Chương 02
Tôi lặng lẽ lướt ra khỏi khu Manhattan. Trời lạnh dần, tuyết rơi càng lúc càng nặng hạt, những cơn gió lạnh tê tái tạt vào mặt lại rất phù hợp với tâm trạng của tôi lúc này. Tiệc tùng đã bắt đầu nổ ra trên đường phố, mọi người diện những trang phục thi đấu xanh đỏ, cùng hò reo đếm ngược. Tôi lặng nhìn hàng đợt người ùn ùn kéo qua phố. Xa xa, cả bốn mặt tiền của Tòa Empire State đều bừng sáng và chiếu lên những hình ảnh khổng lồ của giải đấu Warcross.
Nhớ lại hồi còn ở nhà tình thương, tôi hay leo lên nóc nhà và nhìn ngắm Tòa Empire State. Tôi ngồi hàng giờ, đu đưa đôi chân gầy guộc, ngắm nhìn những hình ảnh của Warcross xoay vần ở một mặt toà nhà, cho đến khi bình minh ló rạng và tôi lại được tắm mình trong ánh nắng vàng. Nhiều khi ngắm thật lâu, tôi mường tượng ra hình ảnh khổng lồ của bản thân trên toà nhà kia. Cho đến tận bây giờ, những cảm xúc phấn khích ấy vẫn vẹn nguyên trong tôi.
Tiếng bíp từ ván trượt điện tử kéo tôi ra khỏi mộng tưởng. Tôi nhìn xuống: chỉ còn một vạch pin. Thở dài ngao ngán, tôi giảm tốc độ rồi dừng hẳn lại, quăng ván trượt lên vai, lục tìm trong túi ít tiền lẻ và đi đến trạm tàu điện ngầm gần nhất.
Hoàng hôn đã phai mờ thành một màu xám xanh khi tôi về tới khu tập thể xập xệ Hunts Point ở khu Bronx, nơi tôi sinh sống. Đây chính là mặt trái của đô thành bóng bẩy. Một mặt tòa nhà chằng chịt những hình graffiti. Những chắn song rỉ sét che chắn toàn bộ cửa sổ tầng một. Trên bậc thềm nơi lối vào, rác thải chất thành đổng: cốc nhựa, vỏ hộp đồ ăn nhanh, chai bia vỡ, tất cả lấp ló dưới một lớp tuyết mỏng, ở đây không có những màn hình rực sáng, không có những chiếc xe sang chảnh phóng trên con đường nứt toác. Vai tôi trĩu xuống, còn chân thì nặng như cùm. Tôi còn chưa ăn tối, nhưng giờ thì tôi chẳng rõ mình đói hơn hay thèm ngủ hơn.
Ở đằng xa nơi cuối góc phố, một nhóm người vô gia cư đang trải chăn và dựng lều ở lối vào của một cửa hàng đã đóng cửa để lấy chỗ nằm qua đêm nay. Họ mặc những chiếc áo cũ xác xơ, lót thêm túi ni lông bên trong cho ấm. Tôi nghẹn ngào ngoảnh mặt đi, thoáng nghĩ rằng họ cũng từng là những đứa trẻ, và hẳn là đã có lúc họ từng được gia đình yêu thương và che chở. Điều gì đã khiến họ phải tới nông nỗi này? Nếu tôi ở vào tình cảnh của họ, trông tôi sẽ ra sao?
Cuối cùng, tôi cũng nhấc chân lên, bước tới bậc thang vào cửa chính, đi vào sảnh và tiến tới trước cửa phòng. Như mọi khi, trong sảnh bốc lên mùi hôi hám của nước tiểu mèo và thảm ẩm mốc. Qua những bức tường mỏng manh, tôi nghe được tiếng hàng xóm cãi nhau, tiếng TV ồn ào, cả tiếng một đứa trẻ đang gào khóc. Nhắm mắt lại, thả lỏng. Nếu may mắn, tôi sẽ không chạm mặt lão chủ nhà mặc áo ba lỗ, với khuôn mặt đỏ gay và người mướt mát mồ hôi. Ít nhất tôi có thể hưởng thụ một buổi tối yên bình trước khi phải đối mặt với lão vào sáng mai.
Một thông báo trục xuất mới đã được dán lên cửa phòng tôi, ngay chỗ tờ thông báo cũ tôi đã xé đi. Tôi liếc qua như muốn kiệt sức, rồi đọc lại lần nữa.
