy trốn hiện thực, mà đúng hơn tôi muốn nói rằng sách của anh giúp anh tồn tại, bởi vì khi anh viết, anh đấu tranh chống chọi để không bị tiêu tan. Cuối cùng sách của anh đã không cứu được anh, bởi vì vào tuổi bốn mươi lăm anh đã quyết định không kéo dài thời gian anh sống trên thế gian này. Nhưng tôi tự hỏi nếu anh không bắt đầu viết những cuốn sách của anh lúc còn khá trẻ, liệu anh có tự hủy cuộc đời mình sớm hơn không. Cứ giả thuyết rằng anh giữ những trang sách viết của anh trong hộc tủ và không một nhà xuất bản nào muốn phát hành chúng, tôi chắc chắn rằng anh sẽ tiếp tục viết sách như anh đã viết, không sai một dấu chấm dấu phẩy.”

Sau khi nói xong, và trong lúc những hạt mưa đầu tiên làm ướt mặt đường, Marianne nói với tôi rằng tôi không cần chở cô ấy về nhà đâu, cô thích đi bộ về, cho dù cô sẽ bị ướt.

Cô đã nói quá nhiều và nếu tôi đi theo cô đến tận xe, cô sẽ không thể ngăn mình không tiếp tục nói. Cô bắt tay tôi và mỉm cười với nụ cười làm tan chảy những ai đã thấy cô đẹp với mái tóc rực rỡ và làn da rất mỏng, rất sáng, sau đó cô đi nhanh ra xa, như thể cô sợ nếu ở lại thêm một phút nữa cô sẽ tâm sự những điều cô sẽ lấy làm hối tiếc. Tôi dõi mắt nhìn theo cô, cho tới khi cô mất hút tại một góc đường, sau đó tôi đi nhanh về xe của tôi trước khi cơn dông ập đến. Tôi thay đổi ý định ở lại Le Havre thêm hai, ba ngày nữa, tôi lên đường và nghe đi nghe lại Joy pision, She’s Lost Control, và về tới Paris vào tối khuya.

* * *

Một số cũ của tạp chí La Planche de vivre của Damien Léger đang nằm đợi tôi trong hộp thư. Có một bài viết của Sorel về Akutagawa, mà anh chỉ đọc cuốn Cuộc đời của kẻ ngốc[105]. Tác giả người Nhật chỉ là cái cớ để nói đến hai nỗi ám ảnh: điên loạn và tự vẫn. Sorel chỉ mới hai mươi bảy tuổi, anh đã viết cuốn sách đầu tiên với một tiếng vang nhất định, hẳn lúc đó anh đã nghĩ đến việc tự hủy diệt. Tôi đã yêu cầu Léger gửi cho tôi số tạp chí đó, vì biết rằng Sorel đã đưa cho ông bài viết của mình vào lúc anh chuẩn bị rời Le Havre và anh ấy không ổn theo như em trai Jean có nói, bởi vì anh không còn một xu và rất có thể anh nhớ Judith, nhưng cũng bởi vì anh nghi ngờ về văn chương của chính mình. Vào thời gian đó, bà nội của anh, mà anh rất ít khi gặp, đã giao cho Jean cuốn vở của ông nội để lại cho các cháu và trong đó ông đã viết những gì ông nhớ về chuyến đi đang mang ông tới Pháp. Đọc cuốn vở này đã làm anh chao đảo, và như anh muốn nối lại với một phần của mình mà cho tới giờ anh hoàn toàn không biết, anh đã quay sang đọc những tác giả châu Á, Trung Quốc và Nhật Bản, thậm chí anh cũng tìm đọc những tuyệt phẩm kinh điển của văn chương Việt Nam, Kim Vân Kiều. Anh đã đặt nhiều câu hỏi về cội nguồn của anh ở một xứ sở cách xa nước Pháp và anh hẳn phải tìm hiểu nhiều để biết thêm về quê hương của ông nội. Câu chuyện của Diet Trần và những người đồng hành, bị cưỡng ép đưa sang Pháp và bị đối xử như nô lệ, đã tác động mạnh lên Sorel, anh đã giữ cuốn vở của ông mình, nói với Jean rằng như vậy anh luôn nào cũng có sẵn nó trong tay và đọc cho đến khi câu chuyện về những người đàn ông này sẽ làm anh luôn nhớ cần phải tự trọng vào những lúc anh sống quá buông thả và than thân trách phận.

Thế là anh lên kế hoạch đi khỏi Le Havre vì một người bạn trung học, tình cờ gặp trong một quán rượu, đã đề nghị anh đến làm việc cho chú mình, tại một nhà hàng ở Harfleur. Đó hẳn là một dịp tốt để đổi đời. Có quá nhiều kỉ niệm gắn bó anh với thành phố Le Havre, và từ khi anh không còn gặp lại Judith, thành phố với anh như một sa mạc. Anh uống ngày càng nhiều, anh ngày càng không chịu đựng chính bản thân mình, anh sống trong sự mâu thuẫn với chính mình: một mặt anh tự nhủ phải thực hiện những gì mình muốn, vì anh tự hứa sẽ quyết tâm theo đuổi con đường văn chương, mặt khác anh ngày càng cám thấy những việc đó liệu có ích gì. Đọc những tác giả như Akutagawa không thể giúp anh bình tâm như anh hy vọng. Anh có thật sự hy vọng điều này? Anh vẫn còn quá trẻ và quá sung sức để có thể nghĩ rằng bình an chính là cái chết.

Cuối cùng anh quyết định ở lại Le Havre như thể không có chuyện gì có thể làm anh rời xa thành phố. Em trai Jean của anh không biết giải thích tại sao, trong khi đó anh luôn có cơ hội, anh lại không đi nơi khác sống, cắt đứt với quá khứ, điều này hẳn sẽ tốt cho anh hơn. Nhưng Jean đã nói với tôi, Sorel luôn làm ngược lại với những gì cần làm và có lợi cho anh ấy. Lúc nào cũng vậy nếu có một điều gì đó hoặc một ai đó mang lại cho anh sự bình yên, anh lập tức tạo khoảng cách. Anh là người hủy hoại chính mình, Jean đã nói với tôi như thế, ông đã đếm không biết bao nhiêu lần anh tự rơi vào những tình huống bất khả, bởi vì anh không bao giờ thấy được điểm mạnh của mình ở đâu, và thêm vào đó, Jean lại nói tiếp, anh có tài làm mọi chuyện trở nên phức tạp, như khi anh sống với Isabelle và anh quay lưng với tất cả những người bạn của anh, những người lúc đầu luôn sẵn lòng vì anh.

Trong đống thư cũng có một lá thư của một người đã viết nặc danh và đe dọa sẽ bôi nhọ tiếng tăm của tôi với những nhà xuất bản nếu tôi tiếp tục cuộc tìm kiếm về Sorel, như theo bức thư ấy thì đó là người duy nhất đã giúp đỡ anh vào cuối đời. Người đó sẽ làm tất cả để ngăn tôi trở thành chuyên gia về các tác phẩm của Sorel và sẽ đi kể bất kì chuyện gì về một nhà văn có ác cảm với các nhà báo, nhất là những người yêu nghệ thuật kiểu như tôi, tin rằng có óc phê phán tuyệt vời và biết rõ điều gì nên để lại cho đời sau. Những nhà văn như Sorel, chống đối hệ thống, theo cách nói của người đó đã dùng bốn lần trong suốt bức thư, luôn là những nạn nhân của nh?