PHỤ LỤC Về tiểu sử, bài viết về cụ Nguyễn Trọng Phấn
Họ và tên: NGUYỄN TRỌNG PHẤN.
Năm sinh: 1910 (tuổi Canh Tuất).
Nguyên quán: Xã Lại Yên, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội).
Sinh quán: Thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ
Nghề nghiệp trước và sau khi tham gia cách mạng: Viên chức Sở Trước Bạ và Trường Viễn Đông Bác cổ thời thuộc Pháp; Cán bộ chính quyền nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trình độ văn hóa: Tốt nghiệp nền Trung học của Pháp. Đã học 2 bằng Đại học, nghiên cứu về Cổ sử và Trung cổ sử Thế giới theo chương trình Đại học Pháp. Giáo viên Sử Địa Trường Sư phạm Trung cấp Trung ương.
(1) Theo Lý lịch tự khai của tác giả Nguyễn Trọng Phấn - do gia đình cung cấp.
HOẠT ĐỘNG CHÍNH TRỊ
1/ Năm tôi lên 7 tuổi, Pháp chém 29 người dự cuộc khởi nghĩa của Tổng Thế ở Thị xã Phú Thọ. Việc này có làm tôi xúc động rất mạnh. [… ]
Lòng yêu nước của tôi được nhen lên qua các truyện Hưng Đạo Vương, Việt lam xuân thu. Trái lại cuốn Đại Pháp công thần của Lê Văn Thơm cũng có tác dụng không tốt, làm cho tôi mến một số nhân vật lịch sử của Pháp, nhất là Na-pô- lê-ông thứ nhất.
2/ Khi tôi lớn lên, phong trào yêu nước phát triển mạnh. Khoảng đầu năm 1926, một số lớn anh em học sinh Trường Thành Chung (Hải Phòng), chúng tôi đến khúc đường trước vườn hoa Huyện Rào, dương biểu ngữ đón đường toàn quyền Va-ren từ Đồ Sơn về, “cám ơn” hắn đã ân xá cụ Phan Bội Châu, đây là một cuộc tập dượt nhỏ, có ý nghĩa vì chúng tôi không đi theo tên đốc học Faggianelli đến Sở đốc lý Hải Phòng để biểu lộ lòng cảm tạ. ít tháng sau, chúng tôi tham gia lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh ở chùa Dư Hàng; một trong số người đứng tổ chức lễ ấy là Nguyễn Phương Thảo, học sinh cũ của trường Tiểu học Bo-nan, sau này là Trung tướng Nguyễn Bình.
Năm 1927, chúng tôi diễn kịch “Lọ vàng”, “Bạn và vợ” để lấy tiền giúp đồng bào bị nạn lụt. Ở Hải Phòng, tinh thần yêu nước lên cao trong học sinh, chúng tôi dịch các bài học soạn bằng tiếng Pháp ra quốc văn, in thạch (in bằng cách dùng thạch đổ vào khuôn, in chữ hoặc bản vẽ lên bằng mực đặc rồi truyền sang giấy trắng) để giúp lẫn nhau học cho dễ. Bản thân tôi dịch các bài thực vật học, ít lâu sau thì tôi tham gia 1 tiểu Sở Việt Nam Thanh niên Học sinh Cách mạng Đồng chí Hội. Tôi có viết truyền đơn, in truyền đơn; chúng tôi học quyền, học kiếm. Cuối hè 1927, tôi thôi tham gia phong trào, bỏ cuộc đấu tranh cách mạng. Thế Lữ và Vũ Văn Hiền bền bỉ hơn tôi thêm một thời gian. Một số khác kiên trì đấu tranh cách mạng, bị địch đem đày và làm chết ở Côn Đảo như Nguyễn Văn Hới; giam giữ và quản thúc như Đỗ Kim Điến và Bùi Đắc Thanh (2 anh này chết khoảng năm 1944, 1946), có người tiếp tục hoạt động và còn sống đến nay như Vũ Văn Tấn tức Tố Lang - Xưởng phim Việt Nam.
Năm 1929, tôi tốt nghiệp Cao đẳng Tiểu học. Không có điều kiện học Ban Tú tài “Bản xứ”, về nhà bắt đầu học chương trình Tú tài trung học Pháp. Cuối năm 1930, tôi bắt đầu đi làm và được bổ vào Vinh. Tôi mới lấy vợ, chăm lo hạnh phúc riêng, mải miết học hành [...].
3/ Năm 1937, tôi vào Hội Nhân quyền (Ligue des drois de l’Homme et du Citoyen), chi Hội Nam Vang. Tôi làm phó thư ký, giữ hồ sơ, thu nguyệt liễm, triệu tập các cuộc hội họp, gửi tập san do Hội sở chính ở Paris gửi sang. Tôi ở trong Hội ấy và làm việc cho nó trong khoảng hơn 2 năm. Đến cuối năm 1939, khi tôi đổi từ Cao Miên về Hà Nội thì không tham gia nữa.
Ngày 24 tháng 11 năm 1939, tôi vào chi hội Tam Điểm (Franc Maconnesde) ở Cao Miến, mới là hội viên dự bị. Tháng 6 năm 1940, Pêtanh giải tán hội này. Tôi dính hoạt động trong hội này ở mức thấp, đóng nguyệt phí, hội họp, nghe nói chuyện, tranh luận. Hội này nói chung chống Giáo hội và phát triển dân chủ kiểu tư sản. Chi hội Cao Miên gồm toàn người Pháp, có 2 người Việt (Huy làm dược sĩ và tôi), về Hà Nội, tôi vẫn thuộc một chi hội nhiều người Pháp, ít người Việt (Vũ Đình Mấn - gần đây làm Giám đốc Sở Nông lâm Hà Nội, nay ở Hội đồng Kỹ thuật Bộ Nông nghiệp; Vương Khả Lai; Thẩm Hoàng Tín; Phạm Xuân Độ). Nhưng tôi có hoàn cảnh sang chi hội khác thuộc Gian de Loge de France, là chi hội Khổng Phu Tử. Nhân đấy quen biết những hội viên có vai vế như Phạm Huy Lục, Lê Thăng, Phạm Hữu Chương, Trần Trọng Kim, Trần Văn Lai, Nguyễn Quang Oánh, Nguyễn Văn Luyện, Nguyễn Xiển, Trần Văn Giáp - hồi ấy làm việc ở trường Viễn Đông Bác cổ và sau này là cán bộ thuộc viện Sử học, Phạm Văn Bảng, Nguyễn Đình Quế. Những người này rất thân Pháp, tôi cũng vậy. Sau này có người đi với Nhật (Trần Trọng Kim), có người ở lại Hà Nội, hoặc chưa kịp ra bị Pháp giết (Nguyễn Quang Oánh, Nguyễn Văn Luyện), hoặc bị giam (Trần Văn Lai), có người đi kháng chiến một thời gian lại trở về Hà Nội rồi vào Nam và đi Pháp (Phạm Huy Lục, Phạm Hữu Chương, Phạm Xuân Độ), có người kháng chiến đến cùng và nay là cán bộ tốt của nhà nước (Nguyễn Xiển, Hoàng Minh Giám, Vũ Đình Mấn, Trần Văn Giáp).