THÔNG BÁO TRỤC XUẤT NEW YORK
NGƯỜI THUÊ NHÀ: EMIKA CHEN THANH TOÁN TRONG 72 GIỜ HOẶC DỌN ĐỒ ĐI.
Lão có nhất thiết phải quay trở lại và dán thêm cái thông báo nữa không vậy? Cứ như là lão cần phải cho tất cả mọi người trong tòa nhà biết hay sao? Để sỉ nhục tôi thêm nữa à? Tôi xé tờ giấy khỏi cánh cửa, vò nát nó, rồi nhìn chằm chằm vào khoảng trống. Cảm giác tuyệt vọng quen thuộc dâng lên, nỗi sự hãi căng phồng trong lồng ngực đang đập thình thịch khi tôi nghĩ tới từng món nợ. Trong đầu tôi, những con số lại nhảy loạn lên: tiền nhà, tiền ăn uống, phí sinh hoạt, nợ nần.
Tôi đào đâu ra tiền trong ba ngày đây?
“Này!”
Tôi giật nảy mình. Alsole, lão chủ nhà, bước ra từ trong nhà và giận dữ tiến tới chỗ tôi. Đôi lông mày cau lại của lão y chang một con cá, bên trên là mái tóc màu cam chĩa ra tứ phía. Nhìn đôi mắt lão đỏ ngầu, tôi biết ngay lão già này lại vừa chơi một loại chất kích thích nào đó. Hay lắm. Lại cãi nhau. Tôi không thể chịu đựng thêm được nữa. Tôi mò mẫm tìm chìa khóa nhưng đã quá trễ, nên đành đứng thẳng vai và ngửa cằm lên.
“Chào, ông Alsole.” Tôi cố tình phát âm tên lão thành asshole .
Lão quát lên: “Mày tránh mặt tao cả tuần rồi đấy!”
“Tôi không cố ý mà,” Tôi khăng khăng. “Hiện tôi đang có việc chạy bàn ở một quán ăn vào buổi sáng và…”
“Giờ này còn ai thuê bồi bàn nữa?”, lão ta nheo mắt nhìn tôi đầy nghi ngờ.
“Chỗ này thì cần đấy, và đó là công việc duy nhất ở khu này. Chẳng còn việc khác nữa đâu.”
“Mày bảo sẽ trả tiền trong hôm nay cơ mà.”
“Tôi nhớ mình nói gì mà,” tôi hít một hơi thật sâu. “Tôi có thể đến gặp ông nói chuyện sau…”
“Tao cho mày nợ tiếp đấy à? Trả ngay đây. Thêm một trăm đô nữa.”
“Cái gì cơ?”
“Tháng này tiền thuê các phòng đều tăng. Mày không biết chỗ này là đất hot lắm à?”
“Thật không công bằng…” tôi nói, cơn giận trào lên. “Ông không thể cứ thích là tăng giá như vậy được!”
“Mày biết điều gì mới là không công bằng không?” Lão Alsole nheo mắt nhìn tôi, tay khoanh trước ngực. Cử chỉ đó làm những đốm đồi mồi trên da lão giãn to. “Là việc mày đang quịt tiền thuê nhà ở đây đấy.”
Tôi giơ hai tay lên. Máu tôi dồn lên má, nóng rực. “Tôi biết… Tôi chỉ…”
“Thế còn ngân phiếu? Mày có hơn năm ngàn ngân phiếu cơ mà?”
“Nếu có thì tôi đã trả cho ông rồi.”
“Vậy lấy cái khác ra mà trả.” Lão ta khục khặc. Ngón tay tròn lẳn, ngắn tũn như mẩu xúc xích của lão chỉ vào ván trượt của tôi. “Tao mà còn thấy nó lần nữa, tao sẽ đập nó ra cám. Bán đi, lấy tiền trả tao ngay.”
“Nó chỉ đáng 50 đô thôi!” Tôi bước dấn lên. “Nghe này, tôi sẽ làm mọi thứ, tôi thề, tôi hứa.” Tôi liến thoắng. “Xin hãy cho tôi thêm vài ngày nữa thôi.”
“Nghe này, nhãi con.” Lão giơ ra ba ngón tay, nhắc nhở tôi về số tháng tiền nhà tôi đang nợ. “Tao chán ngấy mấy trò thương hại rồi.” Lão nhìn tôi từ đầu đến chân. “Mày bao nhiêu tuổi rồi nhỉ, 18 rồi phải không?”
