← Quay lại trang sách

Chương 10

"Trong túp lều, Walter ngồi xuống bên ngọn lửa. Cậu chào một ông cụ đã ngồi đó và đang gọt một chiếc thìa gỗ. Ông ta tên là Sepp, một người dáng nhỏ bé còng rạp xuống. Ông giống một cái cây cằn cỗi mọc sót lại trong một rãnh nhỏ trên mỏm núi trơ sỏi đá nhô lên giữa khu rừng.

"Ngồi bên cạnh Sepp là cậu giúp việc, đó là một đứa trẻ mồ côi. Cậu ta đến phụ làm pho mát. Walter xoay mình đổi hướng ngực và sau lưng bên ngọn lửa để làm khô quần áo.

"Walter ăn và kể chuyện. Cậu nhét miếng pho mát dê nhỏ vào miệng. Jakob cắt từng miếng một từ khối pho mát lớn bằng đầu người, nhưng lần nào cũng ngần ngừ, tới khi Walter ngơ ngác đợi tới miếng tiếp. Cứ như thể người đàn ông đó phải cắt từng miếng thịt mình ra vậy.

"Walter kể về chiếc mũ trên cây sào, về quả táo, về mũi tên thứ hai, và những kẻ đã trói cha cậu dắt đi như thế nào.

"Jakob nói, ‘Chú ấy không dễ mà về ngay đâu.’

"Walter phản đối.

"Người bác bận rộn tính toán, tìm ai làm việc thay được đây. Việc bó những cuộn cỏ khô cần một người nữa, sau đó phải mang đi ngay. Còn phải chở cỏ xuống qua những sườn núi đầy đá và những vách núi. Ông Sepp không làm nổi, ông ấy chẳng thể nào đi đường núi vì không còn sức mạnh nữa.

Hai tuần trước làm sao ông ta lên được đây vẫn là một điều bí ẩn. Một ngày nọ ông ta đứng như một cái bóng đen trên nền sáng của khung cửa nhỏ căn lều. Ông ta chẳng phải cúi mình. Jacob đã tưởng là một dã nhân đi qua ngưỡng cửa.

"Mọi người vẫn kể cho nhau nghe, những dã nhân là những dân cư cũ trên những ngọn núi cao chót vót, người bình thường không thể sống ở đó. Họ nuôi những con sơn dương như nuôi dê nhà. Các dã nhân nuôi và vắt sữa chúng. Khi những thợ săn đầu tiên đến để bắn những con vật đó, các dã nhân rất buồn. Họ sợ mất đi nguồn thức ăn và chỗ ở.

"Họ kết bạn với một số ít người, thậm chí còn giúp người làm cỏ. Ai bảo vệ lũ sơn dương thì họ tặng một miếng pho mát sữa dê, nó thường xuyên đầy trở lại. Vào buổi tối người ta phải để chừa lại một chút thì sáng hôm sau nó sẽ tự đầy trở lại. Nếu người ta chén hết sạch, phép màu sẽ biến mất và chiếc đĩa vẫn trống trơn.

"Những dã nhân có đôi bàn chân liền với cẳng chân theo chiều ngược lại. Người ta không thể nhầm lẫn dấu vết của họ. Nếu thấy một dấu chân trên núi, thì người ta có thể nhận biết một dã nhân nam hay dã nhân nữ đã đi xuống thung lũng.

"Sepp, người lấy nhựa cây và đốt than, thật sự có chút gì đó của dã nhân trong người. Ông bốc ra mùi hoang dã. Quai hàm ông luôn giật giật. Giữa những bữa ăn, ông thường nhai một cục nhựa thông. Ông vẫn còn đủ những chiếc răng cần để nhá, chúng nhỏ như những chiếc răng sữa nhưng tất nhiên không trắng tinh như thế rồi. Ông đeo dưới cái cổ bẩn thỉu một cây thập tự, một chiếc bùa hộ mệnh, một cái nanh gấu. Nó che chở cho ông trước những con dã thú."

