Chương 7
Tôi chẳng biết câu chuyện đến đâu nữa.
"Ông kể chẳng theo trình tự gì cả," tôi nói. Ông nhìn tôi suy nghĩ. Ánh mắt ông nhìn thẳng vào gương mặt tôi. "Có những câu chuyện," ông nói, "dài thẳng tắp hàng cây số – như sông Reuss của chúng ta khúc trước khi chảy vào hồ. Chuyện về Wilhelm Tell thuộc về một thể loại khác. Nó giống như sông Reuss ở đoạn trên, quanh co uốn thành những khúc nhỏ và tỏa nhánh vào các ao chuôm.
"Vậy đấy," ông nói, "lại quay về bếp nhà bà Martha ở Altdorf nào. Tất cả đồ vật vẫn ở nguyên vị trí. Chiếc giường, những chiếc tràng kỷ, những cửa sổ nhỏ hẹp, ngọn lửa bên cạnh cánh cửa để ngỏ, hai người phụ nữ – và cậu bé."
"Ai ạ?" tôi hỏi như thể không biết ông nhắc đến ai.
"Walter, chứ còn ai nữa. Mẹ cậu ấy đập tay lên đùi. ‘Con làm ơn kể cho mẹ toàn bộ câu chuyện đi, về cái trò độc ác bắn quả táo trên đầu trẻ con. Cho dù nó đã xảy ra nhưng chẳng ai có thể nghĩ nổi là có thể như vậy.’
"‘Cháu nó còn sống đấy thôi,’ Martha khẳng định.
"Hedwig bấy giờ mới nhìn – hay bắt đầu nhìn cậu con trai. Tiếng cười của chị bật lên giống như tiếng khóc nấc. Chị sờ vào vai Walter và ấn tay xuống rồi lại bỏ ra rồi lại ấn xuống. Chị nói, ‘Hãy hứa với mẹ, Walter, hãy hứa với mẹ đi con.’ Và không biết nói gì hơn nữa.
"Bây giờ đến lượt cậu bé khóc. ‘Vâng,’ cậu sụt sịt nói, ‘vâng, vâng.’ Cậu không biết phải hứa gì. Tốt nhất là hứa tất cả. ‘Nơi nào có một cánh cửa đóng lại thì có cánh khác mở ra,’ cậu nói.
"Mẹ cậu vội gật đầu.
"Nhưng bà Martha phản đối. ‘Những ngục thất mẹ biết,’ bà nói khẽ và rõ ràng, ‘chúng chỉ có một cánh cửa thôi.’
"Bà bước ra và ngay sau đó mang vào ba quả táo. Những trái táo xanh với những cái má đỏ. Bà đưa một trái cho Hedwig, một cho Walter và giữ lại cho mình một trái.
"Ngoài đường có ai đó rủa xả. Lần đầu ngắn thôi rồi sau đó lần thứ hai dài hơn.
"Martha cắn mạnh vào trái táo. Thật buồn cười, vết cắn của bà khá nham nhở, vì bà bị mất ba chiếc răng cửa.
"Tiếng chửi rủa nghe gần hơn. Một tràng dài những từ ngữ văng ra, không hề nghỉ lấy hơi. Qua khung cửa người ta có thể nhìn thấy anh ta. Một người dắt súc vật thồ. Đó là cách anh ta nói chuyện với con sóc của mình, nó chả hiểu hoặc khó mà nghe nổi thứ ngôn ngữ lạ lùng đó.
"Hedwig làm dấu thánh. Đó là một cách để chống lại tà độc của những lời nguyền rủa gọi con quỷ đến. Người ta tin vậy đấy, nhưng phần lớn thì không thể đoán được con quỷ như thế nào. Đôi khi người ta gọi thì nó đến, có những lúc thì nó không đến. Và có những lúc chả gọi nó cũng đến.
"Martha luồn tay xuống chiếc mũ trùm để gãi đầu.
"Walter lắng nghe một khúc hát trầm buồn. Một đoàn hành hương. Chắc là dài lắm. Những giọng hát ở xa ngân lên như tiếng vang của những giọng hát ở gần hơn.
Cậu bé bước ra cửa. Cậu quỳ xuống chào cây thập tự đang nghiêng ngả theo bước đi của những người hành hương mộ đạo.
"Sau đó cậu ngồi lên ngưỡng cửa. Ở đây, trước căn nhà của bà Martha, cả thế giới đi qua. Dân buôn bán với những chiếc xe đẩy chất cao hàng hóa, những hiệp sĩ mặc quần áo nhiều màu sắc, những học giả, tu sĩ, thương gia với những chiếc sọt, hòm, thùng, bao tải. Những người hướng đạo dân thung lũng, họ có thể tìm ra những con đường khó thấy, kể cả trong sương mù và tuyết ngập, đi cùng với những đoàn lữ hành.