Tôi điếng người. “Phải.”
Lão nghiêng đầu về phía cuối sảnh. “Đến Rockstar Club mà xin việc. Mấy con bé ở đó chỉ cần nhảy nhót trên bàn cũng kiếm được 400 đô một đêm. Nếu khéo mày có thể kiếm được 500 cơ đấy. Và họ cũng chẳng màng đến tiền án, tiền sự của mày đâu.”
Tôi nheo mắt. “Ông nghĩ tôi chưa thử à? Phải đủ 21 tuổi.”
“Tao không quan tâm. Cho mày khất đến thứ Năm. Rõ chưa?” Lão cố ý nói to đến mức nước miếng văng đầy mặt tôi. “Và dọn dẹp đi, tao muốn căn hộ này bóng lộn.”
“Ngay từ đầu nó đâu có sạch sẽ gì!” Tôi hét lên. Nhưng lão đã quay lưng hùng hổ đi về phía cuối sảnh.
Tôi thở phào khi lão sập cửa phòng. Tim tôi đập thình thịch bên sườn, tay thì run bần bật.
Tôi nhớ lại hình ảnh của những người vô gia cư với đôi mắt vô hồn và đôi vai gầy guộc, rồi lại nhớ về những cô gái mà tôi thỉnh thoảng gặp ở Rockstar Club, người đầy mùi thuốc lá và mồ hôi, nồng nặc nước hoa, lớp trang điểm thì nhòe nhoẹt. Lời đe dọa của Alsole cũng là một lời cảnh tỉnh về tương lai của tôi nếu tôi không sớm gặp may, nếu tôi vẫn chần chừ không đưa ra những lựa chọn khó khăn.
Tôi cần tìm cách để khơi dậy lòng thương hại của lão. Xoa dịu lão ta. Cứ cho tôi thêm một tuần nữa thôi, tôi thề đấy, và tôi sẽ trả nửa số tiền cho ông, tôi hứa đấy. Tôi nhẩm những lời đó trong đầu khi tra chìa khóa vào ổ và mở cửa phòng.
Căn phòng tối om ngay cả khi có ánh đèn neon hắt vào từ bên ngoài cửa sổ. Tôi bật công tắc đèn, ném chìa khóa lên bàn bếp, còn cái thông báo trục xuất nhàu nát thì bay ngay vào thùng rác. Rồi tôi đứng yên nhìn quanh căn hộ.
Nó chỉ là một căn phòng chật hẹp, chất đầy đồ đạc, với những vết sơn nứt chạy dài trên tường. Một trong hai bóng điện của cái đèn trần duy nhất trong phòng đã cháy, bóng còn lại thì đang mờ dần và sẽ tắt ngóm nếu không ai thay. Cặp kính Warcross phiên bản cũ mà tôi thuê với giá rẻ đang nằm trên bàn ăn gấp. Hai thùng các tông chứa đầy đồ lặt vặt chồng lên nhau bên cạnh phòng bếp, hai tấm nệm nằm bên cạnh cửa sổ, một chiếc tivi cổ và một chiếc sô pha màu vàng mù tạt cũ rích chiếm toàn bộ phần không gian còn lại.
“Emi?”
Một giọng nói tậm tịt phát ra từ dưới tấm chăn trên sô pha. Bạn cùng phòng của tôi nhỏm dậy, xoa mặt và luồn tay qua mớ tóc vàng. Keira. Cô nàng đã thiếp đi khi vẫn đang đeo cặp kính Warcross, để lại một vết hằn mờ trên má và trán, cô ấy nhăn mũi. “Cậu lại đi cùng gã nào à?”
Tôi lắc đầu và trả lời. “Không, chỉ có mình tớ thôi, cậu đã trả một nửa tiền cho Alsole như đã hứa chưa?”.
“Ừ nhỉ?” Cô ấy lảng tránh ánh nhìn của tôi, thả chân xuống đất và với lấy gói khoai tây chiên đang ăn dở chì còn một nửa. “Tớ sẽ trả ông ấy vào cuối tuần này.”
“Cậu có biết là đến thứ Năm thì ổng sẽ tống cổ chúng mình đi không?”
“Có ai nói tớ biết đâu.”