"Răng gấu ạ?" tôi hỏi. Trong hình ảnh nhạt nhòa về thời trung cổ của tôi chợt hiện lên những chiếc răng nhe ra và những tay thú đầy móng vuốt.

"Có gấu, chó sói, mèo rừng," ông giải thích. "Cả đại bàng nữa. Để bảo vệ mình trước những con thú này người ta dùng những bùa phép và câu thần chú. Cách hiệu quả nhất là tiếng cầu nguyện mà người mục đồng tối tối vẫn gọi vọng lên những mỏm đá.

"Thánh Antoni linh thiêng

Hãy che chở gia súc, hãy che chở núi Alp, cùng bò và bê, cùng dê và cừu. Hãy che chở bộ da, hãy che chở cẳng chân, khỏi con sói dữ, khỏi trận đá lở.

"Trời tang tảng sáng, khi Walter bước ra khỏi túp lều, một thời khắc hiếm hoi vô sắc của buổi bình minh. Bầu không khí trong veo, bầu trời không một gợn mây. Những con chó ở lại bên đàn gia súc sủa lên những tiếng vui vẻ. Cậu bé xách chiếc thùng để vắt sữa đi qua các rãnh và vũng nước tới chỗ những con dê. Chúng kêu be be trong bụi cây thấp, nơi chúng bị buộc vào những cành lá. Một số con còn làm vướng dây buộc vào bụi cây. Chúng không thể cựa quậy được nhưng kêu to và lắc những chiếc lục lạc. Những cành cây xung quanh chúng đã bị gặm trụi đi, những con vật bị đói.

"Chắc là hai mươi mốt con, hai mươi mốt đầu dê, người ta thường nói vậy. Mười hai con là của ông bác, sáu con dê mẹ, hai con dê non và một con dê đực là của Walter, nghĩa là thuộc về gia đình cậu. Vào mùa xuân, ông bác đã đổi hết đám dê con của mình lấy một con bò. Bác ta buôn bán với một tay lái buôn gia súc, anh ta đi xuống vùng đồng bằng phía dưới và sang tận nước Ý.

"Walter đếm chỉ thấy có hai mươi đầu dê. Thiếu một con trong đám dê của cậu, con già nhất, tên là Mảnh Trăng.

"Khi cậu bé xách thùng sữa đầy đi về phía túp lều thì mặt trời đã lên cao. Trên vách đá đặt một tấm da dê, bộ lông của Mảnh Trăng, trải rộng để cho khô. Những con chó sói không để lại bộ da nguyên vẹn như thế này. Chắc chắn con người làm việc đó. Họ lấy da của nó để làm giấy viết.

"Ông bác đã thịt nó mà không hỏi qua cậu. Và bác ta vẫn nghĩ là mình đúng. Chuyện tất nhiên như tuần trước họ ăn nội tạng một con sơn dương bị rơi vào bẫy của họ.

"Trong hang để đồ, Walter gặp ông bác đang xát muối vào bánh pho mát tròn. Chuyện gì đã xảy ra với con dê, cậu hỏi.

"Jakob không trả lời.

"Cậu giúp việc đứng cạnh bác, chợt cười và lại ngừng ngay lập tức.

"Walter nói, ‘Nó vẫn khỏe mà.’

"‘Nó ăn như một con khỏe,’ Jakob phản đối, ‘nhưng nó không cho sữa nữa.’ "Walter biết điều đó rõ hơn.

"Họ cứ cãi đi cãi lại, đến khi Jakob hét lên, ‘Đủ rồi, cháu im ngay đi!’

"Cậu bé nghĩ, người ta đâu thể cấm những con chó sủa được. Cậu quay lại chỗ những con dê. Cha sẽ không để ai làm như vậy cho dù người đó là anh mục đồng hay ông chủ đi nữa, Walter nghĩ để tự an ủi. Ít nhất cha sẽ đổi con thú già đó lấy một miếng thịt dê to, vài con cá hun khói nữa.

