Chương 12
Tôi không nghe thấy bà đi đến. Bà ngồi xuống bên ông. "Tôi có làm phiền không?" bà hỏi, khi đã ngồi xuống. "Tell thế nào rồi?"
"Chẳng khá hơn hôm qua ạ," tôi trả lời. "Vẫn ngồi trên thuyền độc mộc, vẫn bị trói và canh gác."
Bà ngạc nhiên. "Sao thế? Từ lúc đó vẫn chưa thêm sải chèo nào à? Hai ông cháu không thể để Tell như vậy chứ."
Bà hỏi thăm Walter.
"Con Toggeli ngồi lên ngực cậu ấy," tôi nói. Bà thở dài. "Lại thế nữa!"
Sau đó bà nói, "Lẽ ra Walter tránh được nó chứ. Cậu ấy nên cắm dao lên một cái xà nhà phía trên đầu, lưỡi dao hướng lên trên."
Ông đồng ý với bà. "Lẽ ra đêm ấy nên làm vậy nhưng muộn mất rồi."
Tôi muốn biết, làm sao để nhận ra con Toggeli. Làm sao phân biệt được con ma ám ảnh ấy với một nỗi nhớ nhà thường xuyên diễn ra.
"Con Toggeli đến sau nửa đêm," bà giải thích. "Người ta nghe thấy một tiếng động. Khó mà tả nó như thế nào. Một số người nói giống như một cuộn chỉ lăn trên sàn nhà. Có lẽ nó không lớn hơn một con mèo. Nhưng khi nó đè thì nặng khủng khiếp như thể cả một quả núi lẫn thung lũng đè lên ngực."
"Người ta có chạm vào nó được không ạ?" tôi hỏi.
Ông nói, "Nó sẽ tan ra giữa những ngón tay như thể bơ hay mỡ lợn ấy."
Nỗi nhớ nhà của tôi thường không chịu chờ đến nửa đêm đâu, tôi nghĩ ngợi, còn tất cả những thứ khác của nó thì rất giống con Toggeli.
Tôi quyết định tối nay sẽ thử dùng cách trừ tà vừa biết. Nếu hiệu nghiệm thì đúng là một con Toggeli đã quấy rầy tôi thật, nếu không hiệu nghiệm thì đó là nỗi nhớ nhà bình thường vốn dĩ chẳng có thuốc nào chữa trị. Hoặc là chỉ có một cách duy nhất: Trở về nhà.
Sau bữa ăn tôi muốn về phòng ngay, vì tôi muốn bí mật tiến hành cuộc thử nghiệm của mình. Thường thì tôi còn xem truyền hình một lúc để sau đó giấc ngủ đến nhanh hơn mong đợi.
Tôi ngồi lên thành giường, trang trọng mở con dao gấp có chữ thập Thụy Sĩ. Khi trở ngược lưỡi, cắm dao lên ván tường trên đầu giường, tôi thấy mình gần như thành người chiến thắng.
Một chút trước khi ngủ thiếp đi, tôi nhận thấy phép thuật bắt đầu có hiệu lực.
Khi vừa tỉnh giấc, tôi nhìn ngay lên con dao phía trên, chắc là nó vẫn thức khi tôi ngủ. Tôi thầm biết ơn rồi rút nó ra khỏi bức tường và đút dao vào túi.
Khi dọn dẹp bát đĩa bữa sáng, bà hỏi vẻ như thật vô tình, "Thế nào, có công hiệu không?"
"Chuyện gì ạ?" tôi hỏi lại. Bà cười.
"Nếu có hai con Toggeli, một con lớn và một con nhỏ," tôi nói, "thì chắc cháu gặp con nhỏ."
Bà vui. Trông bà như thể vừa hết lo lắng điều gì đó.
Chúng tôi bước đi trong vườn, ông và tôi, nhưng không giống đi dạo lắm, chúng tôi nghỉ nhiều hơn là đi. Chúng tôi ra chỗ những cây phúc bồn tử. Hai ông cháu tay thì hái tay kia thì xua lũ muỗi bay ra khỏi đám cây.