Tay tôi siết chặt chiếc ghế ăn. Cô ấy ấy ở lì trong phòng cả ngày nên chưa nhìn thấy thông báo trục xuất trên cửa. Tôi hít một hơi sâu, dặn lòng rằng Keira cũng chưa tìm được việc. Sau gần một năm cố gắng, cô ấy bỏ cuộc và giờ chỉ cuộn tròn trong phòng, dành toàn bộ thời gian đắm mình vào thế giới Warcross hòng trốn chạy thực tại.
Tôi hiểu rõ cảm giác ấy chứ, nhưng tối nay tôi đã quá mệt mỏi để có thể thông cảm. Tôi tự hỏi đến khi chúng tôi phải ra vỉa hè đứng cạnh đống đồ đạc, liệu cô ấy có ngộ ra rằng chúng tôi sẽ phải sống vất vưởng ngoài phố như những người vô gia cư tôi vừa gặp khi trước không?
Tôi cởi bỏ khăn quàng và áo khoác, chỉ giữ trên người chiếc áo ba lỗ ưa thích, đi vào bếp và đun một ấm nước. Sau đó tôi đi thẳng tới chỗ hai tấm nệm dựng trên tường.
Keira và tôi ngăn cách giường bằng một tấm bình phong làm từ thùng các-tông cũ được dán băng dính. Tôi giữ cho bên của mình ấm cúng và sạch sẽ nhất có thể, trang trí không gian bằng những dây đèn đom đóm. Một tấm bản đồ Manhattan bọc trong đống giấy nháp được treo trên tường, cùng với những tấm bìa tạp chí có in hình Hideo Tanaka, một danh sách viết tay bảng xếp hạng người chơi Warcross nghiệp dư, và một món đồ trang trí Giáng sinh giữ lại được từ hồi bé. Tài sản có giá trị duy nhất của tôi là một trong những bức tranh cũ của bố, bức duy nhất tôi để lại và cất giữ cẩn thận bên dưới tấm nệm. Bức tranh bùng nổ với những mảng màu, lớp sơn dày và cộm lên như thể chúng vẫn còn đang ướt. Tôi từng giữ nhiều tranh bố vẽ, nhưng cứ mỗi khi quá túng quẫn, tôi lại phải bán chúng đi, làm sứt mẻ những kỉ niệm về ông chỉ để có thể tiếp tục tồn tại khi ông không còn ở đây lo lắng cho tôi.
Tôi ngồi phịch xuống tấm nệm, làm nó kêu lên kẽo kẹt. Trần nhà và tường tràn ngập màu xanh neon phản chiếu từ hàng bán rượu bên kia đường. Tôi nằm yên, lắng nghe tiếng còi báo động từ một nơi nào đó phía xa đang réo liên tục, ánh mắt tôi dừng lại ở một vệt nước bẩn trên trần nhà.
Nếu bố ở đây, có lẽ ông sẽ suốt ngày tất bật theo đúng kiểu giáo sư ngành thời trang, trộn sơn và rửa cọ trong mấy chiếc hũ. Cũng có thể ông sẽ nghiền ngẫm giáo trình cho kì học mùa xuân hoặc những kế hoạch tham gia Tuần lễ thời trang New York.
Tôi ngoảnh lại nhìn phần bên kia của căn hộ, tưởng tượng như ông đang ở đây - ông khi vẫn khỏe mạnh, không đau ốm, dáng người cao dong dỏng che đi ánh đèn ở gần lối cửa ra vào, mái tóc dày nhuộm màu xanh ánh lên trong bóng tối, bộ râu cắt tỉa gọn gàng, chiếc kính gọng đen làm khuôn mặt mơ mộng của ông trông thực tế hơn chút. Ông mặc một chiếc áo sơ mi đen và để lộ ra những hình xăm đầy màu sắc dọc khắp cánh tay phải, và vẻ ngoài của ông thật hoàn hảo - đôi giày bóng loáng và quần âu phẳng phiu - ngoại trừ những vết sơn lốm đốm trên tay và trên tóc.