"Walter thả đám dê ra. Cậu theo chúng lên núi. Chúng có vẻ biết chúng đi đâu, Walter thì chỉ biết nơi nào không nên thả chúng thôi, những bãi cỏ to là của những con bò sữa, bò đực và lũ bê. Dải cỏ kéo dài ngang dãi núi Alp, chạy xuyên qua những vách đá, là nơi của bọn săn trộm. Nơi tuyệt đối cấm là bãi cỏ phía dưới trong khu rừng chắn, nơi che chở thung lũng trước những trận bão tuyết và đá lở.

"Nền đất vẫn còn ướt, những mỏm đá lấp lánh. Cả sườn núi vang lên như tiếng cây đàn organ bằng nước, tất cả các âm thanh đồng loạt reo lên, từ tiếng róc rách thủ thỉ của những con suối chảy đến tiếng ngân trong trẻo của từng giọt nước nhỏ giọt xuống mặt ao. Hòa thêm vào đó là tiếng lục lạc dê lốc cốc."

Ông búng những ngón tay trong khi kể về những âm thanh. Ông dẫn dắt làm tôi tưởng như đang nghe thấy những âm thanh đó thật sống động.

"Một con suối thường ngày bầy dê vẫn dễ dàng đi qua được bằng cách đi từ tảng đá này sang tảng đá khác, giờ lại dâng nước lên cao. Nhưng bầy thú lượn theo dòng đi xuống và đến một sườn núi đầy đá nhỏ. Một con dê non lạc vào một khe nhỏ giữa những rìa đá và be be gọi với lên Walter. Cậu mang nó ra, ‘be, be, be’, Walter gọi và lùa đàn dê sang bên một mỏm núi được phủ lớp thảm cỏ xanh mượt mịn màng."

Ông đứng lên. Ông bước vài bước dọc trên con đường rải sỏi. "Đúng, ngọn núi đó, ngọn núi đó đấy," ông nói. "Hồi đó không phải là một nơi đẹp, thuộc về các dã nhân."

"Không có biển chỉ đường, không có khách lữ hành," tôi nói tiếp. "Điều đầu tiên là thời trung cổ thiếu tất cả mọi thứ."

Ông cười. "Thời chúng ta thì trước hết là có kem vani rắc hạnh nhân, dầu gội đầu."

Tôi cứ nghĩ mãi về cái tên Mảnh Trăng. Như vậy có nghĩa là nó không đi đâu cả, nó vẫn đứng đó, Mảnh Trăng, Mảnh Trăng. Và bộ lông trên mái lều.

Ông đứng trước tôi. "Cháu nghĩ gì đấy?" "Không có gì ạ. Đến Mảnh Trăng thôi."

"Đó là một cái tên đẹp. Một con thú đẹp," ông nói. "Một vài con dê của Walter mang tên của các vị thánh nữ: Bibiana, Caecilia, Zita. Thật ra đặt những cái tên đó cho con vật là một việc làm xấu. Nhưng có lẽ Walter không biết điều đó. Con dê đực của cậu tên là Serenus."

Ông tiếp tục kể. Về con sơn dương mà lúc đầu Walter tưởng là một con dê nhà, nó đứng ngơ ngác nhìn, rồi kêu ré lên, và nhảy vài bước thật nhẹ nhàng. Về hai con dê hiếu chiến, chúng chồm lên đứng bằng hai chân sau trước khi lao vào húc nhau. Và về những quả phúc bồn tử chín.

"Walter ăn hoa quả và chút thịt lợn khô mà bà Martha đã đưa cho.

"Cậu nghĩ đến cha mình, lẽ ra cha phải về từ lâu rồi. Cậu bé thấy cha ngồi bên mình dưới mái hiên của túp lều. Và cậu nghe cha kể chuyện, chậm rãi, rõ ràng từng đoạn về cuộc phiêu lưu trên hồ."