Ông nói. "Bà đúng đấy. Chúng ta đã bỏ mặc anh thợ săn râu quai nón trong hoạn nạn rồi."
"Không chỉ mình Tell đâu," tôi đáp. "Chúng ta bỏ mặc cả một bé gái, cô bé bị sai đi tìm quả táo và không quay lại. Cô bé đã biến mất hẳn khỏi câu chuyện rồi."
"Cô bé không hề để ý đến điều đó đâu. Cô bé vẫn cứ tiếp tục sống cuộc sống tươi vui của mình, bên ngoài câu chuyện. Vui và buồn thật hồn nhiên."
"Sau khi em gái trốn mất hút sau những chiếc váy của các bà các cô," tôi nói, "em chạy về nhà."
Ông tiếp tục, "Và ở đó trước tiên cô bé nghỉ lấy hơi đã."
Tôi hỏi, "Sau đó thì sao ạ?"
"Và sau đó cô bé nghỉ lấy hơi lần nữa. Trong ánh sáng lờ mờ, em gái bé bỏng của cô bé đang ngồi, bé có làn da lấm tấm tàn nhang và mái tóc đỏ rực xoăn tít. Trong khi mang thai em, người mẹ đã nhìn ngọn lửa quá lâu. Đôi gò má đứa trẻ lấp lánh, nó vừa khóc xong, giờ thì im bặt rồi. Cô bé vuốt bộ tóc rối bù của em, bấm nát con chấy giữa móng tay.
"‘Chúng mình bấm con chấy
Tách một cái chết ngay.’
"Cô bé thì thầm nói xuống mái đầu em. Cô bắt chấy tiếp và hát:
"‘Trên tóc có con chấy Vừa làm tổ trên đầu. Giờ nó phải biến ngay
Thánh Nicolaus mau bắt.’"
Ông và tôi tiếp tục dạo qua những cây đại hoàng, tôi rất thích chúng vì tên gọi đó. Tới luống cà rốt ông nhổ lên hai củ thật to. Ông cháu tôi mang đến vòi nước rửa rồi mang ra cầu thang lên ban công ngồi ăn.
"Cả gã nhợt nhạt cũng bị chúng ta bỏ rơi rồi," tôi nói. "Và gã lòng khòng nữa."
"Những kẻ nghèo khổ tội nghiệp," ông thở dài, "chúng ở lại chỗ cây sào và trông chiếc mũ." Ông gật đầu.
Tôi để ý thấy mình cũng bắt đầu hay gật gù khi nói chuyện.
"Gã lòng khòng thì hy vọng việc bắt một nhân vật đặc biệt như Tell sẽ được viên pháp quan hậu thưởng," ông nói. "Gã nhợt nhạt không tin chuyện đó. ‘Tôi biết các ông lớn…’ gã the thé nói, nhưng rồi bỏ lửng.
"Một con dê đực già sải vó lao qua một đám mây bụi do cơn gió lùa qua quãng trống. Có vẻ nó không phải là con vật trốn nhà đi, người chủ đã thả con dê đi vì không muốn nuôi nó nữa.
"Mặt trời đã khuất. Hai tên lính gác đứng quay lưng lại chiều gió trong hoàng hôn mù bụi. Chúng im lặng và gục đầu. Chiếc mũ xoay trên cây sào giống như một bánh xe cối xay. Một quang cảnh buồn thảm. Nhưng sau đó," cánh tay ông vung lên trên không khí, "cảnh ấy lại thật buồn cười. Chiếc mũ bay đi mất. Ngay lúc đó những tên gác không nhận thấy là chúng chỉ gác một cây sào không. Khi những giọt mưa đầu tiên quất xuống chúng mới nhìn lên. Chúng nhìn thấy mũi sào trơ trụi và hiểu điều gì đã xảy ra.
"‘Điềm gở rồi!’ gã nhợt nhạt hét lên trong gió.
"‘Khốn nạn rồi!’ gã lòng khòng la lại."
Ông nhìn tôi. "Tất cả đoạn này không thuộc về câu chuyện của chúng ta. Cháu đúng đấy!" ông nói. "Chỉ có trận bão là thuộc về nó. Walter đã vượt qua được, còn Tell thì chưa."