[...]
Cuối năm 1939, tôi cùng một số anh em ở Nam Vang diễn vở kịch “Cám ơn ông” của Toan Ánh để lấy tiền giúp chiến tranh cho Pháp.
Trong các năm Nhật chiếm Đông Dương, tôi vẫn ôm ấp hy vọng đi Paris thi bằng Cử nhân Sử học.
[...]
Tôi có chân trong Hội Trí Tú và Hội Khai Trí Tiến Đức. [...] Tôi vào 2 hội từ 1940 đến 1945. Tham gia vào Ban sửa chữa bộ Việt Nam từ điển có Nguyễn Quang Oánh, Trần Văn Giáp, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Duy Thanh. […]
Từ Cách mạng tháng Tám đến 19/12/1946: Làm Chánh văn phòng Đông phương Bác cổ Học viện; Phụ trách Thư viện Học viện này.
Từ 19/7/1947 đến 24/8/1950: Ra kháng chiến, làm việc ở Nha Đại học và Văn phòng Bộ Giáo dục.
Từ tháng 12/1947 đến tháng 7/1949: làm Chánh văn phòng Nha Đại học, kiêm Thư ký văn phòng Trường Đại học Y Dược khoa.
Từ tháng 7/1949 đến 24/8/1950: làm Tham chính, văn phòng Bộ Quốc gia Giáo dục, kiêm Tổng thư ký Ban Sử học Bộ Giáo dục.
Từ 25/8/1950 đến cuối tháng 3/1952: Làm cộng tác viên Ban Sử Địa trường Sư phạm Trung cấp Trung ương, trại viên Trại tu thư của Bộ Giáo dục.
Từ đầu tháng 4/1952 đến đầu tháng 10/1957: Giáo viên Sử Địa Trường Sư phạm Trung cấp Trung ương.
Từ đầu tháng 10/1957: Tham gia Ban tiếp quản trường Viễn Đông Bác cổ. Sau tiếp quản, làm thư ký Ban phụ trách Viện Bác cổ (tháng 1 đến tháng 10/1958); phụ trách Phòng Tập hợp Thư viện Khoa học Trung ương (từ tháng 11/1958 đến 19/1/1963).
Nhà nghiên cứu lịch sử và thư viện học Nguyễn Trọng Phấn (1910-1996)Năm 1975, khi tôi về Viện Thông tin Khoa học xã hội làm việc thì Ông đã nghỉ hưu được 4 năm. Lúc đó Viện Thông tin mới được thành lập trên cơ sở của Ban Thông tin Khoa học xã hội và Thư viện Khoa học xã hội. Thỉnh thoảng vẫn thấy Ông lưng còng, vai đeo túi vải đến cơ quan. Mọi người nói, Ông là Thư ký khoa học đầu tiên của Viện. Và sau này, do công việc tôi đã có nhiều điều kiện tiếp xúc với Ông, nhất là khi tôi tìm hiểu về Học viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO), tôi đã hiểu thêm hơn về ông.
Ông là NGUYỄN TRỌNG PHẤN, sinh năm 1910, quê tại xã Lại Yên, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông cũ (nay thuộc Thành phố Hà Nội), nhưng sinh tại thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ trong gia đình công chức.
Ông là một người thông minh, học giỏi, nhiều năm được phần thưởng hạng ưu. Khi là học sinh Trường Bonnal Hải Phòng, ông cùng các thầy giáo, học sinh của trường tham gia các phong trào yêu nước như đòi ân xá cho Phan Bội Châu năm 1925, tổ chức lễ truy điệu Phan Châu Trinh năm 1926 ở chùa Dư Hàng do Nguyễn Phương Thảo (Trung tướng Nguyễn Bình), tổ chức, tham gia diễn các vở kịch như Lọ vàng, Bạn và vợ ... để lấy tiền cứu giúp đồng bào lũ lụt năm 1927. Cùng năm này, ông và các bạn học như Thế Lữ, Nguyễn Văn Hiển gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, trực tiếp viết, in và rải truyền đơn chống chính quyền thực dân.
Học hết Cao đẳng Tiểu học [36] năm 1931, ông làm tham biện tại Sở Trước bạ ở Vinh và ở Campuchia đến năm 1939.
Vừa đi làm vừa tự học ông đã thi đỗ Tú tài phần một và phần hai Trung học Pháp vào năm 1937. Ông cũng tự học tiếng La-tinh và tìm hiểu văn học cổ điển của Pháp qua các tác phẩm của các nhà văn Pháp thời cận đại và các triết gia cổ Hy Lạp. Sau đó ông đã xin theo học hàm thụ (par correspondance) tại Trường Đại học Paris về Sử Thượng cổ và Sử Trung cổ.
Cũng như nhiều công chức đương thời, ông đã tham gia một số tổ chức như: Năm 1937, tại Phnom Penh ông gia nhập Hội Nhân quyền (Ligue des droits de l’Homme et du Citoyen - Liên đoàn nhân quyền và dân quyền), một tổ chức nhằm theo dõi, bảo vệ và truyền bá Quyền con người, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã tham gia khi ở Pháp. Ông giữ chức phó thư ký chịu trách nhiệm quản lý hồ sơ, thu nguyệt liễm, triệu tập các cuộc hội họp và gửi tập san do Hội sở chính tại Paris gửi sang. Năm 1939, tham gia Hội Tam điểm (Franc-maẹonnerie), qua đó ông quen biết nhiều người Việt có tiếng lúc ấy như Phạm Huy Lục, Lê Thăng, Phạm Hữu Chương, Trần Trọng Kim, Trần Văn Lai, Nguyễn Quang Oánh, Nguyễn Văn Luyện, Nguyễn Xiển, Trần Văn Giáp, Phạm Văn Bảng, Nguyễn Đình Quế...
