← Quay lại trang sách

Chương 3

"Vậy là," ông nói tiếp, "có rất nhiều người trên quảng trường. Người ta thấy lạ, tại sao bỗng nhiên lại đông như vậy. Hôm nay có phải họp chợ phiên đâu. Cháu hãy hình dung ra những chiếc áo khoác màu nâu và màu xám của cánh đàn ông. Trên những tấm áo là thắt lưng, dưới lớp vải là những cái bụng đang đói. Lúc ấy sắp đến giữa trưa rồi. Người ta nhận ra những kẻ giàu có qua trang phục nhiều màu sắc và những đôi giày họ mang. Cháu hãy hình dung ra bầu không khí bụi bặm và tiếng cười của đám trẻ con, tiếng kêu của lũ lừa, tiếng rống của những con bò. Xen vào đó là tiếng cầu khẩn khàn khàn, lặp đi lặp lại của một người ăn mày van xin bố thí. Còn anh thợ săn râu quai nón đứng giữa đó và hỏi, ‘Trời ơi là trời, làm gì đến nông nỗi này chứ?’

"‘Lệnh bắt giam,’ gã lòng khòng nói. "‘Vì tội gì chứ, trời đất ạ…?’

"Gã nhợt nhạt cắt lời anh: ‘Tội khi quân, khinh nhờn chủ nhân tối thượng của chúng ta,’ hắn ré lên.

"Lời nói của tên lòng khòng sau đó bị lẫn vào tiếng ồn ào của đám đông, không còn nghe nổi nữa.

"Tell nhận ra, chiếc mũ trên cây sào là của vị pháp quan và được coi là dấu hiệu của nhà vua."

"Tại sao lại của nhà vua ạ?" tôi hỏi.

"Vì vị pháp quan là khâm sai đại thần được hoàng thượng sắc phong. Ông ta là quan tòa, ông ta là người thu thuế, ông ta và những người lính của ông ta bảo vệ những người lữ hành khỏi bị cướp và làm nhiều việc khác nữa.

"Tell không biết, trong tình huống này phải làm hay nói gì nữa. Cái cười của anh có vẻ không vui. Ông pháp quan ra ngoài nắng nhiều nên bị cảm rồi, anh đoán vậy. Trong cái đầu nóng của ông ta nảy ra ý nghĩ: Vì hoàng thượng ở Vienna và chưa bao giờ thân chinh đến tổng Uri và chính ông ta, vị pháp quan phải đi lại rất nhiều, vì vậy cần một vật thay thế, tượng trưng cho nhà vua và pháp quan để đám thảo dân cung kính cúi chào.

"‘Rõ cả chưa?’ gã nhợt nhạt hỏi. Tên lòng khòng im lặng, chỉ ra vẻ dò xét.

"‘Tất cả,’ Walter khẳng định. ‘Vậy là cái mũ này đâu phải là một chiếc mũ, nó là một

vật tượng trưng. Có thể một cái áo sơ mi, một chiếc ủng, kể cả một chiếc tất dài của ngài pháp quan cũng có thể dùng vào mục đích đó.’

"Những tên gác không rõ ý cậu bé nói, nhưng chúng hiểu cậu đang chế nhạo chúng.

"Còn Tell, cha của cậu, những tên gác nhìn anh. Không hề có cái bạt tai nào, chẳng có gì.

"‘Lũ lợn!’ tên mặt nhợt hộc lên.

"Tell chẳng nhìn hắn. Anh đang tự hào về con trai. ‘Nó nói như một cuốn sách và nghĩ như một cuốn sách, một cuốn sách kinh thật dày,’ anh nghĩ. ‘Cuốn sách dày đến mức một ông cha xứ đọc cả đời cũng không hết.’

"Trong lúc đó gã nhợt nhạt xoay người, tên lòng khòng cũng vậy. Chúng quay sang hướng đang có vài kỵ sĩ đang đến gần.

"Vị pháp quan Gessler đang ngồi trên một con ngựa ô đẹp tuyệt vời. Người ta gọi hắn là bạo chúa vì tính tình độc ác.

"Một lối đi được mở ra. Những kỵ sĩ cùng đám lính đông đúc mang vũ khí kéo lại giống như duyệt binh ngày lễ. Họ đến chỗ hai tên lính gác và Gessler ra hiệu cho mọi người im lặng.

"‘Lũ lợn nào thế?’ hắn hỏi.

"Walter đang đứng sát con ngựa ô của hắn, nói to, ‘Cả hai cha con tôi cũng nghĩ mãi điều ấy.’

"Những tên gác thông báo với viên pháp quan chuyện gì đã xảy ra.

"‘Lũ lợn,’ hắn cũng nói. Nhưng hắn không chỉ nhằm vào anh thợ săn và cậu con trai mà ám chỉ cả đám dân. Những tiếng nói xa lạ, những ánh mắt xa lạ. Hắn nhằm vào đám dân cứng cổ ở các thung lũng quanh hồ mà ngày nay người ta gọi là Hồ Bốn Tổng Vùng Rừng, lũ nông dân, thủy thủ và những nài dắt ngựa và lừa, đúng như người ta vẫn gọi là ‘đám người rừng rú’. Gessler cảm thấy ở đây như đang ở trong khu rừng tối.

"Walter nghĩ đến những chiếc mũ. Cậu hình dung ra Gessler đầu trần. Nếu như cái mũ của ông ta treo trên cây sào, cậu bé suy nghĩ, thì chắc không thể cùng lúc chụp lên đầu được. Nhưng ông ta đang đội mũ, người ta thấy thế mà. Walter nhận ra là ngài pháp quan có nhiều hơn một chiếc mũ, ít nhất là hai cái cơ."