"Trong mùa đông, đôi lúc Tell cũng làm người dẫn đường. Anh đi trước dùng một cây sào dài chọc tìm những lỗ tuyết phủ, dò độ sâu của những lỗ hổng. Chỉ có một lần anh bị lạc còn nhiều lần anh đã tìm ra những con đường bị che phủ và giải cứu những người lữ hành bị thương khỏi bão tuyết.
"Đoạn nguy hiểm nhất trên con đường mòn Gotthard là chỗ vực thẳm Schoellenen. Ở đây những ván gỗ mục nát treo bên thành vách đá dựng đứng. Cây cầu nhỏ đến mức những người cưỡi ngựa phải xuống để lùa đám gia súc đi qua. Một số lữ khách đi qua nơi hoang dã này phải nhắm nghiền hai mắt lại. Họ cầu nguyện với hai hàm răng đánh vào nhau lập cập, trong khi đó mặt nước nổi sóng chỉ chực túm lấy chân họ. Ở chỗ nguy hiểm nhất có một nhịp cầu đá bắc qua vực thẳm. Đó là một công trình xây dựng hết sức khó khăn. Không thể nào hình dung nổi con người đã dựng nên kỳ tích đó. Có lẽ một sức mạnh siêu nhiên nào đó giúp đỡ.
"Những người dân vùng Uri đã thỏa thuận một giao ước với con quỷ, nếu nó dựng lên một cây cầu qua vực thẳm, thì kẻ đầu tiên đi qua sẽ thuộc về nó.
"Ba ngày sau nhịp cầu đã đứng đó, một vòm cầu bằng đá, nối vách đá bên này với bên kia. Dân chúng Uri sửng sốt. Điều tuyệt vời đó chỉ có một lỗi lầm, ai đi qua cầu đầu tiên, người đó sẽ chạm mặt với con quỷ đang ngồi chờ ở bờ bên kia. Ai muốn là người đầu tiên đây? Chẳng ai muốn xuống địa ngục cả.
"Những người Uri bàn bạc mãi với nhau. Sau đó họ im lặng thật lâu. Bỗng nhiên một người mà mọi khi chẳng tỏ ra là kẻ khôn ngoan nhất, có một ý kiến. Anh ta đứng dậy, đi xuống thung lũng và sau gần một giờ anh quay trở lại dắt theo một con dê. Con thú không quen bị dắt bằng sợi dây. Lúc thì nó kéo đi, lúc thì nó cố ghì lại. Nhưng khi con dê nhỏ nhìn thấy sinh vật mang sừng bên bờ bên kia, trông khá giống họ hàng, dê ta cúi đầu chĩa sừng ra và nhảy bổ vào nó. ‘Đấy, bắt nó đi, bắt kẻ đầu tiên đi,’ dân Uri reo hò và cười vang vọng khắp những vách đá.
"Con quỷ giận dữ đến mức muốn phá sập ngay cây cầu. Nó chạy xuống thung lũng. Nó biết ở dưới đó có một tảng đá khổng lồ, chỉ cần dùng nó đập một cái là tan vụn cây cầu. Con quỷ lay đi đẩy lại tảng đá rồi vác đi.
"Bên một con dốc ngược có một bà cụ đang ngồi. ‘Đừng gắng sức quá như thế,’ bà nói.
"Con quỷ thở hổn hển.
"‘Cậu đổ hết mồ hôi rồi kia,’ bà lại nói. "Con quỷ rên rỉ.
"‘Cậu nên ngồi nghỉ chút đi,’ bà bảo.
"Lời nói đó làm ấm trái tim con quỷ. Đó là một cảm giác ấm áp không có ở dưới địa ngục. Nó sững sờ. ‘Bà thấy thế à,’ nó nói.
"Trong khi nó ngồi thở lấy sức, bà cụ nhanh tay cầm một viên đá cuội lên và gạch một chữ thập lên tảng đá.
"Con quỷ nhận ra thì quá muộn. Nó uổng công lay mà tảng đá không nhúc nhích.
Tảng đá giờ nặng như một quả núi. Nó đành chịu để tảng đá nằm lại."
Ông bảo, "Hôm nay đủ rồi nhé." Ông đứng dậy và vươn vai. Ông rên lên và mỉm cười. Ông có một cái "chân độc ác." Ông gọi như vậy. Nó sẽ rất ác, nếu ông phải ngồi lâu.