Tại lớp chỉnh huấn cho Giáo sư và Cán bộ Khu Học xá Nam Ninh, Quảng Tây, năm 1953, ông có viết về động cơ tham gia hai tổ chức này là: “Vì tin chắc rằng Hội Tam Điểm tượng trưng cho lý tưởng của cuộc cách mạng 1789, thể hiện trong khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. Lý tưởng này giải phóng cho cá nhân từng người, cá nhân đã được giải phóng thì dân tộc cũng được giải phóng, không cần đấu tranh đổ máu. Chỉ cần đấu tranh trong khuôn khổ luật lệ của thực dân là mỗi người dân và toàn dân Việt Nam được giải phóng”. Và “tin rằng gia nhập Hội Tam Điểm là đứng vào Mặt trận Bình dân chống Phát xít và như thế cũng là thể hiện được lý tưởng dân chủ của mình rồi” [37] .
Cuối năm 1939, ông về Việt Nam và làm việc tại Thư viện của Học viện Viễn Đông Bác cổ (École franẹaise (EExtrême- Orient - EFEO), ông học thêm nghề thư viện để thi Tham tá (một chức vụ công chức làm cho Pháp), tự học tiếng Nhật và bắt đầu nghiên cứu về sử Việt Nam. Năm 1942, ông được EFEO cử tham dự lớp đào tạo thư ký lưu trữ và thư viện Đông Dương do Toàn quyền Đông Dương mở và là một trong ba người đạt kết quả cao nhất.
Được làm việc với các đồng nghiệp người Việt ở EFEO như Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Giáp... ông đã tham gia một số tổ chức văn hóa tiến bộ thời đó như Hội Trí tri và là thành viên của Ban Văn học của Hội Khai Trí Tiến Đức, trực tiếp tham gia Ban sửa chữa bộ Việt Nam từ điển cùng với Nguyễn Quang Oánh, Trần Văn Giáp, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Duy Thanh...
Ông có những quan hệ thân thiết với các thành viên của Tự lực Văn đoàn như Tú Mỡ, Tô Ngọc Vân, Thế Lữ,.,.
Ông là thành viên trong ban Biên tập Tạp chí Thanh Nghị và được giao phụ trách phần Lịch sử Việt Nam cận đạt ông viết loạt bài khảo cứu về “Xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVII” là những trang dịch “những đoạn sách cổ ghi chép việc thực về đời sống của dân ta ngày xưa”. Trong loạt bài này Ông còn lấy bút danh là Thiện Chân.
Cuối năm 1942, ông gia nhập Hướng đạo Việt Nam, một tổ chức nhằm tập hợp và giáo dục thanh thiếu niên những kỹ năng sống và ý thức công dân và được Việt Nam hóa với trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, Nhiều thành viên Hướng đạo Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc Cách mạng tháng Tám và Kháng chiến chống Pháp [38] .
Khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Học viện Viễn Đông Bác cổ được sáp nhập vào Bộ Quốc gia Giáo dục. Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh số 65 ấn định nhiệm vụ của Đông phương Bác cổ Học viện. Trước đó Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hòe đã ban hành Nghị định 146/NĐ, thành lập một Hội đồng cố vấn tại Đông phương Bác cổ Học viện gồm các ông như Nguyễn Đỗ Cung, Lê Dư, Trần Văn Giáp, Hoàng Xuân Hãn, Cao Xuân Huy, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Khoan, Nguyễn Thiệu Lâu, Đặng Thai Mai, Nguyễn Đức Nguyên (Hoài Thanh), Hồ Đạt Thăng, Nguyễn Văn Tố, Công Văn Trung, Vĩnh Thụy, Đào Duy Anh, Ngô Đình Nhu và Nguyễn Vạn Thọ (Nam Sơn). Chủ tịch Hội đồng là Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên và Thư ký Hội đồng là ông Nguyễn Trọng Phấn. Ngoài ra, ông còn là Chánh văn phòng Đông phương Bác cổ Học viện và phụ trách thư viện Học viện.
Trong kháng chiến, từ năm 1947 đến năm 1957, Ông làm việc tại Bộ Quốc gia Giáo dục, giữ các chức chánh văn phòng Nha Đại học, kiêm Thư ký văn phòng Trường Đại học Y Dược Khoa, Tổng thư ký Ban Sử học Bộ Giáo dục, cộng tác viên Ban Sử Địa trường Sư phạm Trung cấp Trung ương, Trại tu thư của Bộ Giáo dục, Giáo viên Sử Địa Trường Sư phạm Trung cấp Trung ương tại Khu học xá Tâm Hư, Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Hoa.
Năm 1950, tại Đào Giã, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, thuộc chi bộ Văn phòng Bộ Quốc gia Giáo dục. Hai người giới thiệu ông sau này làm việc cùng tại ủy ban Khoa học xã hội: Hoàng Vĩ Nam, Tham chính Văn phòng Bộ Quốc gia Giáo dục (sau này là Viện trưởng Viện Thông tin Khoa học xã hội) và Nguyễn Khánh Toàn, Thứ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục, Bí thư Chi bộ (sau này là Chủ nhiệm ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam).
Khi Chính quyền Pháp bàn giao Học viện Viễn Đông Bác cổ cho Nhà nước Việt Nam, Ông đã được cử tham gia Ban tiếp quản (10/1957 - 1/1958) và sau đó được giao làm Thư ký Ban phụ trách Thư viện Bác cổ, thuộc Bộ Giáo dục (1/1958 - 10/1958). Năm 1959 Thư viện Bác cổ được bàn giao cho ủy ban Khoa học Nhà nước khi ủy ban này được thành lập. Ngày 6/2/1960, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Quyết định thành lập Thư viện Khoa học Trung ương trên cơ sở của Thư viện Bác cổ, ông Phấn đã được bổ nhiệm làm Trưởng phòng Tập hợp, là phòng có nhiều chức năng nhất của Thư viện: có nhiệm vụ thu mua, bổ sung, sưu tầm, trao đổi đăng ký, biên mục, phân loại và biên soạn thư mục thông báo sách mới. Ngoài ra, Ông còn đảm nhiệm chức Thư ký học thuật (Thư ký khoa học) của Thư viện.