Tôi tự cười với chính mình khi nhớ về lúc tôi đang ngồi vắt vẻo trên ghế, nhìn chằm chằm vào tấm gạc trên đầu gối trong khi bố tôi đang bôi những vệt màu nhuộm tạm thời lên tóc tôi. Nước mắt vẫn còn vương trên má khi tôi từ trường chạy về nhà, nức nở vì ai đó đã đẩy tôi ngã trong giờ ra chơi và làm rách chiếc quần jeans tôi thích nhất. Bố hay ngân nga hát khi làm việc. Sau khi hoàn thành tác phẩm trên tóc tôi, ông đưa gương cho tôi ngắm. Tôi há hốc mồm, sung sướng. Rất thần thái Givenchy, rất hợp xu hướng đấy, bố tôi tâm đắc, gõ nhẹ lên mũi tôi, còn tôi cười khúc khích. Nhất là khi buộc thế này này, thấy không? Ông túm tóc tôi lại thành kiểu đuôi ngựa cao. Đừng thích quá đấy nhé, mấy hôm nữa màu sẽ phai ra thôi. Nào, giờ bố con mình đi ăn pizza.
Bố thường nói rằng bộ đồng phục ở trường cũ của tôi như một cái nhọt trên bộ mặt của New York, ông vẫn luôn dặn tôi nên ăn mặc như thể thế giới là một nơi tốt đẹp hơn bản chất nó vốn có. Ông hay mua hoa mỗi khi trời mưa và bày chúng khắp nhà. Ông thường quên lau tay khi vẽ tranh, nên chỗ nào trong nhà cũng có những dấu vân tay đầy màu sắc. Ông rót chỗ tiền lương ít ỏi của mình vào quà tặng cho tôi, vào dụng cụ vẽ tranh, vào từ thiện, vào quần áo và rượu, ông cười rất nhiều, yêu rất nhanh và say rất tự do.
Và rồi, vào một buổi chiều năm tôi 11 tuổi, ông về nhà, ngồi sụp xuống ghế, ném vào khoảng không một cái nhìn trống rỗng, ông vừa đi khám bác sĩ. Sáu tháng sau, bố tôi qua đời.
Điều khủng khiếp mà cái chết gây ra là nó cắt qua mọi sợi dây kết nối giữa hiện tại và quá khứ được ta dày công tạo ra. Sợi dây ký ức về ngày tốt nghiệp khi bố đã trang trí hoa lên khắp nơi trong căn phòng kí túc xá của tôi. Khi ông thiết kế chiếc váy cưới cho tôi. Khi ông ghé qua ngôi nhà tương lai của tôi ăn tối vào mỗi Chủ Nhật, giọng hát vang vọng nhưng lệch tông của ông khiến bạn cười ra nước mắt. Tôi có hàng trăm sợi dây kỉ niệm như vậy, và rồi bỗng một ngày chúng trở thành nỗi đau. Cái chết của bố chẳng để lại được gì cho tôi ngoài những hóa đơn tiền thuốc và khoản nợ cờ bạc. Cái chết thậm chí còn không cho tôi nơi xả giận nữa. Tất cả những gì tôi có thể làm là ngửa mặt lên nhìn trời mây.
Sau khi bố mất, tôi bắt đầu ăn mặc như ông - hoang dại, tóc nhuộm chói lọi (những hộp thuốc nhuộm tóc là thứ duy nhất tôi sẵn sàng bỏ tiền ra mua) và một cánh tay đầy những hình xăm (người thợ xăm cũ của bố, vì thương hại, đã xăm cho tôi miễn phí).
Tôi nghiêng đầu, liếc nhìn những hình xăm đang cuộn dọc cánh tay trái, rồi vuốt lên chúng. Hình xăm bắt đầu từ cổ tay, kéo dài lên tận vai tôi, những sắc tươi sáng của màu xanh dương, ngọc lam, vàng và màu hồng của hoa mẫu đơn (loài hoa yêu thích của bố), cả những tòa nhà theo phong cách Escher nổi lên giữa làn sóng biển, những nốt nhạc, và những hành tinh trên nền vũ trụ - gợi nhắc ký ức về những buổi tối khi tôi và bố đi về vùng ngoại ô để ngắm sao. Cuối cùng, loạt hình xăm kết thúc bằng một dòng chữ mảnh mai chạy dọc xương đòn trái của tôi, câu thần chú tôi thường nghe bố nhắc đi nhắc lại, một câu thần chú tôi tự niệm mỗi khi mọi thứ trở nên quá nghiệt ngã.
Mọi cánh cửa khóa đều có chìa để mở.
Mọi vấn đề đều có cách giải quyết.
