← Quay lại trang sách

Chương 17

Buổi tối chúng tôi ăn mừng ngày Quốc khánh. Cả nhà cùng đi chơi. Bà mặc một chiếc váy xếp li nhỏ. Lần đầu tiên tôi thấy ông đeo cà vạt.

Trong thành phố nhỏ này tôi đọc thấy cái tên Tell ở khắp nơi: Hiệu dược phẩm Tell, quán bia tươi Tell. Một văn phòng du lịch cũng mời chào chuyến đi thăm nhà thờ mang tên Tell.

Chúng tôi dùng bữa trong một quán ăn mà bà đã đề nghị vì thấy nó thích hợp với những búp tóc đẹp của bà. Ông gọi ba suất "Mũi tên Tell". Nhưng sau đó tôi thấy chỉ là những xâu thịt nướng bình thường mà thôi.

Chúng tôi nghe thấy tiếng người phát thanh viên nói trong loa vọng từ xa lại. "Đây, trái tim của Thụy Sĩ," ông ta reo lên. Đất nước có trái tim thì thật kỳ lạ, nhưng tôi thấy rất hay. Zuerich nơi tôi ở, nằm ở bên ngoài trái tim, có thể ở bên một chiếc xương sườn hay là khủy tay của Thụy Sĩ.

"Liên bang Thụy Sĩ," người phát thanh viên lại reo lên. Tôi lặp lại từ đó. Nó cứ lúng búng trong miệng tôi và không thấy vị ngon lành gì.

Nhưng nó lại hợp với miệng ông. Khi tôi hỏi thật ra hôm nay kỷ niệm ngày gì, có phải là ngày sinh của Tell không, ông nói, "Không, ngày sinh của Liên bang Thụy Sĩ. Từ năm 1291."

"Lâu quá rồi," tôi nói và tính. "Hơn bảy trăm năm rồi."

Thật ra, tôi chẳng thể hình dung ra được thời gian đó dài ngắn như thế nào cả.Chúng tôi nghe tiếng pháo hoa nổ nhưng không nhìn thấy được nhiều. Những đám mây xuống thấp làm những chiếc pháo hoa biến mất trong đó hoặc mờ nhạt hay lấp lánh, như thể người ta chiếu đèn pin vào món xúp vậy.

"Những người dân vùng rừng ở bên này và bên kia hồ từ đó liên kết lại với nhau," ông kể tiếp, "vùng Uri, Schwyz, Obwalden, Nidwalden. Họ lập lời minh ước quân tử rằng sẽ luôn trợ lực giúp đỡ nhau khi xảy ra xung đột – cho dù trong nội bộ hay với những kẻ xa lạ hoặc với những tên quan độc ác. Khi Tell bắn chết Gessler, những người dân miền rừng nhận biết đó là tín hiệu vùng lên. Họ cùng nhau tấn công những thành trì của bọn quan cai trị và dìm chúng trong ngọn lửa. Những sườn núi đá dựng đứng ban đêm lấp lánh ánh lửa."

Một chiếc pháo hoa lớn rít lên bên trên. Chúng tôi ngẩng đầu lên. Những đốm nhiều màu sắc tỏa ra từ đám mây. Bụp! Bụp! Bu-ụp-ụp! Một ngọn khói và một tiếng nổ giống như ngày đó những thành trì sụp xuống.

Khi chúng tôi đi qua tượng đài Tell, trời bắt đầu mưa. Tôi kéo mũ trùm của chiếc áo gió lên cao. Từ khi tôi ở Altdorf, cậu Walter bằng kim loại luôn luôn nhìn người cha kim loại của mình theo đúng một kiểu như thế. Trong đêm nay, cả hai cha con ướt nước và lấp lánh ánh sáng ngày lễ.

"Giống như những con hà mã vừa ngoi lên khỏi mặt nước ấy," bà nói vọng ra dưới tán ô của ông.

Hai người phụ nữ Nhật nhờ chúng tôi chụp hình họ trước đài kỷ niệm. Ông cầm máy ảnh hướng về họ và bấm. Trong ánh sáng đèn, cả hai người phụ nữ có vẻ lúng túng và hơi buồn.

Tôi đã đoán trước được câu hỏi sáng hôm sau của bà. "Thế nào, thành công chứ?"

Con Toggeli đã không xuất hiện.

"Nếu có con Toggeli thứ tư," bà hỏi, "một con lớn, một con nhỏ, một con bé xíu và một con bé đến mức chả thấy gì thì thế nào?"

"Vậy cháu đã gặp con bé đến mức chả thấy nổi rồi," tôi nói.

"Cháu có muốn thử ngủ một đêm không dùng dao không?"

Lúc này tôi thấy chuyện này có vẻ rất mạo hiểm. "Đó là chuyện mê tín…"

"Đúng," bà nói. "Nhưng nó lại hiệu quả."

Tôi mơ về Walter. Tôi không biết gì hơn nữa. Đó là một giấc mơ dài, nó kéo từ đêm này sang đêm khác.