Tuy mong muốn của bản thân là được nghiên cứu và giảng dạy sử Việt Nam, nhưng do khả năng, kinh nghiệm và nhiệm vụ được giao, Ông đã tập trung vào việc quản lý và xây dựng thư viện từ những ngày mới thành lập và đào tạo cán bộ trẻ làm công tác thư viện. Với những kinh nghiệm tích lũy được khi làm tại EFEO, ông đã cùng các cán bộ cơ quan soạn thảo các quy tắc nghiệp vụ về bổ sung, biên mục, xây dựng mục lục, thư mục, tổ chức kho sách báo và bảo quản tài liệu. Thư viện EFEO trước đó chỉ có một mục lục chủ đề cho sách hệ chữ La Tinh. Khi Thư viện EFEO được bàn giao cho Chính phủ Việt Nam, ông và các cộng sự đã tìm hiểu một số khung phân loại giản đơn và tạm thời sử dụng Khung phân Trung tiểu hình của Trung Hoa. Năm 1963, ông cùng các ông Đỗ Thiện, Nguyễn Văn Thu sang công tác và tìm hiểu nghiệp vụ Thư viện tại Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Khi trở về Việt Nam, ông đã trực tiếp tổ chức và chỉ đạo nghiên cứu Khung phân loại thư mục thư viện (BBK) của Liên Xô, dịch bộ khung BBK sang tiếng Việt, biên tập lại cho phù hợp với điều kiện phát triển của các ngành khoa học ở nước ta và cho áp dụng thử để phân loại tài liệu một số ngành khoa học. Cũng xin nói thêm, vào thời đó các tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ chỉ sử dụng trong nội bộ, nên không ghi tên các tác giả tham gia, mà chỉ ghi tên cơ quan biên soạn.
Ông là người thông thạo nhiều ngôn ngữ: Pháp, Anh, Hán, Nga, Nhật... Năm 1962, Ông đã cùng các đồng nghiệp tại Thư viện Khoa học Trung ương biên soạn cuốn Từ điển thuật ngữ thư viện học Nga - Anh - Pháp - Việt. Sau này với sự giúp đỡ của Tổ thuật ngữ Viện Ngôn ngữ, một tiểu ban duyệt, bổ sung và chỉnh lý đã được thành lập trong đó có Ông và cuốn từ điển này đã được Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 1972. Ông cũng đã tham gia biên tập Nội san Thư viện Khoa học Trung ương, gồm các bài viết về nghiệp vụ thư viện, tổng kết kinh nghiệm công tác, trao đổi ý kiến, cung cấp thông tin về công tác thư viện ở nước ngoài qua các bài dịch và lược dịch.
Năm 1966, cùng với Quyết định của ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc ủy ban Khoa học Nhà nước chia thành hai cơ quan: ủy ban Khoa học Nhà nước và Viện Khoa học xã hội (sau đó là ủy ban Khoa học xã hội), Thư viện Khoa học cũng tách thành hai: Thư viện Khoa học kỹ thuật Trung ương và Thư viện Khoa học xã hội. ông được phân vẽ Thư viện Khoa học xã hội và làm việc tại đó đến khi nghỉ hưu vào năm 1971. Tuy vậy Ông vẫn còn tham gia các hoạt động khoa học cho đến khi Ông mất vào ngày 3/8/1996.
Do hoàn cảnh gia đình và xã hội, ông Nguyễn Trọng Phấn chưa có được một học vị cao như ông hằng mong muốn. Tuy nhiên với trí thông minh sẵn có và sự tận tụy hăng hái trong hoạt động xã hội, trong công việc, ông đã cống hiến cho xã hội, đất nước với tất cả khả năng và nhiệt tình của mình. Những công trình nghiên cứu và giảng dạy về sử học của ông có ích cho đời sau và với công tác thư viện, ông là người có nhiều công lao xây dựng nền móng cho Thư viện nước nhà.
Ngô Thế Long
Viện Thông tin Khoa học xã hội
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Những ngày cuối cùng của Cụ Nguyễn Trọng PhấnTôi biết Cụ Nguyễn Trọng Phấn là từ cha tôi (nhà văn Sơn Tùng). Cụ là bạn vong niên của cha tôi, mọi người trong gia đình tôi đều yêu quý và kính trọng Cụ.
Cụ Phấn hơn cha tôi 18 tuổi (cha tôi sinh năm 1928). Nhưng vì trọng nhau mà Cụ Phấn gọi cha tôi bằng ông, hoặc anh xưng tôi, còn cha tôi thưa lại bằng Cụ xưng cháu, hoặc gọi là Giáo sư Nguyễn Trọng Phấn.
Mỗi khi có khách của cha đến nhà, tôi thường ngồi sau chiếc tủ ngăn phòng hóng chuyện (một phần do nhà chật nên mọi câu chuyện giữa khách và chủ cứ nhập vào tôi một cách tự nhiên). Tuy vậy, cũng có nhiều lần tôi được ngồi trò chuyện với Cụ, khi Cụ đến mà cha tôi có việc đi vắng chưa về. Ngồi bên Cụ, tôi như ngồi trước ngọn Thái Sơn, bởi vốn kiến thức của Cụ thật lớn lao, hỏi gì liên quan tới văn hóa, lịch sử, địa lý trong nước và cả nhiều nước trên thế giới Cụ đều am tường. Tôi nhớ mãi lời Cụ khuyên: “Cháu nên cố gắng học ngoại ngữ, biết thêm được tiếng nước nào cũng có ích cả, đặc biệt là các nước phương Tây. Có ngoại ngữ ta mới có điều kiện tìm hiểu được nhiều vấn đề mà nước ta không có”. Tóm lại, những điều tôi biết về Cụ không nhiều, chỉ có cha tôi mới là người được Cụ tin tưởng thổ lộ tâm tình. Vì vậy, tôi xin kể ba mẩu chuyện mà tôi biết về Cụ như sau.