Mọi vấn đề đều có cách giải quyết, trừ cái vấn đề đã khiến bố tôi qua đời. Trừ cái vấn đề tôi đang gặp phải bây giờ. Suy nghĩ đó đủ để tôi thu mình lại, nhắm nghiền mắt và để bản thân chìm vào nơi tối tăm quen thuộc.
Âm thanh của ấm nước sôi vừa kịp đánh thức tôi khỏi những dòng suy nghĩ ấy. Ngồi dậy nào Emi , tôi tự nhủ.
Tôi lê mình khỏi giường, ra bếp, lục tìm một gói mì ăn liền. (Chi phí cho bữa tối: 1 đô). Đồ ăn của tôi giờ chỉ còn vỏn vẹn một hộp mì macaroni. Tôi liếc nhìn Keira, cô ấy vẫn đang ngồi trên ghế bành và dán mắt vào vô tuyến (vô tuyến đã qua sử dụng: 75 đô). Tôi thở dài, bóc gói mì và thả vắt mì vào nước.
Tiếng nhạc và tiệc tùng ồn ào phát ra từ một nơi nào đó trong tòa nhà, còn tất cả các kênh địa phương đang chiếu những chương trình liên quan đến buổi lễ khai mạc. Keira dừng ở một kênh đang chiếu những pha xử lí nổi bật trong cuộc thi năm ngoái, rồi cô ấy chuyển qua chương trình có năm nhà bình luận trận đấu ngồi trên tầng cao nhất của sân vận động Tokyo Dome, họ tranh luận sôi nổi xem đội nào sẽ vô địch và đưa ra lý do. Bên dưới họ là hình ảnh lờ mờ chìm trong ánh sáng xanh đỏ của năm mươi ngàn cổ động viên đang reo hò. Một cơn mưa hoa giấy vàng đổ ào xuống từ nóc sân vận động.
“Chúng ta có thể đồng tình với nhau rằng chưa bao giờ cả thế giới được chứng kiến danh sách những người chơi nắm suất đặc cách như trong giải năm nay!” một nhà phân tích phát biểu. Bên dưới quá ồn ào, đến độ cô ấy phải bịt một bên tai lại để có thề nghe rõ mình nói gì. “Một trong số họ đã nổi tiếng sẵn ở lĩnh vực khác rồi.”
“Đúng vậy!” nhà phân tích thứ hai reo lên, trong khi những người còn lại gật gù. Đoạn video về một chàng trai hiện ra ở phía sau họ. “DJ Ren từng là một trong những cái tên nóng nhất của giới nhạc underground tại Pháp, và giờ Warcross sẽ biến anh ấy thành một ngôi sao thực thụ.”
Khi các nhà phân tích tiếp tục tranh luận về những tuyển thủ mới của giải đấu năm nay, tôi cố nuốt cơn ghen tức vào trong. Mỗi năm, 50 tuyển thủ nghiệp dư, hay còn gọi là tuyền thủ đặc cách, được một ủy ban bí mật đề cử cho quá trình tuyển lựa. Họ đúng là những người may mắn nhất thế giới, còn tôi thì đã bị loại ngay từ vòng đề cử do hồ sơ phạm tội của mình.
“Và hãy nói thêm về mức độ nổi tiếng của trò chơi trong năm nay, các anh chị có nghĩ rằng chúng ta sẽ phá vài kỷ lục không?” nhà phân tích đầu tiên bình luận.
“Hình như đã phá kỷ lục rồi ấy chứ!” người thứ ba trả lời. “Năm ngoái, có đến ba trăm triệu người đã xem vòng chung kết. Ba trăm triệu người cơ đấy! Anh Tanaka hẳn đã rất tự hào.” Trong lúc anh ta nói, màn hình phía sau đã chuyển sang hình logo của hãng Henka Games, mở đầu cho một đoạn video về nhà sáng lập Warcross, Hideo Tanaka.