Chuyện thứ nhất:... ra đường các cháu cứ tưởng tôi là ông lão ăn mày!Trước khi về sống trong Khu tập thể Văn Chương, ông bà Nguyễn Trọng Phấn và con cháu sống với nhau một nhà ở phố Khâm Thiên. Dương cơ này do cha mẹ Cụ Phấn để lại. Đến đời Cụ gặp khó khăn phải bán đi để lo cuộc sống. Nghe nói nhà vừa bán xong được ít lâu thì cơn sốt đất ở Hà Nội xẩy ra, thành thử tiền bán nhà cũng chẳng được là bao. Sau khi chia cho con cháu, Cụ để lại phần tiền đủ mua một căn hộ rộng chừng 30 mét vuông ở tầng hai, Nhà H, Khu tập thể Văn Chương, hai ông bà về đó ở. Mang tiếng bán cả dương cơ của ông cha giữa trung tâm Hà Nội mà gia cảnh Cụ vẫn không có gì thay đổi. Có chăng, sự thay đổi ấy là cha con mỗi người ở một nơi!
Từ ngày về ở cùng Khu tập thể Văn Chương với cha mẹ tôi (cha mẹ tôi ở Nhà Al), hầu như ngày nào Cụ Phấn cũng sang chuyện trò với cha tôi.
Tôi chưa bao giờ thấy Cụ Phấn đi xe đạp, xe máy hoặc đi xe ôm, mà chỉ thấy Cụ đi bộ. Cụ Phấn có khuôn mặt hơi dài, trán rộng, nước da ngàm đen và cao chừng 1,8 mét, lưng hơi gù khi về già nên trông Cụ bước đi rất khổ sở.
Cụ Phấn có một phong cách lạ, ấy là khi đến với cha tôi, bao giờ Cụ cũng ngồi xuống ngay thêm, cởi dép ra dùng hai tay chống xuống nền nhà nâng người lên, nhích dần chứ Cụ không đi thẳng vào rồi mới ngồi xuống cạnh cha tôi. Lúc ra về Cụ cũng làm động tác như vậy. Còn cha tôi, khi thấy bóng Cụ đi ngang qua cửa sổ nhìn xuống đường, liền buông bút ra phòng ngoài pha sẵn ấm trà đón đợi.
Cụ Phấn ít nói và không nói to hay tranh luận gì với ai. Cụ sống giản dị, chân thành và rất khiêm tốn với cả những người trẻ tuổi như lớp chúng tôi.
Cụ Phấn không ham rượu, ham trà như bác Văn Cao (họa sĩ, nhạc sĩ, thi sĩ), bác Đặng Đình Hưng (nhạc sĩ)... Hai thứ đó đối với Cụ chỉ là vui với bạn “Thả lạc sinh tiền nhất tửu bôi/ Hà tu thân hậu thiên tải danh” (Hãy vui lúc sống một chén rượu/ Cần gì lúc chết để tiếng nghìn đời). Nhưng Cụ Phấn có ham một thứ: đó là “nghiện” đọc báo và đi bộ. Trong cái bị (túi vải) khoác trên vai, luôn có các loại báo, tạp chí Cụ vừa mua trong ngày.
Độ khoảng 5, 6 giờ sáng mỗi ngày, tôi thấy Cụ Phấn lại khoác bị ra đi. Việc đầu tiên là Cụ đi mua báo ở sạp báo lớn như phố Tràng Tiền, Bưu điện Bờ Hồ... sau đó Cụ mới đi công việc của Cụ. Chiều khoảng 3, 4 giờ Cụ Phấn đem những tờ báo đó đến ngồi với cha tôi trước khi về nhà, rồi hai người cùng xem. Có lần tôi nghe Cụ Phấn vân vi với cha tôi: Anh Sơn Tùng ơi! Hoàn cảnh tôi bây giờ khó khăn, nhưng tôi có thói quen thèm đọc báo. Vì thèm đọc báo mà tôi phải nhịn ăn, nhịn mặc để dành chút tiền mua báo. Thành thử ra đường các cháu tưởng tôi là ông lão ăn mày!
Mặc dầu đã ở tuổi ngoài 80, Cụ Phấn đọc báo không đeo kính lão. Khi đọc, Cụ đưa tờ báo lên sát mặt, lướt qua trang báo để chọn tin bài rồi mới đọc. Nếu phát hiện thấy tin gì hay, Cụ trao đổi ngay với cha tôi. Những nhận định của Cụ, cha tôi đánh giá rất cao...
Ở Pháp, có Hội Liên hiệp trí thức Việt Nam tại Pháp, do ông Võ Thành Nghĩa, một kiến trúc sư, người thiết kế tòa nhà Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp làm Chủ tịch Hội. Hội này rất tích cực ủng hộ đường lối cách mạng Việt Nam và truyền bá tư tưởng Hồ Chí Minh trên đất Pháp. Cụ Phấn thường hay trao đổi tin tức báo chí với các bạn trí thức Hội liên hiệp này qua thư từ như: Giáo sư Hoàng Xuân Hãn (1908 - 1996)... Tôi nhớ một lần, Cụ Phấn đưa cha tôi xem bức thư của một người bạn từ bên Pháp gửi về cho Cụ, nói về chuyến đi sang Pháp thành công của Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong việc vận động Mỹ dỡ bỏ cấm vận Việt Nam... Cha tôi đọc xong xin Cụ cho photo lại làm tư liệu. Nhờ đó mà tôi được đọc. Tôi xin trích nguyên văn bức thư như sau:
Paris ngày 28/7/1993
Kính thăm Bác Trọng Phấn
Cháu xin cảm ơn Bác rất nhiều đã gửi thư từ thăm hỏi và cho tin tức quê nhà, thật không gì quý hơn là chính người trong nước, đầy kinh nghiệm và kiến thức nhận định tình hình Việt Nam. Cháu hi vọng Bác vẫn nhận và đọc đều báo Lemde dipiomtique và nghe đài RFI của Pháp. Thỉnh thoảng RFI cũng phỏng vấn cháu - cụ Đốc tờ Phán dạo này yếu nhiều vì năm nay cũng đã 88 tuổi.
Cuối tháng sáu vừa qua, Thủ tướng Võ Văn Kiệt có dẫn phái đoàn Bộ trưởng sang Pháp đáp lễ Tổng thống Miterand và ký một số hợp tác, cháu đã được nói chuyện riêng với Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Cuộc viếng thăm ngoại giao này thu lượm được nhiều kết quả: Pháp đã thành công yêu cầu Mỹ bỏ cấm vận và Pháp đã ký nhiều để án kỹ nghệ, khoa học, kỹ thuật văn hóa để giúp Việt Nam phát triển lành mạnh và mau lẹ.
Trong những tháng năm tới, mỗi hợp tác Việt - Pháp sẽ thân thiết và phát triển nhiều.
Như vậy những chuyên gia Việt kiều lại có nhiều cơ hội về góp phần tái thiết và mở mang quê hương.
Hi vọng nay mai sẽ được hầu chuyện Bác và xin cầu chúc hai Bác và quý quyến dồi dào sức khỏe và hạnh phúc.
Giáo sư Nguyễn Đức Nhuận
Địa chỉ nhà: 8 RUE DU SOUVENIR
94250 GENTILLY
P/S: Xin Bác cho cháu gởi lời hỏi thăm Anh Sơn Tùng các tác phẩm của Anh rất có giá trị.
Chuyện thứ hai: Cách mạng đến là tôi đi theo Cụ Hồ ngayNăm 1992, một niềm vui hiếm hoi đến với Cụ Nguyễn Trọng Phấn là được về thăm lại mảnh đất Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, điều mà bấy lâu Cụ ao ước.
Có được niềm vui ấy là nhờ ông Nguyễn Sĩ Hóa, bác sĩ giám đốc trại Phong Quỳnh Lập, huyện Quỳnh Lưu (sau này là Phó Giám đốc Bệnh viện Da liễu Trung ương) có thư mời cha tôi và các anh em Chiếu Văn về thăm, nói chuyện Bác Hồ cho cán bộ và bệnh nhân bị bệnh Phong của trại nghe, nhân kỷ niệm 19/5 ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh. Chuyến đi đó có nhà văn Sơn Tùng, nhà văn Siêu Hải, nhà văn Mạc Phi, nhà báo Phùng Văn Mỹ, bác Trần Bá, bác Trần Xuân Thảo (hậu duệ Đề đốc Trần Xuân Soạn) và Cụ Nguyễn Trọng Phấn.
Trước ngày vào Quỳnh Lưu, tôi nghe Cụ Phấn tâm sự với cha tôi. Cụ nói:
Quỳnh Lưu, Nghệ An mảnh đất nơi tôi có nhiều kỷ niệm. Cha tôi làm công chức được người Pháp bổ dụng vào Kẻ Hàu, (nay thuộc xã Phú Đức) huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An để quản lý muối một thời gian. Theo sắc lệnh của Phủ Toàn quyền từ năm 1903, Pháp cấm người Việt Nam kinh doanh các mặt hàng như: Muối, rượu, thuốc lào, thuốc phiện... Năm 1924, tôi theo cha vào học trường Thanh Sơn (ở làng Thanh Sơn nay thuộc xã Sơn Hải). Vì năm đó, huyện Quỳnh Lưu người Pháp mới mở thêm 6 trường Kiêm bị (École Préparatoire). Riêng tổng Thanh Viên có trường Kiêm bị ở làng Thanh Sơn. Làng này xưa còn có tên gọi nữa là Kẻ Ngò, hay làng Ngò nổi tiếng nghề trồng thuốc lào thơm ngon.
Nhắc đến thời theo cha vào đất Quỳnh Lưu đi học là để nhớ về một chuyện.
Đầu năm 1931, phong trào Cộng sản ở Nghệ An đang dâng cao, tối được bổ dụng về làm thông phán tại Sở Cađat ở Vinh, Nghệ An. Năm đó tôi đã 20, 21 tuổi. Ngày đầu tiên đến nhận việc, tôi bất ngờ chứng kiến một chuyện đau lòng.
Sáng hôm đó, chủ Sở người Pháp tên là Sa Ven Nông trên đường đi vào cửa Sở, gặp phải một việc... (tôi xin lỗi ông) không biết kẻ nào dám đại tiện một bãi bên đường, có lẽ người của Sở chưa kịp dọn. Thấy vậy, tên chủ Sở, nét mặt hằm hằm đi thẳng vào liền sai một ông thông phán bấy lâu đang làm việc tại Sở ra hót đi cho nó. Cái ác của tên chủ Sở là nó bắt ông thông phán đó phải hót phân bằng tay chứ không được dùng thứ khác để hót. Nó bảo: "Cái giống An Nam chúng mày ăn ở bẩn thì phải dùng tay mà hót...” Tôi thấy đây là một sự sỉ nhục người nước mình, sỉ nhục trí thức! Ông nghĩ coi (Cụ Phấn nói với cha tôi): Một ông thông, ông phán, thầy ký về làng rất được người dân trọng vọng, thế mà ở đây lại bị thằng Tây chửi là “giống ăn ở bẩn” bắt lấy tay mà hót phân thì nhục quá! Cho nên - Cụ Phấn nhận xét: chúng ta đừng tưởng rằng: Nước mất chỉ có dân nô lệ, còn mình là trí thức, là công chức của Pháp thì không phải nô lệ. Nước đã mất thì ai cũng là nô lệ! Nhiều trí thức trẻ ngày nay không được chứng kiến cái nhục của người dân bị mất nước!
Tôi làm ở sở Cađat ở Vinh được 3 tháng thì xảy ra chuyện. Hôm đó, khi tôi vừa làm xong bộ hồ sơ chỉ còn việc đưa sang chủ Sở Sa Ven Nông để xin chữ ký, ngồi buồn nhớ nhà, nhớ cha mẹ. Khi tôi đưa chồng hồ sơ để lên bàn trước mặt tên chủ Sở chờ ký. Bỗng nhiên tôi bị ho theo phản xạ không nén kịp, vì mấy hôm trước tôi bị cảm cúm do thời tiết thay đổi. Không ngờ khi ho nước miếng tôi bắn cả lên sổ, lên mặt bàn. Tôi chưa kịp xin lỗi tên chủ Sở để lấy khăn lau. Không ngờ tên chủ Sở bắt tôi phải liếm ngay. Nhục quá ông ạ! Tôi không thể nào chấp nhận mình đi làm công chức cho một thằng Tây bắt liếm nước miếng cùa mình do cái ho vô tình bắn ra.