Trong đoạn phim, anh ấy mặc bộ âu phục hoàn hảo, khoác tay một người phụ nữ trẻ rời khỏi một buổi khiêu vũ từ thiện, chiếc áo ngoài của anh khoác hờ trên vai cô gái. Anh ấy quá thanh tao so với tuổi 21, và khi những ánh đèn nhấp nháy xung quanh anh, tôi phải nhướn lên một chút để nhìn cho rõ. Trong vài năm vừa rồi, Hideo đã hóa thần từ một thiếu niên thiên tài mảnh khảnh thành một người đàn ông lịch thiệp với ánh nhìn sắc sảo. Lịch thiệp là tính từ mọi người đều dùng khi nói về tính cách của anh ấy. Tuy vậy, mọi thứ về anh đều chỉ là tin đồn, không ai biết rõ gì trừ phi họ là những người thân cận. Nhưng không tuần nào trôi qua mà anh ấy không xuất hiện trên trang bìa một vài tờ báo lá cải, hẹn hò với người nổi tiếng này hay người đẹp kia, lọt tốp đầu của mọi danh sách họ có thể nghĩ ra. Trẻ nhất. Đẹp trai nhất. Giàu nhất. Xuất sắc nhất.
“Hãy cùng nhìn về phía các cổ động viên trong trận khai mạc tối nay!”, bình luận viên tiếp tục. Một con số hiện lên và tất cả đều vỗ tay phấn khích. Năm trăm hai mươi triệu người xem , đó mới chỉ là con sổ trong buổi lễ khai mạc. Giải đấu Warcross giờ đã chính thức trở thành sự kiện lớn nhất hành tinh.
Tôi đem nồi mì ra ghế, ăn trong vô thức khi cùng Keira theo dõi chương trình. Nào là những người hâm mộ đang nô nức tiến vào sân vận động Tokyo Dome, với khuôn mặt tô vẽ và tay cầm những tấm áp phích tự làm. Nào là những nhân viên hậu trường đang kiềm tra đường truyền tín hiệu. Nào là những đoạn phim tài liệu theo phong cách Olympics chiếu hình ảnh và video của từng tuyển thủ thi đấu tối nay. Sau đó là cảnh quay trong trò chơi: hai đội đang thi đấu trong thế giới ào vô tận của Warcross. Máy quay lướt qua những đám đông đang hò reo, sau đó là hình ảnh những tuyển thủ chuyên nghiệp đang đợi ở phòng riêng phía sau sân khấu, với nụ cười rạng rỡ và ánh mắt tràn đầy háo hức, họ vẫy chào khán giả.
Tôi không thể nén nổi cảm giác cay đắng dần dâng lên. Đáng ra, tôi cũng có thể ở đó và thể hiện mình như họ nếu tôi có đủ thời gian và tiền bạc để chơi Warcross cả ngày. Tôi biết chắc ấy chứ. Thay vào đó, tôi lại đang ở đây, ăn mì gói trong nồi, tự hỏi làm sao để sống sót cho đến khi có một cuộc săn khác được cảnh sát treo thưởng, còn một cuộc đời hoàn hảo sẽ ra sao nhỉ? Trở thành một ngôi sao được nhiều người yêu mến? có thể thanh toán hóa đơn đúng hạn và mua bất cứ thứ gì mình muốn?
“Phải làm gì đây, Em?” Keira phá tan sự im lặng giữa hai chúng tôi bằng giọng nói trống rỗng, cô ấy lần nào cũng hỏi tôi câu này mỗi khi chúng tôi rơi vào vòng nguy khốn, cứ như thể tôi là người duy nhất phải chịu trách nhiệm cứu vớt cả hai, nhưng tối nay tôi không sẵn lòng trả lời câu đó nên chỉ lặng thinh, dán mắt vào TV. Giờ trong người tôi chỉ còn đúng 13 đô la. Thời điểm tuyệt vọng nhất từ trước tới giờ trong đời tôi là đây.
Tôi ngả người ra ghế, để cho dòng suy nghĩ tuôn chảy. Tôi là một tin tặc có chút tài năng, nếu không muốn nói là giỏi, thế mà tôi vẫn thất nghiệp. Là do tôi quá trẻ ư? Hay do tôi có quá nhiều tội trạng? Ai mà muốn thuê một đứa bị kết án ăn cắp danh tính cơ chứ? Ai thèm mướn bạn sửa các thiết bị khi họ sợ rằng bạn sẽ ăn cắp thông tin đây? Đó là điều sẽ xảy ra khi bạn có bốn tháng trong trại giam vị thành niên không thể xóa bỏ, cùng với lệnh cấm sử dụng máy tính trong hai năm. Tất nhiên nó chẳng thể ngăn tôi lén sử dụng điện thoại và kính đã bị bẻ khóa, nhưng nó cản trở việc ứng tuyền những công việc thực tiễn mà tôi có thể làm tốt. Chúng tôi suýt nữa cồn không thuê được căn hộ này. Tất cả những việc tôi có thể làm cho đến bây giờ là thỉnh thoảng thực hiện một vụ săn tiền thưởng cho cảnh sát và làm bồi bàn bán thời gian - cái việc mà sớm muộn cũng biến mất ngay khi chủ nhà hàng mua được người máy phục vụ tự động, còn những công việc khác đều có yêu cầu là tôi phải tham gia băng nhóm hoặc đánh cắp cái gì đó.