Tôi từng được thầy người Pháp trường Thanh Sơn dạy cho biết đọc biết viết chữ Tây, để rồi ra làm việc cho Tây. Nhưng cuối cùng người Tây lại làm nhục tôi, làm nhục những trí thức từng học chữ Pháp ngay trên mảnh đất của Tổ quốc mình. Sau chuyện đó, tôi bỏ công việc ở Sở Cadat Vinh về lập gia đình và tiếp tục đi học để làm việc khác, chứ không theo nghề thông phán nữa. Và khi Cách mạng đến là tôi đi theo Cụ Hồ ngay!
Chuyện thứ baNăm 1993. Ngày mồng 1 Tết đầu năm, Cụ Nguyễn Trọng Phấn dẫn hai ông Tây đến nhà tôi xông đất. Đây là lần đầu tiên cha mẹ tôi có khách nước ngoài đến xông đất đầu năm. Thông thường, ngày mồng 1 Tết cha mẹ tôi không có khách, chỉ có con cháu trong gia tộc về chúc Tết ông bà, cha mẹ. Từ ngày mồng 2 Tết trở ra mới có khách, nhưng phần nhiều khách đến nhờ cha tôi xem “giò gà” để biết vận hạn năm đó ra sao? Những người đến nhờ xem giò gà không chỉ có giới văn chương, mà có cả doanh nhân, chủ thầu xây dựng... Họ bảo, nhà văn Sơn Tùng có căn, cốt, tuệ, tâm nên xem giò gà rất linh nghiệm, mọi sự diễn ra đúng như lời nhà văn phán vậy...
Hai ông Tây đến xông đất đầu năm, người quốc tịch Pháp. Một người là nhà văn kiêm nhà báo và một người là kiến trúc sư. ông nhà văn kiêm nhà báo này đứng cao hơn cửa ra vào nhà tôi có cái tên rất dài tôi không nhớ, chỉ nhớ được cái kiểu ông ấy ngồi. Vì khổ người cao quá dễ đến 2,5 mét, bụng to mà phòng khách nhà tôi lại không có ghế salon để ngồi. Bởi vậy ông ấy phải chống tay ngồi bệt xuống nền nhà như mọi người, lưng tựa vào chiếc tủ ngăn phòng, hai chân không khoanh được, mà phải duỗi thẳng hình chữ V ra phía trước. Còn ông kiến trúc sư tên là Ăcnôn (tôi nghe Cụ Phấn gọi như vậy) chỉ to cao hơn tôi thôi.
Sau lời chúc tụng nhau, bấy giờ Cụ Phấn mới cho cha tôi biết lý do. Cụ nói:
Thưa ông, tôi tình cờ gặp họ ở Văn Miếu. Hôm đó tôi đang ở đó thì thấy hai ông Tây này đang tìm hiểu kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám, nhưng vốn tiếng Việt có hạn nên phải nhờ hướng dẫn viên du lịch dịch hộ. Cô hướng dẫn viên hôm đó nói cũng không đầy đủ. Thấy vậy, tôi mới xen vào nói bằng tiếng Pháp, dịch cả chữ Hán sang tiếng Pháp cho họ hiểu.
Hai ông Tây vô cùng ngạc nhiên, thấy một ông già ăn mặc lôi thôi, chân đi dép sứt cả mũi sao nói tiếng Pháp chuẩn đến vậy mà lại rất am tường lịch sử, văn hóa và kiến trúc khu Văn Miếu. Bấy giờ họ mới hỏi tôi là ai, tôi mới nói cho họ biết. Khi biết tôi từng làm nhiều năm ở trường Viễn Đông Bác Cổ, họ mừng lắm và nhờ tôi giúp đỡ trong thời gian còn ở Hà Nội.
Thế rồi họ đề nghị: “Tết năm nay chúng tôi muốn được biết một số phong tục tập quán ăn trong một bữa ngày Tết, xin ngài giới thiệu cho chúng tôi một số gia đình để tham quan”.
Tôi thấy đây là một việc khó, không phải ai cũng dễ thông cảm. Theo tục lệ ngày đầu năm nhà nào mà chẳng kiêng cữ chọn người xông đất... Cuối cùng, tôi nghĩ chỉ có gia đình ông bà là có thể thông cảm được, nên tôi đưa họ đến đây.
Sau lời trình bày của Cụ Phấn, lúc bấy giờ cha tôi mới rót chén rượu xuân, mời mọi người cùng nhau chúc sức khỏe và ăn với nhau một bữa sáng đơn sơ mang hương vị của ngày Tết. Ông nhà văn kiêm nhà báo nói với cha tôi đại ý rằng: Chúng tôi sang đây là để tim hiểu về văn hóa và kiến trúc nơi ăn của người Việt Nam. Dựa trên những đánh giá của người đi trước, chúng tôi vào vùng Nam Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó mới ra Huế, ra Nghệ An lên Nam Đàn thăm quê Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm hiểu mất 3 tháng, Thành phố Hà Nội là chặng dừng chân cuối cùng. Chúng tôi sang đây bằng tiền cá nhân, nên không có điều kiện ở lâu. Nhưng cũng phải cố gắng tìm hiểu và phát hiện những vấn đề mới mẻ, để khi về nước mới mong kiếm được tiền bù đắp cho chuyến đi...
Cái may mắn nhất là khi đến Hà Nội, chúng tôi gặp được ngài Nguyễn Trọng Phấn. Ngài đã có nhiều năm làm việc tại trường Viễn Đông Bác Cổ. Những người nghiên cứu như chúng tôi ở bên Pháp không ai lại không biết trường Viễn Đông Bác Cổ, nơi lưu giữ hàng ngàn hồ sơ văn bản được nghiên cứu, khai quật khảo cổ ở Việt Nam và toàn xứ Đông Dương. Ngài Trọng Phấn rất uyên bác, những kiến thức của ngài đã giúp chúng tôi có được một sự đánh giá rất khách quan sau chuyến đi nghiên cứu thực địa vừa qua...