Tôi chẳng biết nữa. có thể tôi sẽ phải đi nước đó.
Tôi hít một hơi sâu. “Tớ không biết. Chắc tớ phải bán nốt bức tranh cuối cùng của bố thôi.”
“Emi này,…” Keira định nói gì đó nhưng lại thôi, cô ấy biết việc đó chẳng giúp được gì. Kể cả khi vét sạch mọi thứ trong căn hộ, chúng tôi cùng lắm cũng chỉ có 500 đô. Số tiền đó không đủ để chúng tôi tránh được cảnh bị lão Alsole đuổi ra đường.
Một cơn buồn nôn quen thuộc lắng xuống trong bụng, tôi với tay mân mê hình xăm chạy dọc xương đòn. Mọi cánh cửa khóa đều có chìa đề mở. Nhưng nếu cái này không thể mở được thì sao? Sẽ ra sao nếu tôi không thể thoát được? Không đời nào tôi kiếm được đủ tiền trả nợ đúng hạn. Hết cách rồi. Tôi cưỡng lại nỗi sợ đang dâng lên, cố trấn an để không hoảng loạn, bắt bản thân phải thở đều. Mắt tôi rời khỏi TV và hướng ra cửa sổ.
Dẫu ở nơi đâu trong thành phố, tôi luôn nhớ rõ khu nhà tình thương nằm ở hướng nào. Nếu để bản thân tự do suy nghĩ, tôi có thể tưởng tượng căn hộ này biến mất vào trong hành lang tối tăm, chật chội với lớp giấy dán tường màu vàng đang bong tróc của khu nhà tình thương. Tôi có thể nhìn thấy lũ nhóc lớn hơn mình đang đuổi theo tôi xuống hành lang và đánh tôi chảy máu. Tôi có thể nhớ những vết rệp cắn. Tôi có thể cảm nhận được cú tát đau điếng của bà Devitt. Tôi có thể nghe thấy tiếng mình khóc thầm trên giường khi mong mỏi bổ sẽ đến cứu mình khỏi nơi đó. Tôi có thể cảm nhận tay mình bám lấy hàng rào sắt khi tôi trèo qua để chạy trốn.
Nghĩ đi, mày có thể giải quyết chuyện này mà. Một giọng nói nhỏ trong đầu tôi vang lên đầy bướng bỉnh. Đây không phải cuộc đời của mày, số phận của mày không gắn với nơi đây mãi mãi. Mày đâu phải là bố.
Trên TV, ánh sáng từ sân vận động Tokyo Dome cuối cùng cũng mờ dần. Tiếng hò reo đang dâng lên thành một tiếng gầm chói tai.
“Vâng, vậy là tiết mục mở màn lễ khai mạc Warcross đã kết thúc!”, một bình luận viên reo lên giọng khản đặc, rồi cùng những người khác giơ ngón tay chữ V làm dấu chiến thắng. “Các bạn cổ động viên đang xem từ nhà ơi, hãy đeo kính lên và cùng hòa mình vào sự kiện của năm nào!”
Keira đã đeo kính. Tôi cũng ra bàn ăn lấy kính của mình.
Một số người vẫn nói rằng Warcross chỉ là một trò chơi ngu ngốc, còn một số khác thì coi nó là một cuộc cách mạng. Nhưng đối với tôi và hàng triệu người khác, nó là lối thoát duy nhất để quên đi mọi phiền muộn. Tôi đã mất món tiền thưởng, lão chủ nhà sẽ đến kêu gào đòi tiền vào sáng mai, rồi tôi sẽ lại lết đến quán ăn, và tôi sẽ trở thành người vô gia cư trong vài ngày tới, không còn nơi nào để ở nữa… Nhưng đêm nay, tôi có thề đồng hành với những người khác khi đeo kính Warcross và chiêm ngưỡng sự màu nhiệm trước mắt.