Kết thúc câu chuyện, ông Ăcnôn, nhà kiến trúc nói một điều:
Hà Nội, thủ đô của các ngài đẹp vô cùng, kiến trúc nhà cửa, đền đài, cảnh quan hài hòa giữa con người với thiên nhiên. Rõ ràng đây là một nên văn hóa triết học của phương Đông... Cảnh quan từ Tháp Rùa Hồ Gươm, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc... một quần thể kiến trúc hài hòa... Chúng tôi đến thăm ngôi nhà sàn của Chủ tịch Hồ Chí Minh giữa một nền xanh bao la của khu vực Ba Đình... hòa hợp kiến trúc với ngôi chùa Một Cột, đền Quan Thánh... Nhưng khi đến tham quan Hồ Tây, chúng tôi xót xa quá... Cả cái hồ Tây đẹp thế này, sao người ta lại xây nhà cao 5, 7 tầng bao quanh cái hồ? Tôi tin rằng, rồi đây đất nước các ngài sẽ giàu có. Mỹ sẽ bỏ cấm vận, các nhà tư bản sẽ vào đất nước các ngài để xây dựng. Nhưng xây dựng làm sao đừng để mất đi bản sắc văn hóa Việt Nam. Còn ngược lại, thì đó là sự phá hoại!
Thay lời kếtCó thể nói, cuộc đời Cụ Nguyễn Trọng Phấn buồn nhiều hơn vui. Sinh ra từ gia đình có cha làm công chức thời Pháp thuộc. Đẹp trai, thông minh, vốn sinh ngữ 5, 7 thứ tiếng: La tinh, Pháp, Anh, Nga, Hán, Nhật... Vậy mà đường tình duyên của Cụ xem ra cũng không trọn vẹn.
Theo lời kể của vợ chồng người cháu nội Cụ, anh Nguyễn Trung Thành cho biết: Người mà Cụ muốn lấy làm vợ là em gái cụ bà. Nhưng khi rước dâu về nhà lại là cô chị (tức cụ bà bấy giờ). Trước hoàn cảnh trớ trêu như vậy, chú rể Nguyễn Trọng Phấn rất đau lòng nhất quyết không cùng chung chăn gối với người mà mình không yêu, mặc cho cha mẹ tìm mọi cách thuyết phục.
Biết lòng con đã quyết, một hôm người cha đưa con trai ra trước bờ sông nói:
Chuyện nhân duyên của hai con là do cha mẹ hai bên hứa hôn với nhau, nhưng không ngờ cơ sự lại xảy ra thế này. Và cha mẹ cũng đã hết lời khuyên nhủ, mà con thì nhất quyết không nghe. Giờ thì cha cũng chẳng thể nào gặp lại ông bà bên ấy để nói lại. Thôi thì hôm nay, cha con ta đứng trước dòng sông này, cha hỏi con một lần cuối, nếu con nhất quyết không theo, cha đành phải đẩy con xuống sông rồi cha cũng sẽ gieo mình chết theo con tại bến sông này!
Sau câu chuyện tình ngang trái như vậy, tôi không được nghe ai kể tiếp về cuộc sống của hai Cụ sau đó ra sao? Tuy nhiên, từ khi biết Cụ, tôi dám chắc một điều: Những năm tháng cuối đời, Cụ Phấn rất thương vợ! Cụ thường nói với cha mẹ tôi một điều: “Tôi rất thương bà nhà tôi, tôi đi suốt ngày, còn bà ấy ở nhà một mình, buồn. Cho nên, ra ngoài có miếng ăn ngon bao giờ tôi cũng nghĩ đến bà nhà tôi!”.
Quả đúng vậy. Cha mẹ tôi biết hoàn cảnh Cụ khó khăn, ngày ăn hai bữa, nên mỗi khi nhà có miếng ăn chín như: củ khoai, quả chuối chín, hay tấm bánh, khoanh giò lụa thường hay đem ra mời Cụ. Mỗi lần như vậy, Cụ chỉ xin một ít mang về chứ không ăn. Biết tính cụ ông thương cụ bà, mẹ tôi phải nói trước để Cụ an lòng: “Cháu mời Cụ xơi ạ, phần cụ bà cháu đã gói riêng để lát nữa Cụ mang về!”. Hoặc có đêm cụ ông ngồi đọc báo, bà kêu khó ngủ bắt tắt đèn. Cụ Phấn mang báo ra ngồi xem dưới ánh đèn ở chân cầu thang ngoài hành lang Khu tập thể... Chuyện Cụ Phấn thương yêu nhường nhịn cụ bà, những người sinh hoạt Chiếu Văn ở trong nhà tôi, hầu như ai cũng biết.
Có thể nói, cuộc sống những năm tháng cuối đời của Cụ Phấn cứ thế mà chậm chạp trôi, cho tới một ngày cụ bà qua đời, Cụ Phấn buồn bỏ bữa, tôi không còn gặp cảnh sáng ra thấy Cụ mang bị đi mua báo nữa. Cụ bà mất, con trai Cụ đón cha về nhà săn sóc. Trước khi đi, Cụ Phấn sang chào từ biệt cha mẹ tôi. Tôi thấy hai mắt Cụ đọng lệ, như giọt sương trên lá tre già, giọng nghèn nghẹn... Cha tôi tiễn Cụ xuống tận chân cầu thang Khu tập thể.
Từ ngày Cụ Phấn về với con trai Cụ ở quận Thanh Xuân, cho đến ngày qua đời, dường như Cụ không đi đâu được nữa. Cha tôi nhớ Cụ, rủ mấy anh em sinh hoạt Chiếu Văn xuống thăm. Được gặp lại nhau, Cụ mừng lắm...
Năm Cụ Phấn qua đời, cũng là năm nhiều người trong nhóm Chiếu Văn cũng đã ra đi trống Chiếu. Cụ Phấn mất vào hồi 4 giờ 45 phút, ngày mồng 3 tháng 8 năm 1996. Trước đó, ngày 19 tháng 5 nhà văn Mạc Phi - lá thơm rơi về cội; Ngày 27 tháng 3 nhà học giả Đào Phan về với thế giới người hiền.
Ngày di quan Cụ mưa trắng trời Hà Nội, cả gia đình tôi và anh em Chiếu Văn vẫn đội mưa đi dưới hàng chữ: “Vô cùng thương tiếc Giáo sư, Nhà giáo, Nhà báo, Nhà nghiên cứu Nguyễn Trọng Phấn”.
Một nén tâm nhang vạn lời nhớ Cụ!
Ngõ Văn, ngày 3/8/2016